Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độ có ít nhất mười sáu tiểu vương quốc1, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
At the time of the Buddha, India had at least sixteen emirates1, each with its own language or dialect, but perhaps the people of each country were able to communicate and understand each other.
Sự kiện Đức Thế Tôn là người Kapilavastu, đi tu ở rừng Uruvilvā thuộc nước Magadha, chuyển pháp luân ở nước Vāraṇasi, sau đó vân du giáo hóa cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo khắp toàn cõi Ấn Độ, nhập Niết-bàn ở nước Kuśinagara… cho thấy giữa các vương quốc hẳn có một thứ ngôn ngữ chung mà người dân mỗi nước đều có thể nói, nghe và hiểu được. Cho đến thời điểm này chưa có một công trình nghiên cứu nào chứng minh thuyết phục, có tính khẳng định Đức Phật đã thuyết pháp bằng ngôn ngữ nào, cho dù có nhiều ý kiến đồng thuận cho rằng Đức Phật đã giảng kinh bằng tiếng Magadhi, ngôn ngữ của vương quốc Magadha.
The fact that the Blessed One was a Kapilavastu, went to the Uruvilvā forest in the kingdom of Magadha, transferred to the Dharma wheel in the country of Vāraṇasi, and then traveled with one thousand two hundred and fifty monks throughout India, entered Nirvana in Kuśinagara... showing that there must be a common language between the kingdoms that the people of each country can speak, hear and understand. Until now, there has not been a single research work that convincingly or affirmatively proves in which language the Buddha preached the Dharma, although there is a consensus that the Buddha preached in Magadhi, the language of the Magadha kingdom.
Trong 45 năm hoằng hóa độ sanh, Đức Phật đã sử dụng mười hai thể loại hay thể tài văn học, từ thi kệ, văn xuôi, đến ẩn dụ, thí dụ2… để giảng pháp, nhưng hầu như Đức Phật không đặt nặng vấn đề ngôn ngữ, và không chủ trương biên tập những lời dạy của Ngài thành kinh điển bằng một ngôn ngữ văn học nào đó. Đoạn ghi chép sau đây trong Luật tạng Nam truyền cho chúng ta thấy quan điểm của Đức Phật về ngôn ngữ kinh điển:
In the 45 years of rebirth, the Buddha used twelve genres or literary talents, from poetry, prose, to metaphors, examples2... to teach the Dharma, but the Buddha hardly put much emphasis on the issue of language, and did not advocate editing his teachings into a scripture in a literary language. The following passage in the Southern Vinaya gives us the Buddha's view of the scriptural language:
“Vào lúc bấy giờ, hai Tỳ-kheo tên Yamelu và Tekula là hai anh em xuất thân dòng dõi Bà-la-môn có lời nói nhã nhặn với âm điệu ngọt ngào. Họ đã đi đến gặp Đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các Tỳ-kheo ấy đã nói với Đức Thế Tôn điều này:
"At that time, two bhikkhus named Yamelu and Tekula were brothers of Brahmin descent who spoke graciously with a sweet tone. They went to the Blessed One, and after arriving, they bowed to the Blessed One and sat down on one side. When they had sat down to one side, the bhikkhus said to the Blessed One:
- Bạch Ngài, hiện nay các Tỳ-kheo có tên gọi khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy đang làm hỏng lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch Ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật.”3
"Sir, now the bhikkhus with different names, different lineages, different classes, and different families have been ordained. They are corrupting the Buddha's teachings in their own dialect. Venerable, let us convert the Buddha's teachings into a sealed form." 3
Đoạn ghi chép này phác họa bức tranh hoằng pháp sinh động và đa dạng của Tăng-già thời Đức Phật. Tăng-già này tập hợp mọi tầng lớp trong xã hội, với tên gọi, dòng dõi, giai cấp, gia tộc, quốc tịch… khác nhau, nhưng ai cũng nghe, hiểu, thực hành được lời Phật dạy, đặc biệt là họ đều có ước muốn và nỗ lực hoằng pháp, truyền bá lời dạy của Đức Phật theo ngôn ngữ của mình. Việc làm này, đối với hai vị Tỳ-kheo Yamelu và Tekula - vốn xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn, sử dụng ngôn từ nhã nhặn, âm điệu ngọt ngào, tức là có đủ điều kiện, tiêu chuẩn của một Bà-la-môn cao quý4 - là làm mất giá trị lời Phật dạy và đề nghị được hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật.
This record depicts a vivid and diverse picture of the Sangha's Dharma in the Buddha's time. This Sangha gathers all walks of life, with names, lineages, classes, clans, nationalities, etc. are different, but everyone hears, understands, and practices the Buddha's teachings, especially they all have the desire and effort to spread the Buddha's teachings in their own language. To do this, for the two bhikkhus Yamelu and Tekula, who come from the Brahmin lineage, to use courteous language and sweet tones, i.e., to meet the qualifications and standards of a noble Brahmin4 is to devalue the Buddha's teachings and to propose to convert the Buddha's teachings into a sealed form.
Hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật, có vần có điệu, tức là sử dụng ngôn ngữ tiếng Phạn Vệ-đà, thứ ngôn ngữ vốn dành riêng cho giai cấp Bà-la-môn mà hầu hết mọi người dân bình thường thuộc các giai cấp thấp hơn không được quyền học. Do đó, Đức Phật đã bác bỏ ngay đề nghị của hai Tỳ-kheo. Ngài khiển trách rằng:
To convert the Buddha's teachings into a well-rounded, rhyming form, that is, to use the Vedic Sanskrit language, which is reserved for the Brahmin caste that most ordinary people of the lower castes are not entitled to learn. Therefore, the Buddha immediately rejected the proposal of the two monks. He rebuked, saying, "You fools
- “Này những kẻ rồ dại kia, vì sao các ngươi lại nói như vầy: ‘Bạch Ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật?’ Này những kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, và làm thay đổi niềm tin của một số người đã có đức tin.”5
, why do you say this, 'Sir, let us convert the Buddha's teachings into a sealed form?' Fools, this thing gives no faith to the unbelieved, and changes the faith of some who have faith." 5 Why did the
Tại sao Đức Phật lại khiển trách hai vị Tỳ-kheo nặng như vậy? Bởi, Đức Phật là “Một Chúng sanh duy nhất, một Con Người phi thường, xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho phần đông, vì hạnh phúc của phần đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư thiên và nhân loại.”6 Đức Phật và những lời dạy của Ngài chắc chắn không phải phục vụ cho một nhóm đặc quyền, đặc lợi cho một giai cấp, một tầng lớp người nào. Trong khi đó, tiếng Phạn Vệ-đà lại là ngôn ngữ thuộc về số ít, của giai cấp tự cho mình cao quý, mặc nhiên được thừa hưởng những đặc quyền, đặc lợi về danh văn, lợi dưỡng, trái ngược với tinh thần vô ngã, vị tha của đạo giải thoát. Do đó, Đức Phật khuyến khích:
Buddha rebuke the two monks so severely? Because, the Buddha is "A single Being, an extraordinary human being, appearing in this world, for the benefit of the many, for the happiness of the many, for the sake of compassion, for the good, for the benefit and happiness of the gods and mankind." 6 The Buddha and his teachings certainly did not have to serve a privileged group, a special class or a class of people. Meanwhile, Vedic Sanskrit is a language belonging to a few, of a class that considers itself noble, automatically inheriting privileges and privileges in terms of fame and benefits, in contrast to the selfless and altruistic spirit of liberation. Therefore, the Buddha encouraged:
-“Này các Tỳ-kheo, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật; vị nào hoán chuyển thì phạm tội dukkata (đột-cát-la, ác tác, khinh cấu tội). Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ.”7
"Bhikkhus, do not convert the teachings of the Buddhas into a sealed form; whoever does so commits dukkata (dātātāla, evil deeds, contempt for sins). Monks, I allow the study of the Buddha's teachings in their own dialect." 7
Rõ ràng Đức Phật mong muốn tất cả mọi người đều có thể nghe, hiểu, thực hành và diễn đạt những lời dạy của Ngài bằng chính tiếng địa phương của mình. Nói một cách khác, Đức Phật mong muốn những lời dạy của Ngài được truyền bá bằng một thứ ngôn ngữ phổ thông nhất, dễ hiểu nhất, để cho mọi tầng lớp người dân đều nghe và hiểu được.
Clearly, the Buddha wanted all people to be able to hear, understand, practice, and express his teachings in their own language. In other words, the Buddha wanted his teachings to be disseminated in the most universal, understandable language, so that all walks of life could hear and understand.
Đức Phật từ chối hoán chuyển những lời dạy của Ngài sang thứ ngôn ngữ hàn lâm, kinh viện, với những kỹ thuật niêm luật, văn phạm quá khó đối với nhiều người. Và nếu ai làm điều này sẽ phạm tội đột-cát-la, bởi có thể khiến cho số đông dân chúng đánh mất niềm tin nơi Tam bảo khi họ nghĩ rằng đạo Phật cũng không khác đạo Bà-la-môn chỉ dành riêng cho giới thượng lưu, quý tộc nếu sử dụng tiếng Phạn Vệ-đà.
The Buddha refused to convert his teachings into an academic and scholarly language, with techniques that were too difficult for many people. And if anyone does this, they will commit the crime of sedition, because it may cause the majority of people to lose faith in the Three Jewels when they think that Buddhism is no different from Brahminism, which is only reserved for the upper class and aristocracy if they use Vedic Sanskrit.
Dĩ nhiên, “đa văn, nghề nghiệp giỏi” là điều Đức Phật khuyến khích. “Quảng học đa văn” để có được “biện tài vô ngại” luôn là mục đích lý tưởng của nhà hoằng pháp. Nhưng hơn hết, không phải là kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ và văn phạm, mà là khéo léo thủ hộ trước năm con đường của ngôn ngữ: nói đúng thời hay không đúng thời, nói chân thật hay không chân thật, nói dịu dàng hay cứng ngắt, nói từ hòa hay sân nhuế, nói có nghĩa hay không có nghĩa.8 Đối với năm con đường của ngôn ngữ này, các Tỳ-kheo phải tu tập Tứ vô lượng tâm, học hạnh như đất, học hạnh như nước, học hạnh như hư không… để tâm không biến đổi, tâm từ mẫn, tâm như đất, như nước, như hư không, không kết, không oán, không nhuế, không tranh…
Of course, "polyliterature, good career" is what the Buddha encouraged. "Multi-literary education" to obtain "unhindered eloquence" has always been the ideal goal of the Dharma. But most of all, it is not the technique of using language and grammar, but the skillful guardianship of the five paths of language: to speak at the right time or at the right time, to speak truthfully or to be insincere, to speak softly or to speak softly, to speak with or without meaning.8 For these five paths of language, the monks must practice the Four Immeasurable Minds, learn the virtues like the earth, learn the virtues like water, and learn the virtues like nothingness... so that the mind does not change, the mind is compassionate, the mind is like earth, like water, like nothingness, there is no attachment, there is no resentment, it is not dirty, it is not fighting...
(1) Tì-xá-li (Vaśiali), Kiều-tát-la (Kosala), Thất-la-phiệt (Śrāvasti), Ma-kiệt-đà (Magadha), Ba-la-lại (Bārāṇasi), Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu), Câu-thi-na (Kuśinagara), Kiều-thiểm-di (Kauśāmbi), Bát-trá-la (Pañcāla), Ba-trất-la (Pāṭaliputra), Mạt-thổ-la (Mathurā), Ô-thi (Uṣa), Bôn-trá-bạt-đa (Puṇgavardhana), Đề-bà-bạt-đa (Devātāra), Ca-thi (Kāśi), Chiêm-ba (Campā).
(1) Vaśiali, Kosala, Śrāvasti, Magadha, Bārāṇasi, Kapilavastu, Kuśinagara, Kauśāmbi, Pañcāla, Pāṭaliputra, Mathurā, Uṣa, Puṇgavardhana, Devātāra, Kāśi, Campā.
(2) Mười hai thể tài kinh điển : 1. Kinh (sūtra) 2. Trùng tụng (geya) 3. Ký thuyết (vyākaraṇa) 4. Kệ tụng (gāthā) 5. Cảm hứng ngữ (udāna) 6. Như thị ngữ (Bổn sự), (iti-vṛttaka hoặc ity-uktaka) 7. Bổn sanh (jātaka) 8. Phương quảng (vaipulya) 9. Vị tằng hữu (adbhuta-dharma) 10. Nhân duyên (nidāna) 12. Luận nghị (upadeśa).
(2) Twelve sutras: 1. Sutras (sūtras) 2. Duplication (geya) 3. Commentary (vyākaraṇa) 4. Gāthā 5. Inspiration (udāna) 6. As a visionary (Buddha), (iti-vṛttaka or ity-uktaka) 7. Birth (jātaka) 8. Phuong Quang (vaipulya) 9. Adbhuta-dharma 10. Causes and conditions (nidāna) 12. Argument (upadeśa).
(3) Vinayapitaka Cullavagga, Tạng luật, Tiểu phẩm, V, 33, Tỳ-kheo Indacanda dịch Việt.
(3) Vinayapitaka Cullavagga, Tibetan Law, Skits, V, 33, Bhikkhu Indacanda translated into Vietnamese.
(4) Xem Trường A-hàm, kinh Chủng đức.
(4) See the School of Aham, Sutra of Virtue.
(5) Luật tạng Nam truyền đã dẫn trước.
(5) The Southern Organ Tradition has taken the lead.
(6) Kinh Tăng nhất A-hàm.
(6) The Most Beautiful Sangha Sutra.
(7) Vinayapitaka Cullavagga, Tạng luật, Tiểu phẩm, V, 33, Tỳ-khưu Indacanda dịch Việt.
(7) Vinayapitaka Cullavagga, Tibetan Law, Skit, V, 33, Indacanda Bhikkhu translated Vietnamese.
(8) Trung A-hàm, kinh Mâu-lê-phá-quần-na. Pali: M. 21. Kakacūpama sutta.
(8) The Middle Aham, the Mullephakana Sutra. Pali: M. 21. Kakacūpama sutta.