Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Giảng giải Kinh Phổ Môn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Bài giảng thứ năm »»
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM PHỔ MÔN - BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Hoa Tạng Đồ Thư Quán, Cảnh Mỹ, [Đài Bắc], Đài Loan
Bài giảng thứ năm - Tháng 12 năm 1983
Số lưu trữ: 08-004-0005
Mời quý vị mở [sách Pháp Hoa Kinh Đại Thành, quyển hạ], trang 807. Hôm qua đã giảng đoạn này, trong phần chú giải có dẫn hai công án, một là về Pháp sư Lâm, một là về Tôn Kính Đức. Hai công án này đều có trong phần Âm Nghĩa của bản kinh này. Phần về Pháp sư Lâm được ghi ở trang 1087 của bản in chúng ta đang dùng, quý vị có thể tự ghi nhớ và tra cứu là được. Phần công án về Tôn Kính Đức nằm ở trang 1088, chúng ta cũng không cần giảng lại, quý vị tự ghi nhớ. Nếu như muốn tham khảo, có thể mở xem phần Âm Nghĩa ở cuối sách.
Tiếp theo là phần “biệt đáp”, tức là giải đáp cụ thể, chính là nội dung chính của phẩm kinh này, nói về mười hai đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Phần này chia làm ba đoạn lớn. Đoạn thứ nhất nói việc thoát được bảy nạn; đoạn thứ hai nói việc lìa được ba độc; đoạn thứ ba nói việc đáp ứng hai sự mong cầu.
Trong đoạn thứ nhất lại chia làm hai đoạn nhỏ. Đoạn nhỏ thứ nhất giảng rõ về bảy nạn; đoạn nhỏ thứ hai tóm kết về thần lực của Bồ Tát.
Đoạn nhỏ nói về bảy nạn lại chia ra bảy phần. Phần thứ nhất nói về việc thoát nạn lửa thiêu.
Mời quý vị mở xem Kinh văn:
“Nếu có người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù cho nhảy vào lửa dữ, lửa cũng không thiêu đốt được. Đó là do sức oai thần của Bồ Tát.”
Trong phần chú giải, Đại sư nói: “Từ đây trở đi [ý nghĩa] không ngoài ba nghiệp là căn bản.” Ý nói phạm vi cả mười hai đại nguyện này đều không ra ngoài ba nghiệp thân, khẩu và ý. “Gặp bảy nạn xưng niệm danh hiệu Bồ Tát, đó là lấy khẩu nghiệp làm căn bản; muốn trừ ba độc thường niệm danh hiệu Bồ Tát, đó là lấy ý nghiệp làm căn bản.” Cho nên, muốn trừ ba độc [tham, sân, si] thì trong tâm phải thường niệm tưởng, nhớ nghĩ đến Bồ Tát Quán Thế Âm. Hai sự mong cầu muốn được đáp ứng thì phải lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, đó là lấy thân nghiệp làm căn bản.
Do đó, muốn cầu được sự gia trì của Bồ Tát Quán Thế Âm thì nhất định phải lễ bái, đó là dùng ba nghiệp cung kính. Ý nghĩa này trong ngày hôm qua đã giảng với quý vị. Đại sư Thanh Lương trong phần chú giải kinh Hoa Nghiêm cũng giảng rõ với chúng ta ý nghĩa này. Quý vị xem chú giải kinh Hoa nghiêm, trong chương Quán Tự Tại, sẽ hiểu rõ được cách cầu nguyện Bồ Tát như thế nào để được cảm ứng.
Mấy câu này là nêu tổng quát, tìm hiểu sâu vào suốt đoạn lớn này chính là nói về mười hai đại nguyện. Phần tiếp theo giải thích những cách dùng chữ “nếu có” trong kinh văn. Kinh này thường dùng cách nói như vậy, ý nghĩa là giả thiết, là nói “ví như có xảy ra”, “đều là nói những trường hợp không xác định”. Ý nói rằng nếu như có những tai nạn như vậy xảy ra, nếu ứng dụng tu tập pháp môn này thì đều có thể thoát khỏi. Phần tiếp theo dẫn Kinh Lăng Nghiêm để giải thích do đâu mà Bồ Tát Quán Thế Âm có được năng lực gia trì như vậy. Trong phẩm Phổ Môn chỉ nói việc gia trì, không nói việc do đâu Bồ Tát có năng lực gia trì như vậy. Cho nên phải kết hợp xem cả hai bộ kinh mới hiểu được.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thứ hai là, xoay cái thấy vào trong, nên khiến cho chúng sinh ví như có vào lửa lớn, lửa cũng không thể thiêu đốt.”
Chúng ta cùng đọc tiếp hai hàng rưỡi phần chú giải in nhỏ bên dưới.
“Thấy biết thuộc hỏa”, là nói trong bốn đại thì “thấy biết” thuộc về hỏa đại. “Chỗ thấy biết xoay vào trong thì lìa được lửa ngoài cảnh trần. Cảnh trần huyễn hóa đã lìa, chân tánh vẫn còn, nên không bị lửa làm hại. Do sự gia trì từ oai lực của Bồ Tát đã lìa được cảnh trần xoay lại chân tánh, nên chúng sinh khi vào lửa dữ, trì niệm danh hiệu Bồ Tát thì lửa cũng không thể thiêu đốt.”
Nói đến “chỗ thấy biết” thì cũng đã bao gồm cả sáu căn. Sáu căn của chúng ta thì tác dụng là thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, nhận biết. Ở nhãn căn gọi là thấy, ở nhĩ căn gọi là nghe, ở tỷ căn gọi là ngửi, ở thiệt căn gọi là nếm, ở thân căn gọi là xúc chạm, ở ý căn gọi là nhận biết. Sáu căn này thật ra đều là tác dụng khởi lên từ một tánh biết sáng suốt, cho nên nói rằng “vốn từ một bản tánh sáng suốt, phân chia thành sáu căn hòa hợp”.
Nói “xoay trở lại” tức là quay đầu, nghĩa là những tác dụng [từ sáu căn] của chúng ta không còn hướng ra bên ngoài trần cảnh, mà quay lại hướng vào bên trong, tức là rõ biết sự quay đầu. Trong tất cả kinh điển thuyết dạy chúng sinh, chư Phật luôn nêu ý nghĩa này trước nhất. Chúng ta trong kinh Kim Cang có thể thấy được, đức Phật Thích-ca Mâu-ni vào thành Xá-vệ khất thực, khất thực xong liền quay trở về tinh xá, rửa chân, trải tòa ngồi. Đây chính là biểu thị ý nghĩa có thể “quay về”. Bệnh của chúng ta chính là không biết “quay về”. Không biết quay về nên tâm chúng ta liền bị cảnh trần bên ngoài xoay chuyển, xô đẩy, cho nên gọi là phàm phu.
Vì thế mà trong sự tu học nghiêm túc thì bất luận khi làm việc gì, khởi tâm động niệm, trong tất cả việc làm đều phải biết “quay về”. Người biết quay về thì sự nghiệp ở thế gian được thành tựu, trong việc tu học xuất thế gian pháp cũng sẽ được thành tựu. Vì sao vậy? Đây là điều thuộc về thiện căn, phước đức. Ở thế gian gọi là phước đức, người biết quay về là người có phước đức. Nói chung, người làm việc gì cũng biết quay về là người có phước đức. Còn đối với người học Phật, nếu tâm có thể quay về thì là người có thiện căn, sự tu học nhất định có thành tựu.
Cho nên trong Phật pháp nói đến việc quán cơ, tức là quán xét căn cơ của chúng sinh. Người nào căn tánh thuần thục thì có thể hóa độ, người nào căn tánh chưa thuần thục thì chỉ có thể giúp họ gieo hạt giống lành.
Vậy dựa vào đâu để quán xét căn cơ? Chính là quán xét xem người ấy có thể “quay về” hay không, dựa vào chỗ đó mà xem xét. Nếu trong mỗi một niệm tưởng đều có thể quay sự sáng suốt trở lại soi chiếu vào trong tâm mình thì đó là người căn tánh thuần thục, Phật Bồ Tát nhất định sẽ giúp đỡ gia hộ, bởi vì ngay trong một đời người ấy có thể chứng quả, có thể thành tựu, cho nên nói đó là chúng sinh căn tánh thuần thục.
Còn trong pháp thế gian, quý vị cứ xem như cách dùng người của các công ty, cửa hàng hiệu, hoặc của những vị đứng đầu các cơ quan, đơn vị, thì thấy họ cũng biết quán xét căn cơ. Những người nào có thể được họ sử dụng, được họ đề bạt? Đó là những người làm việc biết quay đầu, nghiêm túc, có trách nhiệm, suy xét tinh tế, kín đáo. Những người như vậy thì họ nhất định sẽ bồi dưỡng, để trong tương lại thành cán bộ của mình.
Từ đó có thể biết rằng, hai chữ “quay về” đối với cả thế gian và xuất thế gian đều rất được xem trọng.
Chúng ta học Phật nếu muốn được thành tựu thì đối với hai chữ này nhất định không thể xem nhẹ. Nguyên do Bồ Tát Quán Thế Âm có được năng lực gia trì chính là nhờ biết quay về. Cho nên trong nhà Phật thường nói “quay đầu là bờ”, quay trở lại cũng chính là quay đầu. “Quay” tức là xoay chuyển, “về” tức là trở về trạng thái ban sơ, chính là nói “quay đầu là bờ”. Chính trong lúc ấy, Bồ Tát Quán Thế Âm xoay hư vọng, quay về chân thật. Ngay khi các căn tiếp xúc với cảnh trần liền sinh ra các thức, ví như nhãn căn của chúng ta tiếp xúc với sắc trần, con mắt nhìn thấy hình sắc, liền khởi lên sự phân biệt, bám chấp. Phân biệt bám chấp chính là thức; thức đã khởi sinh thì đó là hư vọng.
Vậy “quay về” nghĩa là gì? Là ngay lúc [thức khởi sinh] liền lập tức “quay về”. Một khi đã quay về, thức liền không khởi sinh, nên vẫn ở trong cảnh giới này mà không tiếp tục phân biệt, bám chấp; tâm phân biệt, bám chấp liền dứt trừ.
Đã dứt trừ rồi thì công phu như thế nào? Công phu xoay chiếu vào trong; xoay chiếu vào trong chính là trở về tâm chân thật. Tâm chân thật là gì? Là tâm chuyên nhất, cũng tức là tâm thanh tịnh. Khi ấy mắt chúng ta nhìn thấy hết thảy hình sắc bên ngoài đều là soi chiếu, soi chiếu thật rõ ràng, nhưng trong lúc nhìn thấy không có sự phân biệt, bám chấp; tâm không sinh khởi, không khởi động niệm, đem tâm chân thật đối diện với trần cảnh, đó gọi là “quay về”.
Cho nên nói “quay về” thì quý vị phải hiểu đúng ý nghĩa như vậy. Nếu quý vị hiểu sai thì phiền phức rất lớn.
Hiểu sai là như thế nào? Là nghĩ rằng quay vào trong để nhìn thấy, nhưng bên trong có gì để nhìn thấy? Mắt chúng ta chỉ có thể nhìn ra bên ngoài, làm sao nhìn được vào bên trong? Tai chỉ có thể nghe tiếng bên ngoài, làm sao nghe được bên trong? Đó chính là quý vị chạy theo câu chữ để tìm ý nghĩa, chính là chết trong văn tự, âm thanh, như vậy là sai lầm.
Cho nên nói “quay về” thì không gì khác hơn là dứt vọng hiển chân, chính là ý nghĩa đó. Nếu như không hiểu rõ được ý nghĩa đó, vận dụng sai lầm thì chẳng những không có lợi ích gì mà còn có hại.
Cũng giống như thuở xưa có người đọc sách của Khổng Tử, đến câu “cách vật trí tri” (格物致知) liền thực hành “cách vật”. Người ấy “cách vật” như thế nào? Người ấy cho rằng “cách” (格) là nghiên cứu, liền đối với sự vật đều nghiên cứu chi ly tinh tế, chính là như phương pháp của khoa học hiện nay. Nghiên cứu như thế, cuối cùng cũng chỉ là bệnh nặng, vấn đề vẫn không hề giải quyết được. Đây chính là vì không hiểu đúng ý nghĩa của hai chữ “cách vật”.
Về thuyết “cách vật” của Nho gia, Tư Mã Quang giải thích rất hay. “Vật” là gì? Ở đây là chỉ cho dục vọng, là sự ham muốn của chúng ta. “Cách” là gì? Là dứt trừ, diệt bỏ, như trong Phật pháp nói dứt trừ phiền não. Có người giải thích rằng đó là công phu tự chế bản thân, phải tự khắc chế dục vọng của mình, biết hài lòng với những gì hiện có nên thường sống an vui. Ý nghĩa “cách vật” được giảng giải như vậy.
Khi quý vị biết hài lòng với những gì hiện có, tâm không hướng ra bên ngoài chạy theo ngoại duyên thì tâm quý vị tự nhiên thanh tịnh; trong tâm thanh tịnh liền khởi sinh trí tuệ, gọi là “trí tri”, tức là trí tuệ có khả năng hiểu biết.
Có thể thấy nhà Nho giảng giải công phu như vậy, trình tự với phương pháp đều không khác với Phật pháp, đúng như câu nói: “Chỗ thấy của các bậc anh hùng đều tương đồng về đại thể.” Đức Phật là bậc thánh nhân, Khổng Tử cũng là thánh nhân, cho nên kiến giải của các vị có rất nhiều chỗ tương đồng. Hai vị này chưa từng gặp mặt, cũng chưa từng cùng nhau trò chuyện, bàn bạc, nhưng kiến giải của các vị tương đồng rất nhiều.
Cho nên chúng ta phải hiểu rõ thế nào gọi là “quay về”. Ý nghĩa hai chữ này nhất định phải hiểu rõ, chính là giữ cho tâm chúng ta khi ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đều phải biết “quay về”. Vì sao phải quay về? Không “quay về” không được sao? Trong kinh Kim Cang nói rất rõ: “Những gì có hình tướng đều là hư vọng.” Vì tất cả hình tướng trong cảnh giới đều không chân thật, nên làm sao có thể không quay về? Không quay về tức là vọng tâm chạy theo vọng cảnh, như vậy thì càng mê muội, càng lún sâu. Mê muội rồi nhất định khởi lên hư vọng, liền có sự tạo tác; tạo tác rồi không tránh khỏi có thiện ác; đã có thiện ác thì liền có nghiệp báo. Cho nên sáu đường luân hồi chính là do tự mình tạo thành; khởi sinh mê hoặc, tạo nghiệp rồi chiêu cảm quả báo, đó chính là sáu đường luân hồi.
Chỗ này nói bảy loại tai nạn chính là thuộc về quả báo, ba độc [tham, sân, si] chính là nghiệp nhân, chính là tạo nghiệp. Cho nên bảy loại tai nạn [thuộc về quả báo], Bồ Tát nói là có thể cứu được. Thế nhưng tai nạn thuộc về quả báo nói thật ra không đáng sợ; tai nạn thuộc về nghiệp nhân mới thật sự đáng sợ, nghĩa là ba độc [tham, sân, si] mới thật sự đáng sợ. Ba độc nếu đã dứt trừ thì [bảy loại] tai nạn thuộc về quả báo không có gì đáng sợ; những tai nạn đó rất dễ tiêu trừ. Cho nên trong mười hai nguyện này, lấy việc dứt trừ ba độc làm phần quan trọng nhất.
Ý nghĩa ở đây chính là “xoay chỗ thấy biết vào trong”, chính là từ chỗ thấy biết không chân chánh mà quay trở lại, quay về chỗ thấy biết chân chánh. Phương pháp vận dụng công phu của Bồ Tát Quán Thế Âm là từ nơi nhĩ căn xoay cái nghe lại nhập vào dòng thánh. Ngài dùng phương pháp như vậy. Phương pháp thì có rất nhiều, cho nên nói là “vô lượng vô biên”, như quý vị thấy trong bốn nguyện lớn mà chúng ta thường niệm có nói: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.”
Bồ Tát Quán Thế Âm dùng phương pháp như vậy mà thành tựu, nên phương pháp này thích hợp với Ngài, Ngài vận dụng rất thuận lợi, rất thoải mái, không một chút miễn cưỡng, như vậy mới dễ dàng thành tựu. Nếu như pháp môn đó đối với chúng ta thấy có phần miễn cưỡng, vận dụng không được thuận lợi thì chúng ta nên từ bỏ. Cũng giống như khi chúng ta muốn vào giảng đường này, ví như giảng đường này bốn phía đều có cửa. Có rất nhiều cửa vào giảng đường, giống như có rất nhiều pháp môn để thể nhập pháp giới nhất chân. Chúng ta đứng ở cửa giảng đường này, từ cửa này vào rất thuận tiện thì không cần đi vòng đường xa, đi vào cửa khác, vì vào được bên trong đều là như nhau. Quý vị phải hiểu được ý nghĩa này, sau đó mới tự mình biết lựa chọn pháp môn.
Nhưng dù là cùng một pháp môn, phương pháp tu học cũng không hoàn toàn giống nhau. Tất cả đều phải thuận theo căn tánh của mình, thuận theo phương thức sinh hoạt hiện tại của mình, như vậy mới có thể hoàn toàn tự nhiên. Cho nên mới có thể an vui tu tập, không cảm thấy có sự gò bó, trói buộc, không có khổ não, không hề cảm thấy như vậy. Cho nên Phật mới dạy rất nhiều pháp môn, không phải chỉ một pháp môn, không phải khác với pháp môn này là không được, không phải như vậy. Hết thảy các pháp môn đều bình đẳng, không có cao thấp; bất kỳ pháp môn nào, chỉ cần quý vị thấu hiểu được ý nghĩa “quay về” thì đều có thể thành tựu đạo vô thượng.
Bồ Tát Quán Thế Âm từ nơi nhĩ căn [mà tu tập], có người do vậy cho rằng nhĩ căn là nhạy bén. Thế nhưng có một số người, như hiện nay cũng có, quý vị giảng nói với họ rất nhiều, họ nghe đi nghe lại nhiều lần cũng không hiểu; quý vị viết ra đưa cho họ xem, họ vừa xem qua liền hiểu ngay. Vì sao vậy? Vì nhãn căn của họ nhạy bén. Tôi cũng đã từng gặp rồi, những người ấy khi nghe diễn giảng thì không thích, nhưng quý vị đem bài giảng ấy viết ra, họ xem qua liền hiểu ngay. Cho nên có người nhĩ căn nhạy bén, cũng có người nhãn căn nhạy bén. Căn tánh nào nhạy bén thì chúng ta vận dụng căn tánh đó; pháp môn nào thích hợp thì chúng ta chọn pháp môn đó, chỉ cần nguyên tắc, nguyên lý không sai là được. Không nhất định rằng người khác tu pháp môn đó được thành tựu thì mình cũng phải tu pháp môn đó. Cũng giống như việc điều trị bệnh. Người ấy mắc bệnh, uống thuốc đó liền hết bệnh; tôi cũng mắc bệnh, vội vàng đi mua thuốc giống như vậy để uống. Nhưng hai người mắc bệnh không giống nhau, khi uống thuốc đó vào thì bệnh có thể nặng thêm, có thể chết mất. Cũng vậy, mỗi người căn tánh không giống nhau, người khác tu pháp môn đó dễ dàng thành tựu, chúng ta tu pháp môn đó chưa chắc có thể thành tựu. Cần phải hiểu rõ được ý nghĩa này.
“Một căn quay về nguồn, sáu căn đều giải thoát”, vì các căn có mối quan hệ liên đới với nhau. Chúng ta hiểu rõ được ý nghĩa “một căn quay về nguồn, sáu căn đều giải thoát” thì lập tức liên tưởng đến câu nói của người xưa: “Thông hiểu một bộ kinh thì thông hiểu tất cả kinh.” Quý vị thông đạt một bộ kinh rồi thì tất cả kinh đều có thể thông đạt. Điều này so với “một căn quay về, sáu căn đều giải thoát” cũng là cùng một ý nghĩa. Ngàn kinh muôn luận đều giảng giải một ý nghĩa, quý vị thấu hiểu được ý nghĩa đó rồi thì ngàn kinh muôn luận đều thông đạt. Chính vì vậy, nên các bậc cổ đức mới đề xướng việc tu tập từ căn bản. Căn bản là gì? Trong tất cả kinh luận, quý vị thấy ưa thích một bộ kinh, quý vị đối với bộ kinh này đặc biệt có cảm tình. Quý vị quyết định trong suốt một đời này tu tập bộ kinh này, học bộ kinh này. Như vậy, bộ kinh này được gọi là căn bản. Thấu hiểu, thông đạt bộ kinh này rồi thì tất cả kinh khác đều thông đạt. Đây gọi là tu tập từ căn bản.
Cho nên ở Trung quốc thời xưa, quý vị thấy các tông phái đều có cái gọi là căn bản, mỗi tông phái đều có căn bản riêng. Tông Hiền thủ y theo kinh Hoa nghiêm, lấy đó làm căn bản; tông Thiên Thai có căn bản là kinh Pháp Hoa; tông Tịnh Độ lấy căn bản là ba kinh [Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ và A-di-đà] với một luận là Vãng sanh luận. Mỗi tông phái đều tu tập theo căn bản của mình, mỗi tông phái đều đưa đến thành Phật thành Tổ, mỗi tông phái đều sẽ thành tựu đạo Vô thượng. Nếu như có người nói rằng có bao nhiêu kinh điển đều phải tu học hết, vậy thì trong suốt cả một đời, người ấy cho dù một bộ kinh cũng không học thông suốt được. Điều này chúng ta nên hiểu rõ.
Đã biết pháp Phật dạy tu tập từ căn bản, vậy phải biết căn bản là những gì. Như căn bản của Thiền tông là nói về tâm tánh, đó gọi là “chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người”. Như vậy là căn bản của Thiền tông. Từ đó có thể biết, theo Giáo tông có căn bản của Giáo tông; Tịnh độ có căn bản của Tịnh độ; Mật tông có căn bản của Mật tông; mỗi tông phái đều có căn bản của riêng mình.
Như trên vừa nói, chỗ thấy biết là thuộc về hỏa, tức trong bốn đại thuộc về hỏa đại. Đó là vì “chỗ thấy biết” hàm ý nghĩa là sáng suốt; sáng là tướng của lửa, lửa có tác dụng chiếu sáng. “Xoay chỗ thấy biết”, là nói quay về, liền xa lìa ngọn lửa trần cảnh. Nói cách khác, ngọn lửa thấy biết bên trong đã không còn thiêu đốt thì nạn lửa bên ngoài không thể làm hại; bên ngoài dù có lửa dữ cũng không thể làm hại.
Nói về tai nạn nước lửa, chúng ta đọc kinh văn quả thật khó mà tin được. Nếu thật là như vậy, có thể ở chỗ lửa dữ mà lửa không thiêu đốt, không có tai nạn, vậy thì đội cứu hỏa của thành phố, của quốc gia đều không cần nữa. Lại như hiện nay quý vị nhìn thấy trong chiến tranh, bom nguyên tử chính là lửa dữ, chúng ta niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, khi bom nguyên tử rơi xuống lửa liền tắt, ai tin được chứ? Chúng ta có thể nói, những người Phật tử thuần thành nhất cũng không thể tin, người khác làm sao tin!
Xin thưa với quý vị, lửa dữ đó quả thật là không thể thiêu đốt. Lửa muốn có tác dụng thiêu đốt thì nhất định phải có sự tương cảm giữa trong tâm và ngoại cảnh, khi đó lửa mới có tác dụng. Cho nên các bậc cổ đức nói, bốn đại bên trong và bốn đại bên ngoài thường giao cảm với nhau, chúng ta hiện tại sống trong cảnh giới như vậy, cho nên mới có các loại tai nạn. Nếu như bốn đại bên trong đều đã thanh tịnh, xa lìa, bốn đại bên ngoài cũng sẽ được quý vị chuyển hóa. Trong kinh điển từng nói đến lập luận này, cũng có lúc chúng ta đã nghe qua và đồng thuận, kinh nói rằng “cảnh tùy tâm chuyển”. Như thân thể này của chúng ta cho đến hoàn cảnh bên ngoài đều là cảnh giới, đều là những thứ chỉ do tâm ta biến hiện. Chính vì tâm không thanh tịnh nên biến hiện ra bên ngoài cảnh giới như vậy. Chúng ta lại mê trong cảnh giới ấy nên mới hứng chịu đủ loại chướng ngại, đủ loại tai nạn. Một khi tâm đã được thanh tịnh thì cảnh giới bên ngoài cũng sẽ khôi phục sự thanh tịnh.
Cho nên, cảnh giới vốn là nhất chân, cảnh giới vốn là tướng tịch diệt thanh tịnh, làm gì có tai nạn? Nói cách khác, mấy ai có thể thật sự tin chắc điều đó? Cho nên, trong Đại kinh Phật dạy rằng: “Đức tin là nguồn của đạo, là mẹ của các công đức.” Nhưng việc xây dựng tín tâm thật sự rất khó. Chúng ta sở dĩ không có được sự cảm ứng, không đạt được thành tựu, căn bản là vì chúng ta không hiểu về tín tâm, không xây dựng được tín tâm. Hết thảy mọi sự tu học, mọi sự cầu nguyện đều là dựa trên vọng tâm, từ đó mà chạy theo mọi sự hư vọng. Vậy mà không biết quay về tự trách chính mình, ngược lại còn trách lời Phật dạy là không đáng tin, rằng Phật Bồ Tát không linh hiển, rồi quay sang chê trách người bên ngoài. Đó là lỗi lầm rất lớn của chúng ta.
Trong Phật pháp, sự sinh khởi tín tâm là giai đoạn tu học quan trọng nhất. Hiện tại chúng ta nói rằng đã có niềm tin, nhưng nói cho dễ nghe một chút thì chỉ là miễn cưỡng tin, chưa thể nói đó là chánh tín. Chánh tín nghĩa là đối với những lập luận này, đối với tất cả mọi hiện tượng đều có sự hiểu biết chính xác rồi khởi lòng tin, đó mới gọi là chánh tín. Còn như nói thẳng ra hơi khó nghe thì niềm tin hiện tại của chúng ta chỉ là mê tín. Sao gọi là mê tín? Bởi vì chúng ta không hiểu rõ ràng nguyên lý sự thật, không hiểu rõ ràng chân tướng sự thật, chỉ nghe người khác nói rồi liền tin. Chúng ta rốt cuộc không tự mình chứng nghiệm được cảnh giới này, chỉ nghe người khác nói liền tin theo, niềm tin như vậy không phải mê tín thì gọi là gì? Những gì người thế gian nói là tin theo cách như vậy đều gọi là mê tín; xin thưa với quý vị, không có một điều nào không phải mê tín. Nhà khoa học tin vào khoa học cũng là mê tín. Vì sao vậy? Khoa học không có điểm dừng, những gì ngày nay quý vị tin theo chỉ mới có một phần, còn rất nhiều điều quý vị chưa hiểu được. Khoa học rồi sẽ đưa chúng ta đi đến đâu, có chỗ nào tốt đẹp chăng? Cho nên ngày nay ngay cả niềm tin của các nhà khoa học cũng luôn dao động. Vì sao vậy? Vì phát triển đến mức như hôm nay, chỉ cần một chút bất cẩn thì toàn thể nhân loại sẽ cùng diệt vong. Đây là kết quả của khoa học. Cho nên, hai chữ “tin Phật” là cực kỳ quan trọng.
Chúng ta nhìn thấy qua các thời đại, như trong những chuyện cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm, ta thấy đủ các hạng người được cảm ứng. Niềm tin của họ tuy là mê tín nhưng cũng có thể khởi sinh tác dụng. Khởi sinh tác dụng gì? Đó là làm khởi sinh thần lực gia trì của Bồ Tát Quán Thế Âm. Những người ấy quả thật được thoát khỏi tai nạn. Niềm tin của họ có sinh khởi tác dụng như vậy.
Vì sao những người ấy tuy mê nhưng có thể khởi sinh tác dụng, còn chúng ta mê không khởi sinh tác dụng? Vì mức độ mê đắm của chúng ta không sâu bằng họ. Chúng ta mê nhưng trong đó còn có sự nghi vấn; họ mê đến mức hoàn toàn tin nhận, không có một chút nghi vấn nào, do đó nên khởi sinh được tác dụng. Cho nên, mê đến cực điểm chính là chân thật! Giác với mê không phải hai điều khác nhau. Giác đến cực điểm giống như mê; mê đến cực điểm giống như giác. Tục ngữ Trung quốc thường nói “Đại trí giống như ngu”; ngu tức là mê, đại trí tức là giác, nhưng đạt đến cực điểm thì chỗ giao nhau đó chính là một, không phải hai. Cho nên những người mê ấy cũng có thể khởi sinh tác dụng. Bồ Tát Quán Thế Âm là cực kỳ giác, những người ấy là cực kỳ mê, hai bên làm khởi sinh tác dụng, đó là tín tâm.
Tín tâm như vậy thuộc về loại nào? Xin thưa với quý vị, đó chính là tâm chí thành. Những người ấy trong tâm không có một chút vọng tưởng, đến mức cực kỳ tinh thuần. Nói cách khác, tâm như vậy chính là chân tâm, không cần phải giải thích theo giáo nghĩa, chân tánh tự nhiên hiển hiện. Thiền tông chính là dùng phương pháp này. Cho nên Thiền tông vừa khởi đầu liền dạy quý vị phát tâm tham cứu, không dạy quý vị nghe kinh, không dạy quý vị đọc tụng. Trừ ra những lúc làm việc, thời gian còn lại chỉ là ngồi thiền, tham cứu.
Vậy Thiền tông có cần xem kinh điển không? Chúng ta thấy các bậc Tổ sư đại đức xưa nay, lấy ví dụ như trường hợp của Lục tổ, trong Pháp bảo đàn kinh Lục tổ trích dẫn kinh điển rất nhiều. Những kinh điển đó nếu ngài chưa từng đọc qua, chưa từng nghe qua thì làm sao có thể trích dẫn? Thiền tông đọc tụng kinh điển là sau khi tâm địa thanh tịnh, tức là sau khi đã minh tâm kiến tánh mới có thể xem kinh điển. Phương pháp của Giáo tông thì ngược lại, trước tiên phải từ nơi kinh luận mà khởi tu, sau đó mới quay lại cầu đến sự nhất tâm bất loạn, lại cầu tâm thanh tịnh. Trước tiên nghiên cứu lý luận, phương pháp cho thật rõ ràng, sau đó mới cầu chứng nghiệm. Thiền tông thì trước tiên phải đạt được sự chứng nghiệm, sau đó mới đem kinh luận dẫn ra. Để làm gì? Để ấn chứng, để xem chỗ nhận hiểu của mình so với Phật có tương đồng hay không.
Cho nên, kinh điển có hai tác dụng. Đối với người sơ học, kinh điển là nguyên tắc chỉ đường để noi theo; đối với người đã chứng quả, kinh điển là để chứng nhận, xác thực, tức là so chỗ nhận hiểu, thấy biết của người ấy có tương đồng với Phật hay không. Nếu quả thật tương đồng thì chứng minh là tu tập không sai lầm, đúng với tri kiến của Phật.
Do đó có thể biết rằng, điểm cốt yếu chính là ở tín tâm. Nếu chúng ta đối với Bồ Tát không hề nghi ngờ, liền có sự cảm ứng, lửa dữ không thể thiêu, nước lớn không thể nhận chìm, hết thảy mọi tai nạn, hết thảy mọi khổ ách đều được tiêu trừ.
Chúng ta đọc tụng kinh điển Đại thừa, mục đích cũng không ngoài việc xây dựng tín tâm. Nhận hiểu lý lẽ càng rõ ràng, tín tâm của chúng ta càng kiên cố, nghi hoặc càng giảm bớt. Nếu như thực sự không có gì nghi hoặc thì chúng ta đọc tụng kinh điển để làm gì? Không cần phải đọc kinh nữa. Vì thế, điều kiện tu học trong nhà Thiền chính là tín tâm kiên định, không một mảy may nghi ngờ mới có thể tham cứu kinh điển. Vì có nghi ngờ nên phải từ nơi kinh luận mà khởi tu. Cho nên theo giáo học, dù là thế gian hay xuất thế gian, có hai hạng người căn cơ sẵn sàng tiếp nhận. Thứ nhất là hạng thượng trí, nghe một điều hiểu ra ngàn điều, không có sự hoài nghi. Hạng người này rất dễ dạy bảo, dễ dàng thành tựu. Hạng người thứ hai chính là hạng cực kỳ ngu si, không có một ý niệm gì, bảo sao làm vậy. Hạng người này cũng dễ dạy bảo, nhất định sẽ thành tựu.
Khó khăn phiền phức nhất chính là những người chỉ hiểu biết một nửa vấn đề, gọi là biết nửa vời. Nếu quý vị nói họ là người ngu, họ lại có chỗ rất thông minh; quý vị nói họ thông minh, họ lại thật sự rất ngu. Những người này đối với hết thảy các pháp đều nửa tin nửa ngờ, thật khó thành tựu nhất, là những học sinh khó dạy nhất. Quý vị nghĩ xem, chúng ta có phải là những học sinh khó dạy nhất của đức Phật không? Kết quả chỉ là thiệt thòi cho chính mình.
Bồ Tát Quán Thế Âm có thể quay đầu, chính là vì ngài có thể quay đầu, cho nên quay đầu rồi liền thấy được chân tánh, chính là như trong Tâm Kinh nói “soi thấy năm uẩn đều không”. Bốn đại là pháp hình sắc nằm trong năm uẩn [sắc, thọ, tưởng,hành, thức], không chỉ pháp hình sắc là không, mà ngay cả những pháp thuộc tâm như thọ, tưởng, hành, thức cũng là không, cho nên mới “vượt qua hết thảy mọi khổ ách”. Câu kinh này là cương lĩnh tổng quát, những điều chúng ta bàn đến hôm nay là chi tiết bên trong, từng điều một qua [cương lĩnh ấy] đều tự hiển lộ.
Cho nên khi Bồ Tát “xoay lại chỗ thấy biết”, ngài không còn thấy có nghiệp quả, không có hiểu biết sai lầm, lửa [ngoài trần cảnh] với trong tâm ngài không có sự tương cảm. Đây là nói về nguyên do năng lực của ngài, có thể vào trong lửa cũng không bị thiêu đốt. Đây là việc không thể nghĩ bàn; hết thảy chúng sinh như chúng ta đều không có năng lực này, nhưng có thể được với một điều kiện, chính là đối với Bồ Tát hoàn toàn khẳng định tin tưởng, không một chút nghi ngờ; ví như vào trong lửa dữ, bị lửa thiêu đốt thân thể thành tro than vẫn không khởi lên một niệm nghi ngờ. Làm được như vậy thì mới có thể vào trong lửa dữ thật không bị thiêu đốt; bằng như lúc ấy còn có một chút nghi ngờ thì sẽ không có sự cảm ứng.
Trước đây trong phần cương lĩnh tổng quát cũng đã có nói qua, đã có nêu ra vấn đề này. Có rất nhiều người trải qua nhiều năm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vì sao không hề có sự cảm ứng? Không phải đã nói với quý vị rồi sao, trong kinh đã nói rất rõ ràng là phải “nhất tâm xưng danh”, chỉ cần trong tâm những người ấy khởi lên một chút nghi ngờ thì đã không phải là nhất tâm; vừa khởi một ý niệm thì công phu đã không còn thuần nhất. Không cần nói đến nhất tâm, chỉ cần công phu thuần nhất là đã có cảm ứng rồi, huống chi là đạt được nhất tâm?
Vì vậy, khi chúng ta không có sự giao cảm với chư Phật Bồ Tát trong tâm đạo, không đoạn trừ được phiền não, không tránh khỏi được tai nạn thì phải quay lại tự xét mình. Chúng ta ngay cả công phu thuần nhất còn chưa đạt được, suốt ngày từ sáng đến tối trong tâm vẫn toàn là vọng tưởng tạp niệm. Nguyện lực và tâm từ bi của Bồ Tát tuy rộng lớn, nhưng tự chúng ta không có khả năng tiếp nhận, cho nên không được sức gia trì của ngài. Đó không phải do ngài không gia trì, mà là do chính chúng ta tạo ra chướng ngại, ngăn cản thần lực gia trì. Sức mạnh từ bản thân chúng ta rất lớn, trong kinh điển dạy rằng: “Tâm, Phật và chúng sinh, ba điều này không khác biệt nhau”, nghĩa là đều có năng lực như nhau. Vì vậy, do chính chúng ta tạo ra chướng ngại nên tâm đạo không thể giao cảm với Bồ Tát. Nếu chúng ta thật sự tin tưởng, không một chút nghi ngờ thì tự nhiên chướng ngại sẽ được trừ bỏ, thần lực của Phật Bồ Tát mới có thể gia trì. Sức mạnh này, khoa học ngày nay gọi là cảm ứng tâm linh, thành tâm đến cực điểm thì sẽ có cảm ứng.
Không cần nói đến mối tương quan giữa Phật Bồ Tát với chúng ta, mà ngay cả trong chúng sanh phàm phu cũng có mối tương quan, như trường hợp “mẹ con giao cảm”. Thuở xưa có những trường hợp như vậy, trong lịch sử có ghi chép lại. Khi người mẹ suốt ngày lo lắng cho con, người con ở xa cũng rất hiếu thảo, thường nhớ đến mẹ. Người mẹ nhớ con, cắn ngón tay; người con cảm thấy nhói đau trong lòng. Đó là mẹ con giao cảm, cũng chính là sự cảm ứng tâm linh. Trong tâm của mẹ và con đều không có sự nghi ngờ, không có vọng niệm, cho nên có sự cảm ứng. [Chúng sanh phàm phu còn được như vậy,] huống chi là giữa Phật Bồ Tát đối với chúng ta. Quý vị cứ từ những ý nghĩa và sự thật này mà suy xét thêm, ý nghĩa cảm ứng là hoàn toàn chân thật. Nếu không hiểu ý nghĩa này, quý vị sẽ không thể đạt được sự cảm ứng; nếu hiểu rõ ý nghĩa này, sự cảm ứng sẽ đến rất nhanh; chúng sinh có cảm, Bồ Tát lập tức có ứng.
Tình thương của mẹ đối với con là duyên theo sự luyến ái, nhưng tình yêu thương đó cũng là vô điều kiện. Chư Phật Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh là tâm đại bi đồng thể, là tâm đại từ không duyên theo ngoại cảnh, năng lực này vượt xa tình luyến ái giữa mẹ và con, có lẽ nào lại không có sự cảm ứng? Chỉ là vì chúng ta xem Phật Bồ Tát như người ngoài nên không thể khởi sinh sự cảm ứng.
Chư Phật Bồ Tát trong mỗi một niệm tưởng đều nghĩ đến chúng sinh, còn chúng sinh trong mỗi một niệm tưởng đều không nhớ đến chư Phật Bồ Tát, cho nên mới không thể khởi sinh tác dụng. Điều này nói lên thần lực của Bồ Tát, chứng minh Bồ Tát thật sự có năng lực gia trì chúng sinh; nếu chúng sinh có sự chiêu cảm, chư Phật Bồ Tát thật sự có ứng hiện. Nhưng quý vị nhất định phải ghi nhớ một câu quan trọng nhất trong kinh điển, đó là “nhất tâm xưng danh”. Lúc nào được như vậy thì sẽ được hào quang và oai đức từ nơi tâm đại bi của Bồ Tát bao trùm che chở, mới có thể không rơi vào nạn lửa. Chỗ này trong sách nói đơn giản: “Bồ Tát xa lìa trần cảnh quay về chân tánh nên có oai lực gia trì che chở, khiến cho chúng sanh trì niệm danh hiệu thì dù vào trong lửa dữ cũng không bị thiêu đốt.”
Tiếp theo dẫn một câu chuyện để suy ngẫm, có ghi chép trong Quán Âm Bồ Tát Cảm Ứng Lục. Đây là câu chuyện của cư sĩ Chúc Trường Thư thời nhà Tấn.
Chuyện kể rất rõ ràng, Chúc Trường Thư là người Lạc Dương, nay là Hà Nam. Ở Trung quốc đại lục, đa phần sống trong nhà tranh, các bạn trẻ ở Đài Loan bây giờ chưa từng nhìn thấy. Quý vị nào ở độ tuổi 20, 30, sinh ra sau khi chính phủ đến Đài Loan, do kinh tế phát triển, đời sống khá giả nên hiện tại chẳng còn ai sống trong nhà tranh. Ở Đài Loan chúng ta không tìm thấy nhà tranh. Còn nhà cửa trên đại lục [ngày xưa] đều là tự xây dựng, tường trát đất, mái lợp tranh. Nhưng nhà tranh thật sự cũng có ưu điểm, mùa đông ấm, mùa hè mát; do tường đất dày nên mùa đông ấm mùa hè mát, có phong cách riêng, sống trong đó rất thoải mái. Nhưng nhà tranh sợ nhất là lửa, chỉ cần một que diêm, một đóm lửa cũng có thể gây hỏa hoạn. Trên đại lục, nhà tranh rất nhiều, nhà gạch ngói là giàu có, người bình thường đều ở nhà tranh.
Khi ấy, căn nhà tranh của Chúc Trường Thư “bị đám cháy lớn lan đến gần”. Lúc đó nhà hàng xóm đã cháy, sắp lan đến nhà ông. “Mấy nhà hàng xóm đều vội vàng dọn đồ đạc”, người khác thấy lửa cháy, vội vàng mang đồ quý giá ra ngoài. Ông tin vào Bồ Tát Quán Thế Âm, hoàn toàn không nghi ngờ. Nếu người khác trong tình huống này hẳn sẽ nghĩ: “Bồ Tát Quán Thế Âm chưa chắc đáng tin, nếu nhà vẫn bị cháy thì sao?” Chỉ cần một niệm nghi ngờ này là không được. Chúc Trường Thư có lòng tin kiên định, không có nghi ngờ, lúc này hoàn toàn nương tựa vào Bồ Tát Quán Thế Âm. Ông nhất tâm, quý vị chú ý hai chữ “nhất tâm” này, “nhất tâm xưng danh”, then chốt nằm ở hai chữ này. Trong đoạn văn này, hai chữ “nhất tâm” là then chốt. Ông không có niệm gì khác, không lo lắng, không nghi ngờ, cũng không có bất kỳ suy nghĩ nào khác, chỉ nhất tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Lửa cháy đến nhà ông thì chuyển hướng sang nơi khác, nhà ông không bị cháy.
Người khác cảm thấy kỳ lạ, cũng có người không cho là đúng, lý giải rằng lúc lửa cháy gần đến nhà ông, do may mắn là gió đổi hướng, thổi lửa đi nơi khác, chưa chắc là Bồ Tát thật linh hiển. Chúc Trường Thư nghe như vậy vẫn không dao động. Những người trong làng khi ấy nghĩ, “ông nói Bồ Tát Quán Thế Âm linh hiển, vậy để chúng ta thử xem”, họ liền cố ý phóng hỏa đốt nhà vào ban đêm, đốt liên tiếp ba ngày mà nhà ông vẫn không bị cháy. “Phóng hỏa đốt nhà ông”, trong sách nói rất đơn giản. Đó là họ lợi dụng lúc đêm tối, mỗi đêm đốt một lần, nhưng đốt không cháy được. Đêm thứ hai lại đốt, cũng không đốt cháy được. Đêm thứ ba lại đốt nữa. Liên tiếp ba đêm đều có người cố ý đốt nhà ông, đều không đốt cháy được. Từ đó, mọi người trong làng đều niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, mới biết thật sự là do thần lực cảm ứng của Bồ Tát, không phải ngẫu nhiên. Không có những người nghi ngờ này thì không thể làm rõ việc Bồ Tát thật sự có uy lực, lại cũng chứng minh cư sĩ Chúc Trường Thư thật sự nhất tâm xưng danh, không có nghi ngờ.
Ngày nay chúng ta cầu nguyện nhiều, đều do tâm không thành; tâm không thành thì không có cảm ứng. Ví dụ này, chúng ta không nên xem là ngẫu nhiên, nhất định không phải ngẫu nhiên. Tự chúng ta nhất tâm xưng danh thì sẽ có cảm ứng, giống như cư sĩ Chúc Trường Thư vậy.
Tôi kể thêm một câu chuyện, xảy ra ở Đài Loan, chúng ta đã chứng kiến. Khi tôi học với thầy Lý ở Đài Trung, quý vị biết rằng Đài Trung có nhà sách Thụy Thành, thường in sách Phật. Cả nhà họ đều học Phật, là đại hộ pháp của thầy Lý. Lúc đó tôi đang ở Đài Trung, khi thầy Lý giảng kinh, chúng tôi cùng nghe, ông chủ Thụy Thành cũng đang nghe. Ông chủ già lúc đó còn sống, cùng con trai ông là Hứa Viêm Đôn cũng đang nghe giảng kinh. Nghe được nửa chừng, người nhà chạy đến báo nhà hàng xóm cháy, sắp lan đến nhà họ. Hai cha con ông chủ Thụy Thành rất đáng khen, họ nghe xong xem như không có chuyện gì, vẫn tiếp tục nghe giảng kinh, không hề hoảng hốt. Họ không vội về nhà dọn máy móc, cứu hỏa, cứ xem như không có chuyện gì, vẫn ngồi đó nghe kinh. Đến khi giảng kinh xong, nghe nói lửa đã tắt, nhà họ không bị cháy. Thầy Lý xuống tòa, gọi hai người lại, gật đầu nói: “Hay, khá lắm! Hai người cũng khá lắm.” Nếu là người khác hẳn đã loạn tâm rồi; hai người họ nghe rồi xem như không có chuyện gì, như lửa không cháy nhà họ, đến nhà họ thì tắt.
Chuyện như vậy chúng ta nghe qua có vẻ như ngẫu nhiên, nhưng thật ra không hề ngẫu nhiên. Một niệm thanh tịnh thì một niệm cảm ứng, niệm niệm thanh tịnh thì niệm niệm cảm ứng. Đó gọi là, một niệm cảm ứng một niệm Phật, niệm niệm cảm ứng niệm niệm đều là Phật. Nếu chúng ta khởi tâm nghĩ rằng “để tôi cũng thử làm xem có được không” thì sẽ không có cảm ứng. Vì sao? Vì tâm không chân thành, tâm không chuyên nhất. Quý vị khởi tâm cầu may, khởi tâm muốn thử nghiệm, như vậy là không chân thành. Đó không phải tâm chuyên nhất, vì tâm chuyên nhất thì không có ý niệm nào khác.
Mời quý vị xem tiếp phần thứ hai, nói về “thoát nạn nước trôi”.
“Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu ngài, liền được đến chỗ cạn.”
Nói “nước lớn”, vì dòng nước nhỏ không gây thành tai nạn. Nước lớn tức là lúc lũ lụt. “Kinh nói: Thứ ba là,”, ở đây chỉ kinh Lăng nghiêm. “Xoay cái nghe vào trong, nên khiến cho các chúng sinh dù bị nước lớn cuốn trôi cũng không bị nhấn chìm.”
Trong bốn đại thì “nghe” thuộc về thủy đại. “Cái nghe xoay chuyển thì lìa nước bên ngoài trần cảnh, nên không bị nước nhận chìm.” Xoay cái nghe vào trong, đây là nguyên do thần lực của Bồ Tát, do xoay lại quán xét tánh nghe, xoay chuyển cái nghe hư vọng, trở về cái nghe chân thật, ý nghĩa cũng giống như phần trước [nói về cái thấy]. Trước đây nói cái thấy thuộc về hỏa, ở đây cái nghe thuộc về thủy. Nghiệp nghe của chúng sinh chiêu cảm, tức nghiệp nghe bên trong tương cảm với cảnh giới bên ngoài, mới hiện ra tai nạn nước trôi. Từ đó có thể thấy, thiên tai, tức tai họa tự nhiên, cũng là do chúng sinh tạo tác nghiệp chung. Nếu không có nhận thức tương đối về Phật pháp thì cũng khó tiếp nhận ý nghĩa này. Những điều này trong Phật pháp thuộc về giáo lý thâm sâu. Người bình thường tiếp nhận giáo lý nông cạn thấy rất có lý, có thể tiếp nhận, nhưng những chỗ quá sâu xa như thế này họ không thể lý giải, không thể tiếp nhận, còn có thể chê trách cho là mê tín. Nếu người chê trách ấy có địa vị trong xã hội, có học vấn cao, có ảnh hưởng rất lớn, như vậy thì họ tạo nghiệp cũng rất sâu nặng.
Vì vậy, đức Phật dạy chúng ta, sau khi Phật diệt độ, chúng ta có thể tuân theo “tứ y pháp” thì cũng giống như Phật còn tại thế. Trong tứ y pháp, trước tiên là nguyên tắc “y pháp bất y nhân” (y theo pháp, không y theo người). Ngày nay, bất kể một người có địa vị cao đến đâu, danh tiếng lớn đến đâu, nếu lời nói của họ không thấy trong kinh điển thì chúng ta không tin theo. Chúng ta phải lấy chánh pháp, lấy kinh điển làm căn cứ, không thể lấy tri kiến của người khác làm căn cứ, điều này rất quan trọng. Vì người thế gian đối với những người có danh tiếng đều có tâm kính trọng, ngưỡng mộ, lời họ nói dễ được tin theo. Còn đức Phật cách chúng ta quá xa, chúng ta quên lời Phật dạy, tin theo những người ấy. Nếu tri kiến của họ sai, chúng ta cũng đi theo con đường sai lầm, như vậy thì tai hại rất lớn.
“Xoay cái nghe vào trong thì không tạo nghiệp nghe, nên nước không thể nhận chìm.” Chúng ta là phàm phu nhưng nếu có thể nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì gặp nạn nước lớn cũng có thể bảo toàn tính mạng, thoát khỏi tai nạn. Việc gặp nạn nước trôi mà thoát được nhờ “nhất tâm xưng danh” có rất nhiều ví dụ, ở đây dẫn ra một ví dụ là chuyện ngài Đạo Quýnh. Câu chuyện của ngài Đạo Quýnh trong sách này ở trang 1089, tức trong phần Âm nghĩa cuối sách, quý vị ghi nhớ, khi có thời gian thì xem qua. Những ví dụ như vậy rất nhiều, không kể xiết, quý vị có thể xem trong Quán Thế Âm Bồ Tát Linh Cảm Lục. Vẫn chỉ là một nguyên tắc: “nhất tâm xưng danh”, bốn chữ này nhất định không thể bỏ qua, mới có thể đạt được sự cảm ứng.
Phần thứ ba nói về “thoát nạn la-sát”, mời quý vị xem kinh văn.
“Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì cầu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu v.v... mà vào biển lớn, giả sử có gió đen thổi thuyền trôi dạt vào nước la-sát, trong số đó dù chỉ có một người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì tất cả những người đó đều được giải thoát khỏi nạn la sát. Do nhân duyên này, nên ngài có tên gọi là Quán Thế Âm.”
Chúng ta đều có thể tin chắc rằng, người thế gian ai cũng hy vọng có cuộc sống giàu có hạnh phúc, không thích nghèo khó. Chỉ có rất ít ngoại lệ. Những ai có thể cả đời sống trong nghèo khó thì đều là nhân vật không tầm thường, tâm địa thanh tịnh, biết đủ thường vui, không phải người thường. Trên đại lục có rất ít người như vậy. Trước đây tôi được nghe, dường như là Lão hòa thượng Nam Đình, kể một câu chuyện về người cùng quê. Hòa thượng là người Thái Châu, Giang Tô, kể rằng có một ông lão là người ăn xin. Sau này đứa con trai ông ấy thành đạt, có địa vị trong xã hội, giàu có, vì cha ở ngoài đi ăn xin, con trai cảm thấy rất xấu hổ. Do vậy tìm cách mời ông lão về. Ông về nhà, ở chưa đầy một tháng, lại lén bỏ đi ăn xin nữa. Người ta hỏi tại sao? Ông nói như vậy được tự do! Xin được thức ăn no rồi thì đi chơi khắp nơi, ngao du sơn thủy, rất tự do tự tại! Ông nói rằng về nhà có nhiều người hầu hạ, thấy rất khó chịu. Người như vậy không phải người thường, thật không đơn giản. Biết sống thanh tâm quả dục, được thanh tịnh tự tại.
Vì vậy, người tu đạo muốn sống cuộc sống nghèo khó, không muốn giàu có, yên trong cảnh nghèo mà vui với đạo. Ngày xưa, ngoài những người xuất gia tu đạo, còn có những vị ẩn sĩ, có học vấn, đạo đức, không muốn ra làm quan, chỉ muốn sống cuộc sống thanh bần. Xem như các nhà văn thời xưa, không phải là không có học vấn, không có năng lực, nhưng còn đi khắp nơi mượn tiền bạn bè, mua rượu thiếu, còn nợ nhiều tiền, nợ nần rất nhiều, trong đó họ lại có niềm vui riêng.
Nhưng đó là số ít, còn đa số đều cầu giàu sang. Vì vậy người xưa thường nói “thanh bần trọc phú”, thanh cao thì nhất định là nghèo khó, nghèo khó mới hiển thị thanh cao. Ví dụ như các vị cao tăng, chỉ thanh bần mới thật cao tăng, giàu có thì là tục tăng, không phải cao tăng. Vì vậy, người thế gian đa số cầu tài phú, cầu công danh, cầu phú quý, đó là thói thường của con người.
“Vào biển cầu châu báu”, như ngày nay tức là thương gia buôn bán với nước ngoài. Phương tiện giao thông tàu thuyền ngày xưa chưa phát triển như bây giờ, đều là thuyền buồm, đi trên biển rất dễ gặp nạn. Không như bây giờ, tàu hàng ngàn tấn, hàng vạn tấn không dễ gặp nạn. Ngày xưa tàu lớn nhất cũng chỉ vài chục tấn, thuyền lớn đóng bằng gỗ. Quý vị có thể xem câu chú giải này: “Vào biển cầu châu báu, kết bạn không biết bao nhiêu người”, nghĩa là luôn phải kết bạn đồng hành, mỗi lần ra khơi đều có nhiều tàu, “cuối cùng không thể đi một mình”, nhất định phải có bạn đồng hành, “nên nói tổng số trăm ngàn vạn ức, không xác định được bao nhiêu người”, là nói ý nghĩa số lượng ở đây. “Vào biển, kinh Hiền Ngu nói, trồng trọt lợi gấp trăm”, đây là nói lợi nhuận của nông dân, “buôn bán gấp ngàn, làm quan gấp vạn, vào biển may mắn về được”, là nói thật sự tìm được châu báu trở về, “thì được đến vô số lần”. Đây là vì muốn được châu báu nên mới mạo hiểm; mạo hiểm lớn như vậy để vào biển tìm châu báu.
“Kinh A Hàm nói, gió thêm đen, sợ hãi lắm.” Gió đen là gì? Như bây giờ biết là lốc xoáy, bão lớn. Ngày xưa trên biển, không dự báo thời tiết chính xác như bây giờ, hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, đi biển phải dựa vào kinh nghiệm. Gặp nạn gió, nếu gần đó không có đảo an toàn tránh gió, lúc này khó tránh khỏi tai nạn. “La-sát” là loài quỷ ăn thịt người, thường sống trên đảo. Ngày nay nói ra người ta không tin, có người nói có thể là người man rợ, tức các tộc người ăn thịt người, là gặp phải những người này. Thuyền trôi dạt vào đảo của họ, gặp những người như vậy rất nguy hiểm, “la sát là quỷ ăn thịt người”. “Một người xưng danh hiệu, những người khác đều được giải thoát, vì cùng hoạn nạn, tuy miệng không cùng xướng, tâm giúp tìm phước, nên đều được cứu.” Đây là nói trong số bạn đồng hành, có một hai người có thể nhất tâm xưng danh, cầu Bồ Tát cứu nạn này, đều có thể được cảm ứng, đều có thể thoát nạn. Ý nghĩa ở đây là, mọi người cùng trong hoạn nạn thì dễ đồng tâm đồng nguyện. Tai nạn đang xảy ra, không có cách nào khác, nên người không tin cũng niệm, cũng niệm theo. Hơn nữa, trong lúc nguy nan này, tâm niệm Phật đặc biệt thành khẩn. Vì sao? Vì không có vọng niệm, chuyện sống chết là quan trọng. Vì niệm như vậy nên rất dễ được cảm ứng.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thứ tư, dứt trừ vọng tưởng, tâm không giết hại, nên khiến cho các chúng sinh dù vào các nước quỷ, quỷ không thể làm hại.” Đây là kinh văn. Bồ Tát Quán Thế Âm “diệt vọng đoạn sát”, đã dứt trừ sạch sẽ, nên có thể “xa lìa quỷ ác hại”. Trong đoạn này dẫn Kinh Lăng Nghiêm có hai câu rất quan trọng, chúng ta nhất định phải tu học, đó là “dứt trừ vọng tưởng, tâm không giết hại”, hai câu này rất quan trọng. Vọng tưởng là ý thức thứ sáu, trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nhiều lần dạy rằng, đây không phải chân tâm của chúng ta. Vọng tưởng có thể chướng ngại pháp thân huệ mạng của chúng ta, giống như quỷ la sát có thể hại thân mạng chúng ta. Vọng tưởng gây chướng ngại khiến cho pháp thân huệ mạng của ta không thể hiển hiện. Từ đó có thể thấy, giao cảm với ma quỷ chính là vọng tưởng. Nếu vọng tưởng không sinh, ma quỷ dù nhiều cũng không thể gây hại. Đừng nói là quý vị niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, cho dù không niệm, ác quỷ cũng không thể làm hại quý vị. Bởi vì, do vọng với vọng giao cảm nên mới có những tai nạn này hiện ra.
Muốn dứt trừ vọng tưởng, nhất định phải học Phật pháp, nhất định phải tu tâm thanh tịnh. Không có vọng tưởng, tâm liền thanh tịnh; không giết hại, tâm liền từ bi. Người khác hại mình, giết mình, chúng ta cũng không khởi niệm báo thù, như vậy thì tai nạn này mới có thể vĩnh viễn dứt trừ. Người khác hại mình, giết mình, chúng ta phải suy nghĩ, đời trước nhất định có nhân nghiệp. Tại sao không giết người khác, tại sao không hại người khác, lại giết hại mình? Phải nghĩ đến đạo lý nhân quả luân hồi trong kinh Phật thường nói, “một miếng ăn, một ngụm nước, đều do tiền định”. Đời trước mình không hại họ, đời này họ quyết không hại mình; mình không nợ mạng họ, họ không thể lấy mạng mình.
Thuở xưa Lục Tổ gặp một tên ám sát, tên Hành Xương, bị người phương bắc mua chuộc, bảo giết Lục Tổ, giết xong sẽ cho tiền. Vì họ ghen ghét Lục Tổ. Lục Tổ có thần thông, có tha tâm thông, đã biết trước, nên lúc đó đợi hắn đến giết, bên cạnh để sẵn mười lượng bạc. Kết quả khi hắn đến, chém xuống ba đao, lưỡi đao đều xoắn lại, Lục Tổ vẫn an nhiên bất động. Tên ám sát hoảng sợ bỏ chạy. Lục Tổ gọi hắn lại, nói rằng ta chỉ nợ ngươi tiền, không nợ mạng sống, nên ngươi không thể lấy mạng ta; đây có mười lượng bạc hãy lấy đi, đời trước ta nợ ngươi, bây giờ trả ngươi; nợ tiền trả tiền, nợ mạng trả mạng; ta không nợ mạng ngươi nên đưa cổ cho ngươi chém ba đao cũng không bị thương.
Vì vậy, khi bị người khác làm hại, chúng ta hãy nghĩ rằng đời trước mình đã hại họ, hôm nay họ hại mình. Tốt thôi, một báo trả một báo, việc này xong. Từ nay về sau bắt tay làm bạn tốt, giúp đỡ lẫn nhau, oán kết mới giải. Nhất định phải tu tâm đại từ bi, oán oán tương báo thì không bao giờ dứt.
Quý vị xem trong An Sĩ Toàn Thư, bài Âm Chất Văn của Văn Xương Đế Quân, thử nghĩ xem như Văn Xương Đế Quân trong mười bảy đời trước kết oan gia, đời đời kiếp kiếp báo oán qua lại, thê thảm không kể xiết. Cuối cùng gặp Bồ Tát mới tỉnh ngộ, oán kết mới giải trừ. Vì vậy, chúng ta đối với bất kỳ người xấu ác nào, quyết không có một niệm báo thù, tai nạn của chúng ta mới có thể tiêu trừ. Nhất tâm xưng danh cầu Bồ Tát gia trì thì tai nạn sẽ được tiêu trừ. Những ý nghĩa này nếu thấu hiểu thì oan gia trái chủ từ vô thủy kiếp đều có thể hóa giải, tại sao chúng ta không làm?
Nguyên do năng lực gia trì của Bồ Tát Quán Thế Âm là “xoay cái nghe vào nghe tự tánh”, “ngược vọng quay về chân”, “ngoài không duyên theo trần cảnh, trong không tìm cầu căn”, gọi là “căn không gặp trần”, vọng tâm tự nhiên dứt mất. Bồ Tát không có vọng tưởng. Bồ Tát không giết hại nên trong tâm ngài căn bản không có ma quỷ. Không ma cũng không quỷ, ma và quỷ đều hại người, ngài dùng thần lực này gia trì cho tất cả chúng sinh, dù gặp những quỷ này cũng không bị hại, có thể khiến những chúng sinh này thoát khỏi nước quỷ la sát.
Nhưng chỗ này phải chú ý, tức là nhất định phải “nhất tâm xưng danh” quỷ mới không thể hại. Bình thường chúng ta phải tu tâm, tu tâm thanh tịnh, tu tâm từ bi. Chỉ có tâm địa thanh tịnh, từ bi mới có thể lìa tất cả ma quỷ. Quý vị xem những chuyện trong Liêu Trai Chí Dị, có nhiều người nói chỉ là hư cấu, không đáng tin, nhưng những chuyện này tôi tin là có. Hoặc như sách Tử bất ngữ, rồi còn có Duyệt vi thao đường bút ký của Kỷ Hiểu Lam. Quý vị xem, đó đều là những câu chuyện yêu ma quỷ quái. Trong những câu chuyện đó, xin thưa cùng quý vị, tôi vẫn tin có bảy trên mười phần là thật, không phải hoàn toàn hư cấu, vẫn có phần là sự thật.
Thật sự có quỷ, không phải không có quỷ, và quỷ cũng thật sự có thể hại người. Có nhiều người có kinh nghiệm này, quỷ lớn thì chưa gặp nhưng đã gặp quỷ nhỏ, gây hại ít hơn. Ví dụ như trong ba mươi sáu loại quỷ có loại quỷ đè, ở đây nhiều đồng tu đã gặp. Trước khi học Phật tôi rất thường gặp, mỗi tháng gặp mấy lần. Gặp phải rồi, sau này học Phật mới suy nghĩ gặp như vậy là đúng lẽ. Vì sao? Vì có tâm giết hại. Từ nhỏ, trong khoảng ba năm, 16, 17 và 18 tuổi là lúc tôi giết hại vật mạng nhiều nhất. Ngày nào cũng đi săn, tôi bắn súng trăm phát trăm trúng, đều nhờ luyện tập mà được. Mỗi ngày tôi bắn trung bình hai mươi viên đạn, ngày nào cũng luyện tập, ngày nào đi săn cũng mang thú về. Vì vậy sau này thường bị quỷ bắt nạt. Ban đêm ngủ, quỷ đè lên người, trong tâm biết rất rõ nhưng không cử động được, kêu la thế nào cũng không ra tiếng, bị hành hạ như vậy mấy tiếng đồng hồ, thật khổ! Sau này học Phật, người ta nói với tôi, gặp chuyện này thì trong tâm nên niệm Phật A-di-đà, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Có lúc không nghĩ ra, có lúc nghĩ ra, trong mộng niệm mấy câu, quả nhiên không có nữa, rất hiệu quả. Hai mươi năm gần đây tôi chưa từng gặp nữa, với những ác quỷ này duyên đã dứt, chưa từng gặp lại. Nhưng lúc trẻ, kinh nghiệm này rất phong phú, rất thường gặp. Khi tôi học với thầy Lý ở Đài Trung, tôi hỏi thầy rốt cuộc là chuyện gì. Thầy Lý nói với tôi, loại quỷ này gọi là quỷ đè, chúng bắt nạt người, tuy không có chướng ngại lớn, nhưng chúng bắt nạt quý vị. Thường là vào lúc đó vận khí không tốt, mới bị quỷ bắt nạt. Vì vậy người đời thường nói, lúc khí vượng thì quỷ thấy cũng sợ, không dám bắt nạt. Khi quỷ bắt nạt quý vị tức là lúc vận khí không tốt, đen đủi mới gặp quỷ.
Đây là những điều chúng ta nhất định phải tu học: phải dứt trừ vọng tưởng, tu tâm từ bi. Không giao thiệp với quỷ thần, điểm này rất quan trọng. Đừng nghĩ rằng, nếu tôi không lạy thần đó, thần đó sẽ gây phiền phức, sẽ khiến tôi gặp tai nạn. Đây chính là vọng tưởng của quý vị, vọng tưởng kết hợp với quỷ thần. Quỷ thần vì quý vị có vọng tưởng nên mới có thể bắt nạt. Nếu quý vị căn bản không có vọng tưởng, căn bản không lưu ý đến họ, hạnh phúc của ta là do ta tạo, có liên quan gì đến quỷ thần? Quỷ thần thấy như vậy cũng đành bỏ đi, không có cách gì làm phiền quý vị. Quỷ thần thấy có thể bắt nạt nên mới bắt nạt quý vị, không thể bắt nạt thì không dám. Những người tâm chân chánh, công hạnh chân chánh thì quỷ thần đều kính trọng, sao có thể bắt nạt?
Trong kinh cũng có một câu chuyện nói về nước Sư Tử, tức là đảo Tích Lan phía nam Ấn Độ ngày nay. Có một số người, “hơn trăm người, từ nước Sư Tử đi biển, bỗng gặp gió độc, trôi vào nước quỷ, quỷ muốn ăn hết”. Gặp những người này, hoặc quỷ la sát, quý vị gọi họ là dân tộc man rợ cũng được, dù sao thì họ cũng đều gây hại. Tất cả mọi người trên thuyền đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng trong đó có một người không tin, cũng không niệm. Kết quả quỷ la-sát muốn ăn thịt người này, “Tốt lắm, ta không ăn các người, riêng người không niệm Bồ Tát hãy đưa cho ta, ta ăn hắn.” Người này sợ hãi, vội vã niệm một tiếng, cũng được thoát nạn.
Những chuyện nạn quỷ như thế này, xưng danh được Bồ Tát cứu giúp, có rất nhiều, ở đây không thể kể ra nhiều ví dụ cho quý vị. Trong khóa Phật thất này giảng bộ kinh này, quan trọng nhất là để chúng ta hiểu rõ ý nghĩa, xây dựng tín tâm, biết “nhất tâm xưng danh”, có thể quyết định cầu được sự cảm ứng. Mục đích của chúng ta ở đây là như thế. Quý vị muốn biết nhiều chuyện thì xem trong Quán Thế Âm Bồ Tát Linh Cảm Lục, sách này lưu thông rất rộng ở đây, khắp nơi đều có thể tìm xem. Quý vị đừng ngại xem nhiều, và quan trọng là phải tin chắc mỗi chuyện trong đó đều là chân thật, không phải hư cấu, không phải để lừa dối người, đều là sự thật hoàn toàn. Vì vậy, lúc xưng danh nhất định phải nhất tâm, tuyệt đối không có ý niệm khác, quyết định không nghi ngờ thì mới có cảm ứng.
妙法蓮華經觀世音菩薩普門品 (第五集) 1983/12 台灣景美華藏圖書館 檔名:08-004-0005
請掀開經本八百零七面:
昨天講的這一段,在註解裡面引用了兩條公案,一位是琳法師,一位是孫敬德,這兩個人的公案都在本經《音義》裡面。琳法師在,就是我們這個本子一0八七頁,諸位記一記就好了,你們自己去翻著看。孫敬德這個公案在一0八八頁,這個我們都不必要再講了,諸位記一記。如果要參考的話,可以翻後面的《音義》上去參考。下面就是「別答」,別答裡面也就是本經主要的內容,正是菩薩的十二大願。分為三大段,「初免七難」,第二段是「離三毒」,第三段是「應二求」。在第一個段落裡面,又分為兩個中段,第一個中段是「正明七難」,第二是「結其神力」。七難就是七個小段,第一個小段是「免火難」。請看經文:
【若有持是觀世音菩薩名者。設入大火。火不能燒。由是菩薩威神力故。】
大師在這個註子裡面說,「此下不出三業為機」,就是在這一大段裡面,這個十二大願不出身、口、意三業。「七難持名,口業機也。三毒常念,意業機也。」所以,滅三毒,心裡面要常常憶念觀世音菩薩。「二求」必得要「禮拜」,這是「身業機也」。所以,我們有求於觀世音菩薩加持我們,一定要禮拜,這是三業恭敬。這一段的意思昨天也給諸位提示到,清涼大師在《華嚴經》裡面也是這樣的給我們說明。諸位看看《華嚴經.觀自在章》的註解,就曉得我們應該如何來祈求菩薩感應。這個幾句話是總綱,一直貫入這一大段,就是十二大願。
下面再給我們解釋「若有設有」,經文裡面常常有這些字樣,這種字樣都是假設,「皆不定之辭」。有什麼樣的災難,都可以修學這個法門,我們這個災難就可以免除。下面這是引用《楞嚴經》的經文,說明菩薩加持的能力究竟從什麼地方來的。「普門品」裡面只說加持之事,沒有說出菩薩這種能力的來源,所以必須要兩部經合起來看。「二者」,這是《楞嚴經》上的,「知見旋復,令諸眾生,設入大火,火不能燒」。我們將底下有兩行半的小註念一念。「見覺屬火」,在四大裡面偏於火大,「知見旋,則離火塵。幻塵既離,真性斯存,所以無火害也。由菩薩離塵復性之威力加被,故眾生入火持名,亦不能燒」。說到知見,它就包括了六根。我們六根的作用是見、聞、嗅、嘗、覺、知,在眼根叫見,在耳叫聞,在鼻叫嗅,在舌叫嘗,在身叫覺,在意叫知。這個六根其實是一性所起的作用,就是一個本性所起的作用,「元依一精明,分成六和合」。
旋復就是回頭,就是我們這個作用不向外流,而向內入,就是曉得回頭。佛在一切經典教誡眾生,總是以這個意思擺在最先。我們在《金剛經》裡面所看到的,釋迦牟尼佛入舍衛大城乞食,乞食之後他就回到精舍,洗足,敷座而坐,這就是表示能夠回頭。我們的毛病就是不知道回頭,不知道回頭我們這個心就被外境所轉,這叫凡夫。所以在修學,認真的修學,無論做什麼事情,起心動念、做一切的事情要知道回頭。知道回頭的人,在世間事業他有成就,修學出世間法他也會有成就,為什麼?這是屬於善根福德之一。在世間叫福德,這是個有福之人,凡是做事情會回頭的,這個人有福。學佛,凡是心能夠回頭的這個人有善根,他的修學一定有成就。在佛法裡面,所以講觀機,觀察眾生的根機,哪個人根性熟了,可以度他,哪些人根性還沒熟,只能夠做一個種子。觀機從哪裡觀?就是看他能不能回頭,從這個地方看。念念都能回光返照的,這個人根性熟了,佛菩薩一定要幫助他,因為他在這一生他能夠證果,他能夠成就。所以說根熟眾生。世間法,你看看像公司行號做老闆用人,一般機關首長用人,他也曉得觀機。哪些人他要用、他要提拔?做事情知道回頭,認真、負責、心思細密,這樣的人他一定會培養他,做為將來自己的幹部。由此可知,這旋復兩個字,在世出世間都非常的重視。
我們學佛要想有成就,這兩個字決定不能夠輕易的看過。菩薩這個能力的來源,就是曉得回頭。所以佛門裡面常講回頭是岸,旋復就是回頭,旋是轉過來,復是回到原來的位子上,就是回頭是岸。
在這個地方,菩薩是旋妄歸真。根塵接觸的時候,這當中就生識,譬如我們眼根接觸色塵,眼見色,就會起分別、執著;分別執著就是識,識心生起來了,這是妄。旋復是什麼?趕緊回過頭來,這一回頭,識心就不生了,在這個境界裡面,就不再繼續的去分別、去執著,分別心、執著心斷了。斷了的時候,功夫怎麼?功夫內照,內照這就是歸真。真是什麼?一心,也就是清淨心。我們眼見外面一切色塵,這是照,照得清清楚楚、了了分明,這個裡面沒有分別、沒有執著,不起心、不動念,是真心對境,這叫做旋復。所以旋復,你要懂得這個意思,如果你要是錯會了,那就麻煩大了。錯會了怎麼樣?跑到裡面去找,裡面能找得到嗎?我們眼睛只能看外面,怎麼能看裡面?耳朵只能聽外頭,怎麼會聽裡面?那你就是望文生義,就死在文字、音聲之中,那就錯了。
所謂旋復,無非是息妄顯真,是這個意思。如果這個字的意思不明瞭、錯用了,不但沒有利益而且有害處。像古人讀書,讀孔子公的書,念到「格物致知」,他就去格物,他怎麼格物法?他認為格是去研究,他就找一個東西細細去研究,現在是科學的方法。研究到最後得了一場大病,這問題還沒有解決,這就不知道格物兩個字的含義。儒家的格物,司馬光解釋得非常好,物是什麼?指的物欲,我們的欲望。格是什麼?格殺,就是佛法裡面的斷煩惱。一般所講克己的功夫,要克服自己的欲望,知足常樂,格物是這個講法。你知足了,心不向外面去攀緣,你的心自然清淨,清淨心裡面就生智慧,叫致知。可見得儒家所講的這套功夫,方法、程序跟佛法所講的沒有兩樣,正是所謂「英雄所見,大略相同」。佛是聖人,孔老夫子也是聖人,他們的見解相同的地方很多很多。這兩個人沒有見過面,也沒有在一塊談過話、商量過,沒有,他們的見解相同的地方太多太多了。
所以我們要曉得什麼叫做旋復,這兩個字的意思一定要搞清楚,就是我們的心在一切境界上要曉得回頭。為什麼要回頭?不回頭不行嗎?《金剛經》裡面說得清楚,「凡所有相,皆是虛妄」。因為所有的境界相都不是真實的,不回頭怎麼行?不回頭,妄心緣妄境,那就愈迷愈深。迷了一定就有妄動,就有造作;造作裡面免不了有善惡,既有善惡,就有業報。六道輪迴就是自己造成的,起惑、造業所感的果報就是六道輪迴。此地所講的七種災難就是屬於果報,三毒那是業因,那是造業。七難,菩薩講果上的災難菩薩能救,但是果上的災難,說個實在的話並不可怕,因上的災難才可怕,三毒才真正可怕。三毒要是滅了,果上的災難就不足為懼了,那個問題很容易消除的。所以這個十二願裡面,是以滅三毒為最重要的部分。
這個地方的意思,就是「知見旋復」,就是從不正的知見回過頭來,復歸到正知正見。觀音菩薩他用功的方法是從耳根反聞入流,是用這個方式。方法很多,所謂是無量無邊,你看四弘誓願裡面我們常常念的「法門無量誓願學」。觀音菩薩用這個方法成就了,這個方法適合於他,他用得很順利、很自在,一點都不勉強,這樣才容易成就。如果那個法門對自己來說相當勉強,用得不太順利,我們就可以把它捨棄掉。好像我們要進入這個講堂,假設我們這個講堂四面都有門,門戶很多,法門很多,講堂就好比一真法界。我們站在這個講堂的門口,從這個門進去多方便,不必去繞很多路,去走另外一個門,入進去是一樣的。諸位要懂得這個道理,然後自己才曉得選擇法門。縱然是同樣的一個法門,修學的方法也不盡相同。一切都要順乎自己的根性,順乎自己現前的生活方式,這樣才能夠自自然然,所以說快快樂樂的修,不會感覺得有拘束、有束縛、有苦惱,就不會感覺了。所以佛才有那麼多的法門,不是一個法門,非這個法門不可,不是這樣的。法門平等,無有高下,任何一個法門,只要你懂得旋復,就能夠成就無上道。
觀音菩薩從耳根,一般講,一般人來說耳根是利。可是有些人,就是在今天也如此,你給他講,講了再多他聽不清楚、聽不明白;你寫給他看,他一看就清楚了,為什麼?他眼根利。我就見過,他聽演講他不願意,你把演講稿子摘錄下來,他一看就明瞭。所以有耳根利的,也有眼根利的,哪一種根性利我們就用哪一種根性,哪一種法門適合我們,我們就採取哪個法門,只要原則、原理不錯就行了。不一定說別人修那個法門,他成功了,那我也得要修那個法門。好像害病一樣,他害的那個病,吃那個藥就好了,我也害了個病,趕快去跟他買一樣的藥。咱倆病不一樣,我要吃他那個藥,病加重了,要死了。每個人根性不相同,人家修那個法門容易成就,我們修那個法門就未必能成就,這個是要知道的。
「一根返源,六根解脫」,它是有連帶關係的。我們懂得一根返源六根解脫,立刻就會聯想到,古人所說一經通一切經通。一部經你通達了,一切經都通達了,就跟那個一根返源六根解脫是一個道理。千經萬論是講的一個道理,這個道理明白了,千經萬論你都通達了。正因為如此,所以古大德才提倡叫從根本修。何謂根本?在一切經論裡面,你喜歡的那一部經,你跟這部經特別有愛好,你一生當中決定就修這部經、學這部經,這部經就叫做根本。這部經通了,一切都通達,這叫從根本修。所以在我們中國古代,你看各宗各派,所謂根本,各人有各人的根本。賢首宗的根本就是依《華嚴》,是它的根本;天台家的根本就是《法華》;淨土宗的根本就是三經一論。各人有修各人的根本,個個都成佛作祖,個個都成無上道。如果這些人說,所有的經典我都要來修學,那他在一生當中,他一樣都學不通,這是我們應當要覺悟的。曉得佛法講從根本,這個根本是指什麼。禪家的根本是講心性,所謂是「不立文字,直指人心」,那是禪家的根本。由此可知,教有教的根本,淨有淨的根本,密有密的根本,各人有各人的根本。
剛才說過,知見是屬於火,四大裡面是屬於火。因為知見它有光明的意思,明是火相,火有照明的作用。「知見旋」,回過頭來了,就離了火塵,換句話說,內「見覺」的火既然息了,於是乎外面的火難它就不能危害了,外面縱有大火,它不能害。水火的災難,我們讀這個經文實在是難以相信。要是真的這樣子,大火那個地方,火不能燒,沒有災難,那我們這個都市、國家的消防隊都可以不必要了。再有現在你看看戰爭,核子彈那是大火,我們念念觀音菩薩,原子彈落下來的時候火就滅了,誰相信?我們說最虔誠的佛教徒,他也不相信,別的人怎麼能相信!
給諸位說這個火是真不能燒。它能夠有燒的作用,確實是內外相感,它才會起作用。古大德說的,內四大與外四大是常相交感,我們現在生活是在這個境界裡,所以才有種種的災難;如果內四大清淨了、捨離了,外面四大也被你所轉了。經裡面說的這個理論,有的時候我們聽了點頭,「境隨心轉」。我們這個身體、外面的是環境都是境界,都是我們一心變現之物。正因為心不清淨,所以變現外面這些境界,我們又迷在這個境界裡面,才受種種的障礙、種種的災難。心要一清淨,外面境界也統統都恢復到清淨。所以,境界原本是一真,這個境界相原本是清淨寂滅相,哪裡有災、哪裡有難?換句話說,有幾個人能夠真正的相信?所以佛在大經裡面說,「信為道元功德母」,信心的建立實在是太難太難。我們之所以得不到感應、得不到成就,就是我們根本就不了解信心,我們沒有建立信心。一切修學、一切的求願都是妄心,在那裡虛妄攀緣。不曉得回過頭來責備自己,反而去責備佛說的這些話靠不住,佛菩薩不靈,還去責備外面的人,這是我們很大很大的過失。
信心的生起,在佛法裡面,是修學最重要的一個階段。我們今天講信,說得好聽一點是勉強在信,談不上正信。正信是對於這些理論、對於一切現象,有正確的理解而相信的,這才叫正信。如果說得不好聽的,我們今天信是迷信,什麼叫迷信?因為對於事實的原理我們不清楚,事實的真相也不清楚,聽別人這麼說說我們就相信了。我們自己畢竟沒有親證這個境界,只是聽人家說的,說說我們就信了,這個信不叫做迷信叫做什麼?世間人所有講的這個信統統叫迷信,跟諸位說,沒有一樁事情不是迷信。科學家相信科學也是迷信,為什麼?科學沒有止境的,你今天所信的才這一部分,還有許多你還不了解。科學給我們帶來的,有什麼好處?所以今天連那些科學家他的信心也動搖了,為什麼?發展到今天,一個不小心,整個人類同歸於盡,這是它的結果。
所以,信佛這兩個字非常非常重要。我們在歷代,像觀音菩薩感應傳裡面所看的種種那些感應,他們那個信雖然是迷信,迷信也能起作用。它起什麼作用?起觀音菩薩神力加持,他確實免災免難了,它起這個作用。為什麼他迷能起作用,我們迷不起作用?我們迷的程度沒有他深,我們這個迷裡面還打問號;他那個迷裡頭他是全信,他一點疑問都沒有了,於是乎它起作用。迷到了極處就是真的了!覺迷不二,覺到了極處,那個樣子就像迷的樣子,迷到了極處,樣子就像覺的樣子。我們中國俗話常說「大智若愚」,愚是迷,大智是覺,可是達到了極處,那個交界的地方、交接的地方就是一不是二。所以他也能起作用,觀音菩薩大覺,他是大迷,他兩個起了作用,這是信心。
這種信心屬於什麼?這個給諸位說就是至誠心,他的心在這個裡面他沒有一點妄念,純到了極處;換句話說,這個心就是真心,不需要在教義去理解,真性就現前。禪宗就是用這個方法,所以禪宗一開頭就叫你發心參究,不叫你去聽經,不叫你讀誦,除了工作之外,就是在那裡打坐、參究。禪宗要不要看經典?我們看看古來祖師大德,就是以六祖來說,六祖在《壇經》裡面引經據典的很多。那些經他也沒有讀過、沒有聽過,他怎麼能引得出來?禪宗讀誦經典是要在心地清淨之後,所謂是明心見性之後,才許看經。教下那個方法正跟它相反,先從經論上下手,然後再求一心不亂,再求清淨心;先把理論、方法統統給搞清楚,再去求證。禪宗是先證得,然後再把經論搬出來,幹什麼?印證,我的知見跟佛的知見一樣不一樣。所以,經典有兩種作用,在初學的人,它是我們的指導原則;在證了果的人,是給他做見證的。就是看看他的見解、他的知見跟佛是不是一樣,如果是一樣的,證明沒錯,佛知佛見。
由此可知,關鍵就是在信心。如果我們對於菩薩沒有一絲毫的懷疑,就得感應,火就不能燒,水也不能溺,一切的災難、一切的苦厄都消除了。我們讀誦大乘,其目的無非是建立信心而已。理愈明,我們這個信心愈堅固,我們的疑慮愈減少。果然一切都不疑慮了,我們讀經幹什麼?就不必讀經了。所以禪門的修學,它的條件就是堅定的信心,一絲毫疑惑沒有,這才能夠參究。有疑,那就得要從經論上下手。所以教學,世出世間的教學,兩種人是當機者,一種人就是上智,一聞千悟,他沒有懷疑,這種人好教,容易成就;另外一種,就是愚痴到極處,他什麼念頭都沒有,你叫他幹什麼就幹什麼,這種人好教,決定成就。最麻煩的就是一知半解,所謂半調子,你說他愚,他又覺得很聰明,你說他聰明,他真是笨,他對於一切法半信半疑,最不容易成就,最難教的學生。我們想想,我們是不是佛陀最難教的學生?結果吃虧的都是自己。
觀世音菩薩他能回頭,正因為他能回頭,所以他回頭就見性,就是《心經》裡講「照見五蘊皆空」。四大是五蘊裡面的色法,不但色法空了,連心法,受想行識也空了,所以「度一切苦厄」。這句話是總綱領,我們今天在看的是裡頭的細目,一條一條的來敘說。所以菩薩知見旋復,他沒有見業,沒有邪知邪見,火與他不能發生感應。這是說他入火不燒這種能力的來源。不可思議的事,我們眾生並沒有這個能力,可是得有一個條件,就是對於菩薩全程肯定的相信,一點疑惑都沒有。縱然入到大火,那個火把自己身體燒成焦炭,還是沒有一念疑惑,這樣才行,才入火真的不燒;如果這個時候稍微有一點疑慮,就沒有感應了。
前面在總綱裡頭有說過,提出過這個問題,有許多人累年的念觀世音菩薩,為什麼沒有感應?不是跟你說了,經上講得清清楚楚,「一心稱名」,他心裡才有一個疑念就不是一心,才有一念,功夫就不是一片。不必說得一心,功夫成片就有感應,那一心還用得著說嗎?所以,我們與諸佛菩薩沒有辦法感應道交,一切的煩惱不能斷、災難不能免,要回過頭來想一想,我們功夫連成片都沒有得到,一天到晚還是胡思亂想。菩薩的願力、菩薩的慈悲雖然廣大,我們自己不能接受,得不到他的力量加持;並不是他不加持,是我們自己本身有障礙,阻止他神力的加持。我們本身這個力量相當大,經上講「心佛眾生,三無差別」,這個力量是相等的。所以是我們自己造成了障礙,與菩薩不能感應道交。我們真正相信,一點疑慮都沒有,我們自己的障礙排除了,所以佛菩薩的神力能加得上。這種力量在今天就是科學裡面所講的心電感應,誠到極處有感應。不要說佛菩薩對我們,凡夫裡頭都有,所以說母子連心。母親一天到晚掛念他兒子,兒子在外面,做兒子也非常孝順,也常常想念母親,古人有,歷史裡頭都有記載。母親想兒子,咬指頭,兒子心痛,母子連心,這是心電感應。他裡頭沒有疑慮、沒有妄念,他就有感應,何況我們對佛菩薩。諸位從這些道理、事實上你多去想想,感應的道理是千真萬確。你不明這個道理,你就沒有辦法得到感應,你明白這個道理,感應太快了,眾生有感,菩薩立刻就有應。
母子的慈悲是「愛緣慈」,那個愛也是無條件的。諸佛菩薩與一切眾生叫同體的悲心,「無緣大慈」,這個力量超過母子的恩愛,哪有不感應的道理?而是我們把佛菩薩當作外人,所以不能起感應。佛菩薩念念當中有眾生,眾生是念念當中沒有佛菩薩,所以才不能起作用。這是說明菩薩神力,說明菩薩確有能力加持眾生,眾生有感,佛菩薩確實有應。但是諸位一定要記住經上一句最重要的話,就是一心稱名。這個時候就為菩薩大悲威德光明所攝,才能夠不墮火難。這個地方說得簡單,「由菩薩離塵復性之威力加被,故眾生入火持名,亦不能燒」。
底下引用了一則公案,這是《觀音菩薩感應錄》裡面都有,是晉朝時候有位祝長舒居士,他的這麼一段故事。祝長舒,這裡寫得很清楚,他是洛陽人,就是現在的河南。大陸上住的房子多半都是草屋,你們現在這些年輕人都沒有見到過。你們二、三十歲的,政府到台灣來之後,由於經濟的發展,生活都富裕了,現在誰家裡還住草屋?在台灣我們看不到草屋。大陸上的房子都是自己建的,土牆,上面蓋的茅草。但是茅草屋的確有好處,冬暖夏涼,土牆要做得厚的話,也是冬暖夏涼,那有它的風味,住起來的確也很舒服的。可是草屋最怕的就是火,燃一枝火柴、一個香煙頭都可以把它燒掉。在大陸上,草屋是非常之多,說是磚牆、瓦屋那都是富貴人家,富有的人家,普通人家一般統統都是住茅草的房屋。他這個草屋是「為大火延燒將及」,當時鄰居起火,快要燒到他的家了。「鄰舍幾家,皆忙搬移物件」,別人看到火燒了,把貴重東西趕快搶出去、搬走。他信觀音菩薩,可見得他一點懷疑沒有。如果別人在這個地方,「觀音菩薩未必可靠,萬一燒掉我怎麼辦」,有這一念疑心就不行了。他信心堅固,他沒有這個疑心,這個時候完全就仰靠觀音菩薩。他就一心,注意這兩個字,「一心」,一心稱名,關鍵就是在這兩個字上,這一段文字這兩個字是關鍵。他沒有二念,沒有疑慮,沒有懷疑,也沒有一切顧慮,就一心在這裡念觀音菩薩。火燒到他那個房子就回過頭,轉頭轉到別的方向去了,他家房子沒燒到。
別人感覺到奇怪,也有人不以為然,剛剛燒到你,你運氣不錯,風轉向了,把火吹到別的地方去了,未必菩薩真靈。他是如如不動。你說觀音菩薩靈,我們就試試看,鄰里的人就故意的趁著晚上放火,連放了三天的火,他的房子都沒有燒起來。你看「舉火燒之」,他這個地方說得簡單。他利用夜晚,一次燒個一晚上,這個火沒有放成,沒有把它燒掉。第二個晚上再去,第二個晚上又沒有燒掉,第三個晚上再去。連著三夜有人故意放火,都沒有把它燒掉。於是乎這個村裡人個個都念觀音菩薩,才曉得真的是菩薩威神力感應的,不是偶然的。沒有這些人,沒有辦法顯示出菩薩確確實實有這個威力,也證明了祝居士確確實實是一心稱念,決定沒有疑慮。我們今天有許多求願,怪我們自己心不誠,心不誠就沒有感應。這個例子,我們不要把它看作這是偶然的,決定不偶然。我們自己一心稱念就有感應,跟祝居士一樣的有感應。所以,一心重要。
我再舉一個故事,這是在我們台灣,我們見到的。我在台中跟李老師求學的時候,你們曉得台中有個瑞成書局,常常印佛書的,他們全家都學佛,是台中李老師的大護法。我那時候正在台中,李老師講經的時候,我們都在聽經,瑞成的老闆也在那兒裡聽經。那個老闆,那時候他老先生還在,他的兒子許炎墩也在聽經。經聽了一半,他們家裡人有人來報告,鄰居失火,快要燒到他們家了。瑞成這兩個老闆也很難得,他們聽了好像若無其事,還在繼續聽,他一點也不慌張。他也不趕著、忙著趕快家裡去搬機器、去救火,他不,他好像沒事一樣,還在那裡聽。一直到經聽完,說火已經熄掉了,他家沒有燒到。李老師下了座,把他兩個叫來,點點頭,嗯!不錯,你們兩個人不錯。那要是別人,心裡慌亂了;他聽了若無其事,好像燒的不是他家,火到他家的時候就熄了。這樣的事情我們看起來好像是偶然,其實並不偶然,他一時清淨就一時感應,念念清淨就念念感應,所謂是一念感應一念佛,念念感應念念都是佛。如果我們存了這個心,我也試驗一下來做做看行不行?你就沒有感應,為什麼?你的心不誠,你的心不一,你存了個僥倖的心,存了個試驗的心,這就不誠。那就不是一心,一心裡面決定沒有二念。再看第二段,「免水難」。
【若為大水所漂。稱其名號。即得淺處。】
「云大水者,以小水不成難故」,這就是發大水的時候。「經云三者」,這個經云都是《楞嚴經》,「觀聽旋復,令諸眾生,大水所漂,水不能溺」。聞聽在四大裡面屬於水大,「聞聽旋,則離水塵,所以無溺害也」。觀聽旋復,這就是菩薩神力的來源,由於反觀聽聞的聞性,回旋妄聞,復歸真聞,跟前面那個意思是一樣的。前面見是屬於火,聞是屬於水。眾生聞業交感,就是內裡面的聞業與外面的境界相交感,才現水災。由此可知,天然的,就是自然的災害,也是眾生共業所造的。這是如果對於佛法沒有相當的體認,也不容易接受,這些在佛法裡頭屬於甚深的教理。一般人接受淺顯的教理他覺得滿有道理,他能接受。像這些太深的地方,他沒有辦法理解,無法理解,他不能接受,還加以批評,這是迷信。如果說話的人在這個社會上有相當的地位、有相當的學歷,他影響力就相當大;換句話,他造的業也就深了。
所以佛教給我們,佛滅度之後,我們能夠遵守「四依法」,就跟佛在世沒有兩樣。四依法裡面第一個是「依法不依人」。今日之下,無論他的聲望多麼高、名氣多麼大,他說的那個話如果在經典裡面找不到一句,我們就不聽他的。我們要以法、經典為依據,不能以他的知見來做依據,這個很重要很重要。因為世間一般人對於這些有名望的人,都有尊敬、仰慕之心,他說的我們都會遵守。佛距離我們遠了,把佛的話給忘掉了,我們聽信他的。他自己知見錯了,我們也跟他走一條錯路,這個麻煩就大了。
「旋聞復性,則無聞業,是以水不能溺。」我們凡夫俗子果能一心稱念觀音菩薩聖號,要是遇到大水的災難也能夠保全生命,免除這個災難。一心稱名遇到水難而能夠免除的事例很多很多,這個地方舉了一個例子,「道冏」。道冏這段公案在我們這個書裡面一0八九頁,就是在後頭《音義》,《音義》裡頭有,你們諸位記一記,有時間的時候你去看去。像這樣的事例是很多很多,不勝枚舉,諸位可以看看《觀世音菩薩靈感錄》。但是一個原則,就是都是一心稱名,它這個地方,你看這四個字決定不能夠漏掉的,才能得感應。第三個小段是講「免羅剎難」,請看經文。
【若有百千萬億眾生。為求金銀。琉璃。硨磲。碼瑙。珊瑚。琥珀。真珠等寶。入於大海。假使黑風吹其船舫。漂墮羅剎鬼國。其中若有乃至一人。稱觀世音菩薩名者。是諸人等。皆得解脫羅剎之難。以是因緣。名觀世音。】
世間人,只要是一個人,我們都相信,他一定希望過一個富裕幸福的生活,絕對不喜歡去過貧窮。那是少數,很例外的。能夠一生願意過貧窮的,那都是不簡單的人物,心地清淨、知足常樂者,不是普通人。在大陸上,這是很少就是了,以前我聽好像是南亭老和尚給我講一個故事,就是他們家鄉人,他是太州人,江蘇太州。說有一個人家,這個老先生是要飯的。以後這兒子發達了,在社會上很有地位、又有財富,父親在外面要飯,對這兒子的面子很不好看。所以怎麼樣去請,把老先生請回來了。老先生請回來之後,大概住了不到一個月,偷偷的又溜去又去要飯去了。人家問他為什麼?自在!要東西吃飽了之後,走到哪裡玩到哪裡,遊山玩水,多自在!他說跑到家裡去,那麼多人侍候,一身的不舒服。這種人非常人也,不簡單,清心寡欲,他得清淨自在。
所以說修道的人他願意過貧窮的生活,他不願意富庶,安貧樂道。在從前,像出家人、修道的人,還有隱士,有學問、有道德,不願意出來做官的,願意過一種清貧的生活。你看看古時候這些文學家,他不是沒有學問、不是沒有能力,還到處向朋友借錢、借貸,買酒的時候賒酒,還欠很多賬、欠很多債務,他有他的樂趣在裡頭。但是那是少數人,多數人都是要求富貴。所以古人常講「清貧濁富」,清高,清高一定是貧窮,貧窮才顯出清高。譬如說僧,高僧,清貧才高,富有那就俗了,就不高了。所以,世間人絕大多數求財富、求功名、求富貴,這是人之常情。
「入海求珍」,在今天就是講在海外做貿易。從前的船舶交通工具沒有現在的發達,都是木造的帆船,在海洋當中很容易遇難。不像現在,幾千噸、幾萬噸的輪船,不容易遭受海難,從前噸位最大的也不過是幾十噸而已,木造的大船。我們看這個註。「入海求珍,結伴無定」,總是要結伴同行,一次出去航海總是要有好幾艘船舶,「終不可獨往」,一定是有同伴,「故舉百千萬億總數,不定判多少也」,這個數字意思是在此地。「入海者,賢愚經云,田殖百倍」,這是講農夫耕種所得的利潤,「商賈千倍,仕宦萬倍,入海吉還」,真正得到寶物回來了,「得無量倍」。這是因為要想得到財寶,所以才甘冒風險,冒這麼大的危險,到海裡面去採集珍寶。
「阿含云」,《阿含經》上說,「風加以黑,怖之甚也」。這個黑風是什麼?像我們現在所知道的龍捲風、大颱風。古時候在海上,對於氣象沒有像今天預測得這麼精確,完全憑經驗,航海要靠經驗。遇到風難,如果附近沒有安全的島嶼可以避風,這時候就免不了要遇到災難。「羅剎」這是食人鬼,海島裡面常常有。我們今天說出來人家不相信,也許有人說這可能是一種野蠻人,所謂食人族,遇到這些野蠻人。你這個船漂到他那個島嶼去,遇到這些人,這個也有可能。一直到今天這個世界上還有吃人的這些種族在,不過是很少數沒有開化的。如果遇到這些事情,那危險極了,「羅剎乃食人鬼也」。「一人稱名,餘人悉解脫者,以其同患難故,雖口不同唱,心助覓福,故俱獲濟也。」這是說明他們同伴當中,有一、兩個人能夠一心稱名,求菩薩來救度這個災難,都能夠得到感應,都能夠免除。這個道理,大家同在患難之中,容易得同心同願,災難現前了,沒有別的辦法,不信的他也念了,他也跟著念。而且在這個大難臨前的時候,這個時候念佛的心特別的虔誠,為什麼?沒有妄念了,生死交關。所以是極容易得感應。
《楞嚴經》上說,「四者斷滅妄想,心無殺害,令諸眾生,入諸鬼國,鬼不能害」,這是經文。觀世音菩薩他是「滅妄斷殺」,是斷得乾乾淨淨,所以能夠「遠離鬼害」。這一段裡面他引用《楞嚴經》上,有兩句話非常重要,是我們一定要修學的,那就是「斷滅妄想,心無殺害」,這兩句非常重要。妄想是第六意識,佛在《楞嚴經》裡面一再告訴我們,這不是我們的真心。妄想能夠障礙我們的法身慧命,就好比是羅剎鬼一樣,羅剎鬼能傷害我們的身命,我們的妄想障礙我們法身慧命不能夠現前。由此可知,與魔鬼交相就是妄想,你妄想要是不生,魔鬼再多也不能害你。別說你念觀音菩薩,你不念觀音菩薩,那惡鬼也不能害你。妄與妄交感,才會有這些災難現前。要想斷妄想,就一定要學佛法,一定要修清淨心。沒有妄想,心就清淨了,沒有殺害,心就慈悲了。別人來殺害我,我們也不能夠起一念報復之心,這個災難才能夠永遠的拔除。他來害我、來殺我,我們想到前生一定有業因,他為什麼不殺別人,他為什麼不害別人,他來害我?要想到佛經裡面常講的因果循環的道理,所謂是一飲一啄,莫非前定。我過去沒有害他,他今生決定不會害我,我不欠他的命,他就不能取我的命。
六祖大師當年在世的時候遇到一個刺客,叫行昌,那是被北方人買通的,叫他去殺六祖,殺了之後給他多少錢。他們對於六祖大師嫉妒。六祖大師有神通,有他心通,曉得,到那個時候等著他來,等著他來殺他,旁邊放十兩銀子,放在那裡。結果那個人來殺了,殺了三刀,砍了三刀,刀口都砍捲了,六祖大師如如不動,那個刺客嚇死了。他就把他叫回來,他說你回來,他說我只欠你財,不欠你命,所以你不能取我的命。這裡有十兩銀子拿去,過去世我欠你十兩銀子,現在還給你。欠財的還財,欠命的還命,我不欠你的命,脖子伸長長的砍了三刀也沒有受傷。所以我們被別人害了,我們想到我前生就是這麼害他,今天他害我,好,一報還一報,這事了了。我們從今以後拉拉手好朋友,彼此互相協助,怨結才解開。一定要修大慈悲心,冤冤相報永遠沒有完了的。諸位看《安士全書.文昌帝君陰騭文》,你想想文昌帝君在過去一十七世當中結的冤家,生生世世報來報去慘不可言。到最後遇到菩薩,這才把他點醒,才覺悟,把這個怨結才解開。所以,我們對於任何再惡的人,決定不能有一念報復之心,我們的災難才能消除。一心稱名求菩薩加持,消災免難。
這些道理果然參透了,我們無始劫以來的冤家債主全都可以化解,我們為什麼不做?觀音菩薩他這個能力的來源,由於「反聞聞自性」,「返妄歸真」,「外不緣塵,內不尋根」,所謂是「根塵不偶」,妄心自然就息了,他沒有妄想。他沒有殺害,所以在他心裡面根本就沒有魔鬼,無魔亦無鬼,魔與鬼都是害人的。他以這樣的神力,加持給一切遇到這些鬼害的眾生,也能夠叫這些眾生脫離羅剎鬼國。但是這個地方要注意到,就是必須得一心稱名,鬼才不能害。平時我們要修心,要修清淨心,要修慈悲心,唯有清淨、慈悲才能夠離一切魔鬼,心地清淨慈悲。你們看《聊齋》,《聊齋誌異》有許多人說那只是寓言,靠不住的,不過這些事情我相信。《子不語》,還有紀曉蘭的《閱微草堂筆記》,你們去看看,那都是許許多多是妖魔鬼怪的一些故事。那些故事裡面,給諸位說,我相信有七成以上是真的,不是虛構的,都是真實的事情。
確實有鬼,不是沒有鬼,鬼也確實能害人。有許多人有這個經驗,大的鬼沒有遇到,遇到小的,對你害得比較輕微一點的。譬如說鬼裡頭三十六種,有魘鬼,我們這裡有許多同修遇到過。我在沒有學佛之前常常遇到,一個月總遇到好幾次。這個遇到,以後學佛了想想是應當會遇到的,為什麼?心裡頭有殺害。我從小,十六、七歲的時候,十六、十七、十八這個三年是我殺生最重的時候,天天去打獵,我的槍法練到百發百中。槍都是練出來的,我平均一天要打二十發子彈,天天去練,每天都帶著獵物回來。所以以後常常被鬼欺負。晚上睡覺的時候鬼壓在身上,心裡很清楚,動彈不得,怎麼樣叫沒有聲音,要給他折弄到好幾個鐘點,難過!以後學了佛,人家告訴我,遇到這個事情你心裡想到念阿彌陀佛、念觀音菩薩。有的時候想不起來,有的時候想起來,在夢中念幾句,果然就沒有了,就很有效。近二十年來,從來沒有遇到過了,跟這些惡鬼緣斷絕了,從來沒有遇到過這個事情。但是在過去我年輕的時候,這個經驗很豐富,常常遇到。我在台中求學跟李老師的時候,我就請教過他究竟是怎麼回事情。李老師給我說過,這種鬼叫魘鬼,他欺負人的,雖然沒什麼大的障礙,他欺負你。常常遇到的時候,人運氣不好,才會被鬼欺負。所以一般世間說,人在氣旺的時候,旺盛的時候,鬼見到你都怕你,不敢欺負你。他來欺負你,就是你運氣不好,倒霉的時候,才遇到鬼。
這是我們一定要修學的,就是必須斷妄想、修慈悲心。不與鬼神打交道,這一點很重要,千萬不要以為,我要不去拜那個神,那個神將來找我麻煩,他要叫我遭災難。這就是你的妄想,你的妄想跟鬼神就結合了,鬼神就因為你有這個妄想,他才可以欺負你。你要是根本沒有這個妄想,我根本不理會你,我自己的幸福是我自己造的,與你有什麼相干?鬼神也只好掉頭去了,沒有辦法找你麻煩。鬼神看可以欺負的他才欺負你,不可以欺負的他不敢。所以人,心正、行正,鬼神都尊敬,怎麼會欺負?
經裡面也有一段小故事,這個故事講師子國,師子國就是現在的印度南面的錫蘭島。這是有一些人,有「百餘人,從師子國泛海,忽遇惡風,飄墮鬼國,便欲盡食」。碰到這些,或是羅剎鬼,你說他是野蠻民族也好,反正這些人是要被害的。合船這些人都念觀世音菩薩名號,當中有一個小禪者,他不信,他也不念。結果那些羅剎鬼就要這個人吃,好,我都不吃你們,那個不念的你拿給我,我就吃他。這個小禪者嚇壞了,趕緊念,趕緊念一聲也免了難。遭遇到這些事情,遭遇到這些鬼難,稱名蒙菩薩救護的這種公案很多,在此地沒有辦法給諸位多舉這個例子。我們這個佛七當中講這部經,最重要的是要我們明理,建立信心,知道用一心稱名,就能夠求得決定性的感應,我們目的在此地。諸位要想多看看這些公案,看《觀世音菩薩靈感錄》,這個書在我們此地流通得很廣,到處都可以能夠看得到,你們不妨多看看。要相信裡面每一條都是真實的故事,不是虛構的,不是騙人的,千真萬確的事實。所以,稱名的時候一定要一心,絕無二念,決定沒有疑惑,才有感應。
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.220.216.164 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập