Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong sát na dị thế.
(Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư)
Impermanent, the old man is sick and unloving. The Emperor of Extinction died instantly.
(Quy Son Dai Yuan Zen Master)
Đọc câu văn trên bằng chữ Hán, có nhiều người sẽ hiểu đại khái là: Vô thường già bịnh không hẹn một ai. Sớm còn tối mất, trong khoảng sát na đã qua đời khác…. Dĩ nhiên là bài văn Cảnh Sách nầy còn nhiều đoạn ở trước và sau đó nữa, chứ không phải chỉ có hai câu nầy. Đây là sách gối đầu giường của những Chú và Cô Sa Di, Sa Di Ni lúc mới thọ giới xong, cần phải học thuộc lòng. Thế nhưng, đây cũng không phải chỉ hoàn toàn dành cho người mới vào cửa Đạo, mà những vị thâm niên ở chùa năm, bảy chục năm khi đọc lại những đoạn văn Cảnh Sách như thế nầy ngẫm ra thấy cũng thấm thía vô cùng. Trong giới tu hành không ai phủ nhận điều nầy cả, mà ngay cả người Phật tử hay người khác Đạo, khi nhận chân ra được sự vô thường của mọi vật thể trên thế gian nầy, thì cũng đều công nhận lời dạy của Tổ Quy Sơn chẳng sai một mảy may nào.
Reading the above sentence in Chinese characters, many people will roughly understand: Impermanent, old and sick, do not date anyone. Early and dark, in an instant he passed away.... Of course, there are many passages before and after this passage, not just these two. This is the bedside book of the uncles and concubines who have just finished their ordination, and need to memorize them. However, this is not only for newcomers to the Tao, but those who have been in the temple for five or seventy years when they re-read passages like this are also extremely poignant. In the monastic circles, no one denies this, but even Buddhists and non-Buddhists, when they realize the impermanence of all objects in this world, recognize that the teachings of Ancestor Quy Son are not wrong in the slightest.
Sở dĩ kỳ nầy tôi lấy đề tài hơi dài như vậy, vì sau khi Thầy Trò chúng tôi đã ở tại Tu Viện Vô Lượng Thọ, nơi Thầy Hạnh Tấn Trụ Trì gần một tuần lễ để dịch quyển “Giới Đàn Tăng” của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa sang tiếng Đức, nhằm giúp cho các thế hệ đi sau ở ngoại quốc nầy dễ hành trì khi trao truyền các giới như: Ngũ giới, Sa Di, Sa Di Ni, Bát Quan Trai giới, giới Bồ Tát Xuất Gia và tại gia, giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni cho người Đức cũng như người Việt dễ hiểu hơn, đồng thời cũng để tán dương công hạnh của chư Tổ Sư Việt Nam đã truyền thừa qua các thời đại, không giống hệt những Tổ Sư khác của Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn hay Tây Tạng, mà chúng ta có một văn hóa riêng, một ngôn ngữ riêng, khi đã xay nhuyễn từ chữ Hán như Phật giáo Nhật Bản đã làm lâu nay. Kế đó chúng tôi lái xe sang thủ đô Phraha của Tiệp Khắc vào cuối tuần từ ngày 21 cho đến ngày 24 tháng 2 năm 2020 vừa qua. Trước đó phái đoàn chúng tôi cũng đã có ghé thăm Chùa Giác Ý của Thầy Hạnh Tâm tại Zwickau, Tịnh Thất nơi Thầy Hạnh Nhơn ở tại Muda và trên đường đi Finsterwalde ở Pechhutte cũng như địa phương điện ảnh nổi tiếng Karlovy Vary(Karlsbad) cả hai nơi đều có Tu Viện Pháp Quang và Pháp Quang Chơn Pháp do Thầy Thích Pháp Nhật Trụ Trì. Nơi rừng rậm và những cánh đồng hoang, ở tận chỗ rừng tối tăm(Finsterwalde)như thế, mà có ánh sáng Phật Pháp để cho những người Việt và Đức theo học Thiền thì quả thật là quá tuyệt vời rồi. Hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 2020. Ngày nầy, tháng nầy, năm nầy có đến 5 con số 2 và cũng là ngày tôi đã ở ngoại quốc đúng 48 năm, và khi quý vị đọc bài nầy của tôi viết thì đã sang năm thứ 49 mà tôi đã ở ngoại quốc rồi. Đó cũng là vô thường vậy. Vì ngày 22/2/1972 khi tôi rời nước Việt sang Nhật Bản du học, thì tôi cũng đã chẳng nghĩ rằng mình phải ở lại ngoại quốc cho đến ngày hôm nay. Chỉ còn gần 2 năm nữa là tôi sẽ ở ngoại quốc được nửa thế kỷ rồi còn gì nữa. Ở đây cũng có sự trùng hợp lạ thường là trưa đó Thầy Pháp Nhật dẫn phái đoàn Thầy trò chúng tôi đến nhà hàng Mr. Tokyo chưa khai trương, để dùng trưa theo truyền thống cơm chay của Nhật Bản gồm Sushi, cơm bì và tráng miệng theo phong thái Nhật. Người ta sẽ dễ bị gợi nhớ lại khi một sự kiện gì đó trong quá khứ hiện trở về, nên hôm đó tôi đã phóng bút viết tặng bằng chữ Hán Nhật như: Đa Phúc, Đa Lộc, Đa Thọ, Đa Tài để tặng cho chủ nhà hàng và thầm cầu nguyện cho cửa hàng nầy luôn buôn may bán đắc.
The reason why I took such a long topic this time is because after our teachers and students stayed at the Monastery of Immeasurable Life, where Master Hanh Tan was the Abbot, for nearly a week to translate the "Precepts of the Sangha" by the late Venerable Thich Thien Hoa into German, in order to make it easier for the next generations in this foreign country to practice when transmitting the vows such as: The Five Precepts, the Sadhisattva, the Sagittarius, the Eightfold Precepts, the Ordained and Lay Bodhisattva Precepts, the Bhikkhus, and the Bhikshuni vows are easier to understand for the Germans as well as the Vietnamese, and at the same time to praise the merits of the Vietnamese Ancestors that have been passed down through the ages. unlike other Chinese, Japanese, Korean, or Tibetan masters, we have our own culture, our own language, when we have been pureed from Chinese characters as Japanese Buddhism has done for a long time. We then drove to Phrague, the capital of Czechoslovakia, on the weekend from February 21 to 24, 2020. Earlier, our delegation also visited Hanh Tam's Giac Y Temple in Zwickau, the Pure That where Hanh Nhon stayed in Muda and on the way to Finsterwalde in Pechhutte as well as the famous film district of Karlovy Vary (Karlsbad), both of which have the Phap Quang Monastery and the Phap Quang Chon Dharma Abbot led by Thich Phap Nhat Nhat Abbot. In the jungle and the wilderness, in the dark forest (Finsterwalde) like that, to have the light of the Dharma for Vietnamese and Germans to study Zen is indeed too wonderful. It was February 22, 2020. This day, this month, this year, there are 5 numbers 2 and it is also the day that I have been abroad for exactly 48 years, and when you read this article of mine, it is already the 49th year that I have been abroad. That is also impermanent. Because on February 22, 1972, when I left Vietnam to study in Japan, I didn't think that I would have to stay abroad until today. There are only nearly 2 years left until I will be abroad for half a century. There is also a strange coincidence here that that afternoon the Japanese shaman led a delegation of teachers and students to the unopened Mr. Tokyo restaurant, to have lunch according to the Japanese tradition of sushi, rice wrappers and desserts in the Japanese style. so that day I launched a pen to write a donation in Chinese and Japanese characters such as: Da Phuc, Da Loc, Da Tho, Da Tai to give to the restaurant owner and silently prayed for this store to always sell well.
Chiều tối hôm ngày 22/2/2020, phái đoàn chúng tôi đã đến thành phố điện ảnh Karlovy Vary (Karlsbad) vốn khá nổi tiếng tại xứ cách mạng mùa Xuân nầy. Khi nói đến thành phố nầy bằng tiếng Tiệp hay cả tiếng Đức, mọi người không ai là không biết. Trước biên giới giữa Đức và Tiệp có một địa phương được gọi là Schwarzenberg(Núi Đen) và khi đến biên giới thì thấy vô số hàng hóa áo quần do người Việt Namđiều hành phân phối. Chỉ cách có một biên giới thôi, nhưng cách sống của người Việt ở hai nước khác nhau vô cùng. Ở Đức đa phần người tỵ nạn hay những du học sinh trước đó đều được vào làm trong các hãng xưởng hay các cơ quan chính quyền. Ngược lại ở Tiệp Khắc đa phần người Việt Nam đến đây bằng lao động chân tay, nên sau cách mạng nhung của Tiệp Khắc vào năm 1989, họ đã ra kinh doanh tự túc và lập nên những cửa hàng dã chiến tạm bợ để sống qua ngày. Chỉ có thế hệ thứ hai, con cái của họ được sinh ra tại nơi đây, chúng khá thành công trong vấn đề học vấn, nên hầu như không có thanh niên nam nữ nào ở thế hệ thứ hai nầy muốn tiếp tục công việc buôn bán của cha mẹ chúng nữa. Chỉ mới một thế hệ thôi, mà đã có nhiều thay đổi như vậy.
On the evening of February 22, 2020, our delegation arrived in the film city of Karlovy Vary (Karlsbad), which is quite famous in the country of revolution this spring. When it comes to this city in Czech or German, no one is ignorant. In front of the border between Germany and Czechoslovakia, there is a locality called Schwarzenberg (Black Mountain) and when you reach the border, you see a multitude of clothing goods distributed by Vietnamese. There is only one border away, but the way of life of Vietnamese people in the two countries is extremely different. In Germany, most refugees or former international students are employed in factories or government agencies. On the contrary, in Czechoslovakia, most Vietnamese people came here by manual labor, so after the velvet revolution of Czechoslovakia in 1989, they went into business on their own and set up temporary field shops to survive. Only the second generation, their children were born here, they were quite successful in education, so that hardly any young men and women of this second generation wanted to continue their parents' trade. It's only been a generation, and so many have changed.
Sáng sớm ngày 23/2/2020, Thầy Trò chúng tôi sau thời Lăng Nghiêm lại lên đường hướng về Phraha để đến chùa Quan Âm, nơi Thầy Quảng Chánh Trụ Trì. Phraha tôi đã một lần đến, cách đây chừng 25 năm về trước và hôm nay là lần thứ hai. Vẫn những cánh đồng bát ngát trải dài như xưa cũ, nhưng đường sá bây giờ có phát triển hơn. Tuy xa lộ chưa được trải nhựa hết từ Karlsbad, nhưng nay mai chắc chắn xa lộ sẽ được nối liền thẳng tắp từ đó cho đến thủ đô quan trọng nầy. Nước Tiệp chỉ có độ trên dưới 10.000.000 dân, trong khi đó có đến 60.000 người Việt Nam sang đây lao động, buôn bán làm ăn và tất cả hầu như đều tập trung tại Phraha. Nơi đây có trung tâm thương mại SAPA và các chùa Vĩnh Nghiêm, Quan Âm v.v… tuy nói là chùa, nhưng trên thực tế chỉ là những căn nhà thuê tạm để chờ cơ hội phát triển lớn mạnh hơn, khi những Phật tử ở đây đã có đầy đủ điều kiện vật chất. Tại chùa Quan Âm chúng tôi đã chia sẻ pháp thoại về những ngày lễ vía Phật và Bồ Tát trong tháng hai âm lịch mỗi năm, cũng giống như tại Karlsbad chúng tôi đã nói về Thiền Phái Trúc Lâm, hay ở Finsterwalde chúng tôi trao đổi về Tiểu Tam Tai và Đại Tam Tai theo “Phật nói Luận A Tỳ Đàm về việc thành lập thế giới”. Cả ba nơi nầy Thầy Hạnh Giới, Thầy Hạnh Bổn, Thầy Thông Triển cũng đã chia sẻ những câu trả lời đến với Quý Phật tử hiện diện.
Early in the morning of February 23, 2020, our teachers and students after the Lang Nghiem period set off again towards Phraha to go to Quan Am Pagoda, where Master Quang Chanh is the Abbot. Phraha I came once, about 25 years ago, and today is the second time. There are still vast fields stretching as in the past, but the roads are more developed now. Although the highway has not been fully paved from Karlsbad, tomorrow it will certainly be connected directly from there to this important capital. Czechoslovakia has only about 10,000,000 people, while up to 60,000 Vietnamese come here to work, trade and do business, and almost all of them are concentrated in Phrague. This place has the SAPA commercial center and Vinh Nghiem, Quan Am pagodas, etc. Although it is said to be a pagoda, in fact it is only a temporary rented house to wait for the opportunity to develop stronger, when the Buddhists here have all the material conditions. At Guanyin Temple we shared talks about the Buddha and Bodhisattva holidays in the second lunar month each year, just as in Karlsbad we talked about the Truc Lam Zen Sect, or in Finsterwalde we talked about the Lesser Three Ears and the Great Three Ears according to the "Buddha's Treatise on the Founding of the World". In all three places, Master Hanh Kai, Mr. Hanh Bang, and Mr. Thong Trien also shared their answers to the Buddhists present.
Buổi chiều ngày 23/2/2020, Phái đoàn chúng tôi được Thầy Quảng Chánh và các Phật tử địa phương dẫn thăm phố cổ Phraha, cầu Vua, xem đồng hồ cổ và chochim trời ăn v.v… đây là những kỷ niệm thật khó quên khi nhớ lại những ngày ở Tiệp Khắc lần nầy. Đồng hồ mỗi giờ có con gà trống ở bên trên lầu thò đầu ra gáy và 12 Thánh Tông Đồ chạy quanh đủ 12 lần quay của kim giờ trong vòng một phút và cứ như thế ngày đêm 24 lần và mỗi lần như vậy có cả hằng trăm, hàng ngàn người đến từ khắp nơi trên thế giới tập trung tại quảng trường nhỏ hẹp nầy chỉ để xem con gà gáy mà thôi. Không biết về đêm thì như thế nào, nhưng chắc rằng dầu cho con người thức hay ngủ thì con gà trống kia vẫn ra chào khách đúng 24 lần như vậy trong một ngày, một đêm. Chắc rằng đồng hồ nầy cũng bị sự vô thường chi phối trong nhiều thế kỷ qua; nhưng người ngồi giật giây chuông đồng hồ vẫn kiên nhẫn kéo lên nhấn xuống nhiều lần như thế trong ngày, trong tháng, trong năm cho đến khi chỉ còn những đốt xương hiện nguyên hình như thế, mà ông ta vẫn không dám lơ là về nhiệm vụ kéo giây thiều của mình. Tiếp đến phái đoàn chúng tôi đi xem cây cầu Vua, mà đa phần người Việt Nam sinh sống tại đây đều gọi là cây cầu Tình, vì ở bên cạnh cây cầu nầy, những đôi nam nữ yêu thương nhau thường hay đến đây tự khóa chiếc khóa bằng sắt vào thành cầu để chứng minh cho sự chung thủy của họ. Nó cũng giống như chiếc cầu Tình trên sông Seine tại Paris vậy. Cả hằng ngàn, hằng vạn ổ khóa đã được khóa chặt trên thành cầu nầy, nhưng không biết đã có được bao nhiêu cặp giữ lại được ổ khóa tình duyên ấy cho đến khi đầu bạc răng long và cũng không biết có bao nhiêu người đã ngựa sang đường mới? Việc nầy chỉ có người trong cuộc mới biết được, còn chúng ta là khách bàng quan, chỉ đến đây một lần rồi từ giã thành phố thơ mộng nầy, thì làm sao chứng thực được rõ ràng những lời thề non hẹn biển ấy. Gió lộng làm chúng tôi xuýt xoa thân phận của những kẻ đang qua cầu và năm nay ở Âu Châu hầu như không có nơi nào tuyết rơi, chỉ trừ trên núi cao nên những chuyến thám hiểm như vậy, quả thật còn thiếu độ lạnh của tuyết nữa, nếu có tuyết thì lúc ấy mới thật là ý vị vô cùng. Cuối cùng thì đoàn đã đến dưới mé sông để cho những con Thiên Nga, Hải Âu, Bồ Câu, Rái Cá và Vịt ăn bánh mì… chúng hôm ấy được một bữa no nê như chưa bao giờ trong mùa Đông lạnh giá mà được con người quan tâm chia sẻ với chúng về cái ăn như vậy. Những con Hải Âu đớp mồi thật giỏi, dầu cho ai đó cóliệng khúc bánh mì to hay nhỏ lên giữa không trung, chúng cũng có thể đớp một cách chính xác trước khi miếng bánh mì ấy rơi xuống dưới mặt nước.Saukhi về lại chùa Quan Âm, phái đoàn chúng tôi định sáng mai sớm lái xe trở về lại Hannover, nhưng qua sự thuyết phục của một số các Phật tử địa phương, chúng tôi không thể không đi xem nhà thờ làm bằng xương và sọ người tại Sedlec, cách Phraha chừng 60 cây số và độ chừng một tiếng đồng hồ lái xe thì đến. Thầy trò chúng tôi bàn nhau là phải nên đi, vì cơ hội đến lần nữa, chưa biết là khi nào.
On the afternoon of February 23, 2020, our delegation was guided by Master Quang Chanh and local Buddhists to visit Phraha ancient town, King Bridge, see ancient clocks and feed wild birds, etc. these are unforgettable memories when remembering the days in Czechoslovakia this time. Every hour there was a rooster upstairs sticking its head out of its neck and the 12 Holy Apostles running around 12 turns of the hour hand in a minute, and so on 24 times day and night, and each time hundreds and thousands of people from all over the world gathered in this narrow square just to watch the rooster crow that's it. I don't know what it's like at night, but I'm sure that even if people are awake or asleep, the rooster still greets guests exactly 24 times in a day and night. It must have been dominated by impermanence for centuries; But the man who sat at the clock bell still patiently pulled up and down so many times a day, month, and year until only the bones were left in their original shape, but he still did not dare to neglect his task of pulling the seconds. Next, our delegation went to see the King's Bridge, which most Vietnamese people living here call the Tinh Bridge, because next to this bridge, couples who love each other often come here to lock their iron locks into the wall of the bridge to prove their fidelity. It's like the Love Bridge on the Seine River in Paris. Thousands and tens of thousands of locks have been locked on this bridge, but I don't know how many couples have kept that love lock until their heads are gray, and I don't know how many people have turned to a new road? This is only known to insiders, and we are indifferent guests, who have only come here once and then left this poetic city, how can we clearly verify those vows to the sea? The wind made us rub the identity of those who were crossing the bridge, and this year in Europe there is almost no place where it snows, except in the high mountains, so such expeditions, indeed, lack the coldness of snow, if there is snow, it is very interesting at that time. Finally, the group came to the river to feed the Swans, Seagulls, Pigeons, Otters and Ducks with bread... They had a full meal that day like never before in the cold winter, but people cared to share with them such food. Albatrosses are very good at biting their prey, and even if someone throws a loaf of bread large or small in the air, they can bite it accurately before it falls to the surface of the water. After returning to Guanyin Temple, our delegation planned to drive back to Hannover early tomorrow morning, but at the persuasion of some local Buddhists, we couldn't help but visit the church made of human bones and skulls at Sedlec, about 60 kilometers from Phraha and about an hour's drive. Our teachers and students discussed that we should go, because the opportunity came again, we didn't know when.
Từ Phraha đi đường ngoằn ngoèo đến địa phương nầy cũng tốn ít nhất là 90 phút, nhưng nếu đi bằng quốc lộ thì chỉ tốn chừng 60 phút mà thôi. Trên đường đi, dọc theo các làng mạc, nơi đây cũng không khác gì xứ Đức là mấy. Nghĩa là những cánh đồng cò bay thẳng cánh, những rừng thông xanh mướt, mặc cho gió bấc hay lúc Đông sang…thỉnh thoảng mới thấy một vài ngôi nhà nhỏ thấp hiện ra, nhưng chỉ cần một thoáng mở mắt ra là thấy một thành phố cổ mang tên Sedlec. Nơi đây có vương cung Thánh Đường Maria và tòa giải tội St. Johannes. Nhà thờ nầy nằm ngay trên nghĩa địa, trong đó chứa rất nhiều bộ xương người cùng đầu lâu và những xương khác. Vương Cung Thánh Đường nầy được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1995. Đọc qua lịch sử nơi đây thì được biết rằng nhà thờ được xây dựng từ thế kỷ thứ 12, năm 1142 (lúc ấy Việt Nam chúng ta đang là Triều Lý) và bên cạnh nhà thờ là nghĩa địa. Đến năm 1318 có nạn đói dữ dội đã có đến 30.000 người chết và được đem chôn tập thể tại nghĩa địa nầy. Đến đầu thế kỷ thứ 15 qua cuộc chiến canh cải của Johann Hus về xã hội, Tôn Giáo và chính trị đã có 10.000 người chết cũng được chôn tại nghĩa địa nầy. Đến cuối thế kỷ thứ 15 thì được ký thác vào đây tất cả là 60.000 hài cốt. Tất cả đều nằm dưới đất của nhà thờ và nghĩa địa. Đến thế kỷ thứ 18 khi người ta sửa chữa lại ngôi Thánh Đường thì phát hiện thấy một số hài cốt lộ diện lên, vào thời gian nầy gia đình Ông Schwarzenberg là sở hữu chủ và năm 1870 Ông J. B. Santini-Aichl đã cho tu bổ lại bằng cách là cho nối kết tất cả những mảnh xương sọ, xương bả vai, xương chậu của những người đã chết v.v… trở thành một nhà thờ nhỏ nằm dưới từng trệt của Vương Cung Thánh Đường nầy.
It takes at least 90 minutes to take a zigzag road from Phraha to this locality, but if you go by national highway, it only takes about 60 minutes. Along the way, along the villages, this place is not much different from Germany. That is, the fields of storks flying straight away, the green pine forests, despite the wick wind or in the winter... Occasionally, a few low cottages appeared, but it only took a moment to open one's eyes to see an ancient city called Sedlec. It houses the Basilica of Mary and the confessional of St. Johannes. This church is located right above the cemetery, which contains many human skeletons, skulls and other bones. This basilica was recognized as a UNESCO World Cultural Heritage Site in 1995. Reading through the history of this place, it is known that the church was built in the 12th century, in 1142 (at that time Vietnam was the Ly Dynasty) and next to the church is a graveyard. By 1318 there was a terrible famine, 30,000 people died and were buried en masse in this graveyard. By the beginning of the 15th century, through Johann Hus's social, religious, and political reforms, 10,000 dead people were also buried in this necropolis. By the end of the 15th century, a total of 60,000 remains were deposited here. All of them are located on the ground of churches and graveyards. In the 18th century, when the cathedral was repaired, it was discovered that some of the remains were exposed, at which time Mr. Schwarzenberg's family was the owner, and in 1870 Mr. J. B. Santini-Aichl restored it by joining all the skull fragments. shoulder blades, pelvis of deceased people, etc. became a small church under the ground floor of this Basilica.
Nếu ai đó sợ ma thì không nên đến chỗ nầy. Nếu đến đây vào ban đêm thì chắc còn rùng rợn hơn nữa. Bởi lẽ người chết có thể hiện về bất cứ lúc nào, nếu có sự tưởng tượng. Vì lẽ những người chết ấy chắc rằng hồn của họ sẽ không siêu thoát, dầu cho tín ngưỡng nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng nghĩ tương tự như vậy. Bởi họ là những người không và chưa muốn chết, nhưng vì dịch bệnh hay chiến tranh nên thân thể họ mới ra như vậy. Đến đây để chúng ta nhớ lại những nhà tù của Đức Quốc Xã giết mấy triệu dân Do Thái ở Dachaus, Berlin, Ba Lan, Tiệp Khắc v.v… cũng như Pol Pot của Cao Miên hay Tết Mậu Thân năm 1968 tại Huế do cộng sản Việt Nam thủ tiêu những người vô tội. Chúng ta chỉ biết cúi đầu để tưởng niệm và nhớ ơn họ cũng như tiếc thương cho họ có một cuộc đời ngắn ngủi trên trần thế nầy. Do vậy chư Phật và chư Tổ Sư mới gọi là Vô Thường. Sự Vô thường về sống chết, già bịnh nó không đợi chờ người nào cả. Chỉ có những người còn phước báu thì còn có thể chống cự lại những nỗi khổ đau nầy để tiếp tục sống và trả nghiệp của mình; còn những người được gọi là xấu số đó, biết đâu trong đống xương cốt kia cũng là của chính mình đã qua thời gian năm tháng đi đầu thai rồi trở lại mà mình không nghe, không biết đấy thôi. Nếu ai đó muốn rõ, hãy đọc kinh Báo Ân Phụ Mẫu thì sẽ thấy tại sao Đức Phật lại đi lạy một đống xương khô. Vì Ngài cho rằng trong đó có cả Ông Bà Cha Mẹ của mình và đôi khi cũng chính là xương của mình trong bao đời xa xưa còn sót lại đó nữa. Cho nên sự vô thường nầy nó không luận là ai cả, trên từ các bậc Quân vương, Hoàng hậu, dưới cho đến những người khố rách áo ôm v.v… tất cả đều phải chết khi chúng ta đã có sự sinh ra.
If someone is afraid of ghosts, they should not go to this place. If you come here at night, it must be even scarier. Because the dead can manifest themselves at any time, if there is an imagination. For the dead are sure that their souls will not be transcended, no matter what their faith is, we think the same thing. Because they are people who do not and do not want to die, but because of epidemics or wars, their bodies are like that. Let us remember the Nazi prisons that killed millions of Jews in Dachaus, Berlin, Poland, Czechoslovakia, etc. as well as Pol Pot of Cambodia or the 1968 Mau Than New Year in Hue where innocent people were killed by Vietnamese communists. We can only bow our heads to remember and remember them as well as mourn them for having a short life on earth. That's why the Buddhas and the Ancestors call it Impermanence. Impermanence in life and death, old and sick, doesn't wait for anyone. Only those who are still blessed can resist these sufferings in order to continue to live and repay their karma; As for those so-called unlucky people, maybe in that pile of bones are also my own, after five months of being reincarnated and coming back, I don't hear it, I don't know. If someone wants to clarify, read the Sutra of Mother's Grace and you will see why the Buddha went to prostrate on a pile of dry bones. Because he thinks that including his grandparents, parents, and sometimes even his bones from many ancient generations. Therefore, this impermanence does not matter who it is, from the monarchs, queens, below to those who are torn in their clothes, and so on. all have to die when we have been born.
Sự mất mát qua hình hài thể xác đó, Tổ Quy Sơn nhắm vào bốn chữ “sớm còn, tối mất” là như thế. Chỉ trong một sát na, một hơi thở mà thôi. Khi hít vào mà không thở ra thì đó gọi là chết. Cuộc sống của chúng ta sẽ sang trang. Hỏi là bao giờ? Thì nào ai có thể trả lời được. Bởi vì mới sáng đó thì còn, nhưng tối đến lại mất. Đúng là một sát na chứ còn gì nữa. Đoạn sau của câu văn Cảnh Sách còn hay hơn nữa. Ngài đã ví dụ rằng: “Nó giống như sương của mùa Xuân, móc ban mai; chốc lát liền không, như cây bên bờ vực, như những giây leo mọc trên vách giếng, làm sao có thể lâu bền được?” Nếu ai đó sống lạc quan mà nghe đến đoạn văn nầy thì bảo rằng tại sao chư Tổ Sư lại bi quan như vậy? Đây đúng là mặt thật của pháp vô thường mà mấy ai có thể thẩm thấu được. Nếu có, đó chỉ là của người khác chứ không phải của mình. Cho hay sanh tử là đại sự nhân duyên. Nhân duyên ấy tùy thời gian và không gian mà xuất hiện. Nó có thể xảy ra trước ta như ở tại địa phương Sedlec nầy, tại Huế, tại Cam Bốt, tại Dachaus ở Đức hay tại nhiều nơi trên thế giới trong tương lai. Bởi vì ai sinh ra rồi cũng phải chết, dầu cho có sống đến hơn 100 năm ở cõi người hay nhiều ngàn năm ở cõi chư Thiên, khi phước hết, nghiệp hiện ra thì con người, chư Thiên, A Tu La v.v… cũng phải chịu chung sự Vô Thường ấy chi phối mà thôi.
The loss through that physical form, To Quy Son aims at the four words "soon, dark" is like that. Just for a moment, a breath. When you inhale without exhaling, it is called death. Our lives will turn a page. Q when? Who can answer? Because it was still in the morning, but it was gone in the evening. It's a moment, but what's more. The next paragraph of the Canh Sach sentence is even better. He gave the example: "It is like the dew of spring, the hook of the morning; In a moment, like a tree on the brink, like a climbing moment growing on the wall of a well, how can it last?" If someone lives an optimistic life and hears this passage, they say, why are the Ancestors so pessimistic? This is indeed the true side of the impermanence that few people can penetrate. If so, it is only someone else's, not my own. Saying that birth and death are great causes and conditions. That cause and condition appear depending on time and space. It may happen before us as in this Sedlec locality, in Hue, in Cambodia, in Dachaus in Germany or in many parts of the world in the future. Because whoever is born must die, even if he lives for more than 100 years in the human realm or thousands of years in the realm of the gods, when the blessings are exhausted and karma appears, the human beings, the gods, the Asuras, and so on. are also subject to the same impermanence.
Nhìn gương người xưa để lại trên thế gian nầy để chúng ta học những bài học luân lý đạo đức như trong quyển Mục Vụ số 383 tháng 3 năm 2020 xuất bản tại Thụy Sĩ trang 48 có viết một câu chuyện ngắn rất hay như sau: Đề tài là“Suy ngẫm về giá trị con người. “ Nhà toán học Ả Rập vĩ đại Al Khawarizmi khi được hỏi về giá trị của con người, đã trả lời:
Looking at the example left by the ancients in this world so that we can learn moral and moral lessons, as in the book Pastoral No. 383 of March 2020 published in Switzerland, page 48 there is a very good short story as follows: The theme is "Reflection on human values. The great Arab mathematician Al Khawarizmi, when asked about the value of the human person, replied:
. Nền tảng con người là đạo đức, nếu có Đạo Đức, thì giá trị của bạn là 1.
. The human foundation is morality, if there is Morality, then your value is 1.
. Nếu cũng thông minh, thêm một số 0 và giá trị của bạn sẽ là 10.
. If it's also smart, add a 0 and your value will be 10.
. Nếu cũng giàu có, thêm một số 0 nữa và giá trị của bạn sẽ là 100.
. If you're also rich, add another 0 and your value will be 100.
. Nếu trên tất cả, bạn lại còn xinh đẹp, lại thêm một số 0 và giá trị tổng thể sẽ là 1000.
. If above all, you are beautiful, add a 0 and the overall value will be 1000.
. Nhưng nếu bạn bị mất số 1, tương ứng với mất đạo đức, bạn sẽ mất tất cả giá trịvà giá trị của bạn chỉ còn là số 0.
. But if you lose the number 1, which corresponds to the loss of morality, you will lose all your value, and your value will only be zero.
Đọc qua đoạn nầy tôi thấy rất hay dầu cho sự sưu tầm ấy được đăng trên báo Mục Vụ của Katholische Vietnamesischen-Mission ở Thụy Sĩ mà lâu nay Linh Mục Giuse Phạm Minh Văn đã gửi biếu tôi hằng tháng và tôi đã đọc từ đầu chí cuối, ngoại trừ phần giáo lý và chắc rằng đây là câu chuyện của người Hồi Giáo chứ không phải của những người theo tôn giáo khác, nhưng dẫu cho tôn giáo nào đi chăng nữa thì ngày hôm nay ở thế kỷ thứ 20, 21 nầy, chúng ta đã có những buổi gặp mặt, thảo luận về đa tôn giáo tại quê hương nơi chúng ta đang sống thì tôi hay ví dụ rằng: “Nó cũng giống như trong một vườn hoa, nếu chúng ta chỉ có một loài hoa nở thì chắc rằng sẽ không đẹp bằng trong đó có nhiều bông hoa khác tươi thắm như Thược Dược, Cẩm Chướng, hoa Sen v.v… khoe thêm sắc thắm khi nở hoa, thì vườn hoa ấy sẽ được nhiều người quan tâm và đến để thưởng ngoạn giá trị tâm linh cho mỗi người. Trong đó có giá trị đạo đức mà con người không thể nào bỏ ra ngoài tai được.
Reading this passage, I find it very interesting that the collection was published in the pastoral newspaper of the Katholische Vietnamesischen-Mission in Switzerland, which Father Joseph Pham Minh Van had long sent to me every month, and I read it from beginning to end, except for the catechism, and I am sure that this is the story of Muslims and not of people of other religions. But no matter what religion it is, today in the 20th and 21st centuries, we have had meetings and discussions about multi-religion in our homeland where we live, and I would like to say: "It's like in a flower garden, If we only have one flower blooming, it will probably not be as beautiful as many other fresh flowers such as Thuoc Duoc, Carnation, Lotus flower, etc. showing off more colors when blooming, that flower garden will be interested by many people and come to enjoy the spiritual value for each person. In it, there is a moral value that people cannot put out of their ears.
Viết xong vào lúc 12 giờ trưa ngày 28 tháng 2 năm 2020 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc để kỷ niệm chuyến đi Đông Đức và Tiệp Khắc trong thời gian vừa qua.
The writing was completed at 12 noon on February 28, 2020 at the library of the Vientiane Pagoda in Hannover, Germany to commemorate the recent trip to East Germany and Czechoslovakia.
Sửa lỗi đánh máy: Phật Tử Thanh Phi
Typographical Correction: Buddhist Qingfei