Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV

Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Chỉ có hai thời điểm mà ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Đó là lúc ta sinh ra đời và lúc ta nhắm mắt xuôi tay.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tiểu luận Phật giáo »» Xem đối chiếu Anh Việt: Thầy Trí Quang - Một trang lịch sử »»

Tiểu luận Phật giáo
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Thầy Trí Quang - Một trang lịch sử

(Lượt xem: 7.737)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Thầy Trí Quang - Một trang lịch sử

Master Tri Quang - A page of history

(Thầy tôi, Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, vừa thị tịch hôm qua, 8-11-2019. Di huấn để lại: không bàn thờ, không bát nhang, không báo tang, không phúng điếu, không vòng hoa, không đưa đám. Tôi chỉ xin phép Thầy thắp một nén nhang tưởng niệm)
(My teacher, Venerable Elder Thich Tri Quang, passed away yesterday, November 8, 2019. His last will and testament: no altar, no incense bowl, no funeral notice, no condolence, no wreath, no funeral procession. I only ask for his permission to light a stick of incense in memory.)
Tôi có hai lần khai sinh. Lần thứ nhất khi tôi sinh ra. Cha mẹ tôi cho tôi hình hài, máu huyết. Nhưng tôi chưa biết tôi là ai, sống như thế nào, trên đường nào tôi sẽ đi. Sinh ra, tôi có hai mắt. Nhưng chưa thấy đường đời. Phải đợi đến khi lên chùa Từ Đàm, sau ngày ông Diệm bị lật đổ, tôi mới thấy con đường sẽ đi. Thảo nào chữ nghĩa bác học gọi con đường là đạo. Thấy đạo, tôi khai sinh cho tôi.
I had two birth certificates. The first time when I was born. My parents gave me a body and blood. But I did not know who I was, how I would live, or what path I would take. When I was born, I had two eyes. But I had not seen the path of life. It was not until I went to Tu Dam Pagoda, after the day Mr. Diem was overthrown, that I saw the path I would take. No wonder learned words call the path the religion. Seeing the path, I gave birth to myself.
Đầu năm 1964, một nhóm giáo chức đại học Huế họp nhau tại trường Đại học sư phạm để quyết định về việc ra một tờ báo tranh đấu tiếp nối khí thế của "cách mạng" 1963, chống lại khuynh hướng lập một "chế độ Diệm không có Diệm" được người Mỹ ủng hộ. Trong dự định ban đầu, tờ báo là tiếng nói của lực lượng giáo chức và sinh viên Huế đã tham gia vào việc lật đổ Diệm. Chuếnh choáng hơi men chiến thắng của một cuộc nổi dậy thành công, tham vọng của chúng tôi là biến đại học thành một thành trì chống độc tài. Tuổi trẻ thường có những giấc mơ phạm thượng. Buổi họp giao cho ba chúng tôi, anh Tôn Thất Hanh, anh Lê Tuyên và tôi, trách nhiệm suy nghĩ và điều khiển tờ báo. Tên của tờ báo, Lập Trường, là do chúng tôi đặt ra.
In early 1964, a group of Hue university teachers met at the Pedagogical University to decide on publishing a newspaper to fight for the continuation of the spirit of the 1963 "revolution", against the tendency to establish a "Diem regime without Diem" supported by the Americans. In the original plan, the newspaper was to be the voice of the Hue teachers and students who participated in overthrowing Diem. Dizzy with the victory of a successful uprising, our ambition was to turn the university into a stronghold against dictatorship. Young people often have blasphemous dreams. The meeting assigned the responsibility of thinking about and directing the newspaper to the three of us, Ton That Hanh, Le Tuyen and me. The name of the newspaper, Lap Truong, was given by us.
Lúc đó tôi 27 tuổi. Ít lâu sau buổi họp, tôi được mời ăn cơm với ông tướng chỉ huy Vùng I chiến thuật. Khi đó tôi mới thấy mình đang chơi một trò chơi quá so le trước gươm giáo, với một tuổi đời còn quá non và một tầm nhìn không xa hơn quyển sách. Quần chúng, tờ báo có. Nhưng dăm ba anh nhà giáo thì an ninh quân đội muốn tóm lúc nào chẳng được? Nương thế "cách mạng", chúng tôi ra báo không cần xin phép, nhưng anh sĩ quan tâm lý chiến đang ngồi ăn cơm chình ình trước mắt tôi, tôi qua mặt anh ta được chăng? Viết bài thì phải có lập trường chống Cộng hẳn hoi, anh ta khuyên nhủ thế, không chống Cộng tức là thân Cộng. Tôi viết thế nào đây? Viết thế nào khi có một bức màn sắt chia hai giữa quân đội và quần chúng, một bên biện minh rằng đảo chánh Diệm là để chống Cộng tốt hơn, một bên đòi thanh trừng vây cánh của chế độ cũ để khỏi bị độc tài đàn áp nữa? Trong tình thế đó, Lập Trường là con chuột nhắt khốn đốn dưới nanh vuốt của ba con mèo: tướng tá, người Mỹ, và dư đảng Cần Lao của ông Diệm.
At that time, I was 27 years old. Shortly after the meeting, I was invited to have dinner with the general commanding the I Tactical Zone. Only then did I realize that I was playing a game that was too unfair in front of swords and spears, with a very young age and a vision that was no further than a book. The masses, the newspaper had. But the military security could arrest a few teachers at any time? Taking advantage of the "revolution", we published the newspaper without asking for permission, but the psychological warfare officer was sitting right in front of me eating, could I fool him? Writing articles, one must have a clear anti-communist stance, he advised, not being anti-communist means being pro-communist. How could I write? How could I write when there was an iron curtain dividing the army and the masses, one side justifying that the coup against Diem was to better fight the communists, the other side demanding to purge the old regime's cronies to avoid being oppressed by dictatorship? In that situation, Lap Truong was a miserable mouse under the claws of three cats: the generals, the Americans, and the remnants of Diem's Can Lao party.
Về chiến thuật, chúng tôi có thể tạm thời tìm đường sống bằng cách khai thác mâu thuẫn quyền lực giữa các tướng tá cát cứ mỗi vùng để giữ một thế đứng độc lập ở miền Trung, làm đối trọng với thủ đô Sài Gòn. Nhưng đó không phải là một cái thế trường kỳ. Cũng về chiến thuật, chúng tôi có thể nói với người Mỹ: ông chống Cộng mà không có dân thì ông chống với ai? Ông hô hào tự do mà ông không để cho dân tự định đoạt vận mệnh của mình bằng lá phiếu thì ông tự do chỗ nào? Nhưng đó là lấy lý nói với lý; trên thực tế người Mỹ đâu có làm chiến tranh vì lợi ích của dân Việt Nam? Chỉ với hai con mèo ấy thôi, chuột nhắt chúng tôi đã chưa biết tờ báo sẽ sống chết lúc nào. Nói gì con mèo thứ ba, các lực lượng tôn giáo quá khích, sinh ra và lớn lên nhờ chiến tranh. Chỉ với một lý luận này thôi, họ đã dồn chúng tôi vào chỗ bí: quốc sách đã là chống Cộng, vậy thì chỉ có chống Cộng với những lực lượng chống Cộng, không thể chống Cộng với những kẻ lừng khừng.
In terms of tactics, we could temporarily find a way to survive by exploiting the power conflicts between the generals and colonels in each region to maintain an independent position in the Central region, to counterbalance the capital Saigon. But that was not a long-term position. Also in terms of tactics, we could say to the Americans: If you fight against the Communists without the people, who are you fighting against? If you call for freedom but do not let the people decide their own destiny by voting, where is your freedom? But that is arguing with reason; in reality, the Americans did not wage war for the benefit of the Vietnamese people. With just those two cats, we mice did not know when the newspaper would live or die. What to say of the third cat, the extremist religious forces, born and raised by war. With just this one argument, they forced us into a difficult situation: the national policy was to fight against Communism, so we could only fight against Communism with anti-Communist forces, we could not fight against Communism with those who were hesitant.
Chỗ dựa duy nhất của chúng tôi là quần chúng đang căm giận dư đảng của chế độ cũ. Nhưng quần chúng mà không có tổ chức thì khác nào gạch đá không có xi măng? Sự thế hiển nhiên thúc đẩy chúng tôi đi tìm xi măng. Nghĩa là lên chùa Từ Đàm! Chứ đâu nữa? Từ Đàm chẳng phải là nơi đã khởi đầu và tạo nội dung, hình hài, ngọn lửa cho cuộc tranh đấu hay sao? Tôi phải kể rõ ngọn ngành như vậy để giải thích tại sao một tờ báo bắt nguồn từ đại học lại trở thành một tờ báo được xem như tiếng nói bán chính thức của Từ Đàm, nghĩa là của Phật giáo.
Our only support was the masses who were angry with the remnants of the old regime. But the masses without organization were like bricks and stones without cement? The obvious situation pushed us to find cement. That is, to go to Tu Dam Pagoda! Where else? Wasn't Tu Dam the place that started and created the content, shape, and fire for the struggle? I had to explain clearly like this to explain why a newspaper originating from a university became a newspaper considered the semi-official voice of Tu Dam, that is, of Buddhism.
Chùa không làm chính trị: thái độ đó của Phật giáo chắc như đinh đóng cột. Lý tưởng của bọn trẻ chúng tôi cũng vậy, trùng hợp với chùa như bản chính với bản sao, có ông trời đóng dấu. Hồi đó, Sartre là ông thần triết lý của thời đại chúng tôi, và vở kịch "Les mains sales" của ông làm chúng tôi mê tít: chính trị là lĩnh vực của "những bàn tay bẩn" mà chúng tôi ghê tởm. Chúng tôi đang say men tranh đấu, chưa thừa hưởng được bả rượu chính trị của các bậc trưởng thượng. Lên chùa Từ Đàm với tâm hồn phơi phới giống như đi tìm lại thời gian chưa mất, nói phỏng theo văn chương của Proust. Một lần nữa, tôi kể rõ ngọn ngành như vậy để trả lại cho César cái gì của César: tờ Lập Trường không phải là do chùa Từ Đàm lập ra, không phải là công cụ chính trị của Thầy tôi.
The pagoda does not engage in politics: that attitude of Buddhism is as firm as a nail driven into a pillar. The ideals of us young people were the same, coinciding with the pagoda like the original with the copy, with God's seal. At that time, Sartre was the philosophical god of our time, and his play "Les mains sales" fascinated us: politics was the domain of "dirty hands" that we loathed. We were drunk on fighting, not yet enjoying the political wine of our elders. Going to Tu Dam pagoda with a cheerful soul was like finding a time that had not been lost, to paraphrase Proust's literature. Once again, I will tell you the whole story to give back to Caesar what was Caesar's: Lap Truong newspaper was not founded by Tu Dam pagoda, it was not a political tool of my teacher.
Thầy tôi, Trí Quang, ngồi trong phòng khách, nhìn ra sân khi chúng tôi đến. Thầy chào bằng một nụ cười, trên miệng và trên mắt. Hai mắt là cái hồn trên mặt Thầy. Mắt Thầy sáng quắc, dữ. Sau 1963, quần chúng thần tượng hóa lãnh tụ, kháo nhau "mắt Thầy có điện". Cặp mắt ấy quyến rũ tôi ngay từ phút đầu, không phải vì "có điện" mà vì nó trở nên hiền hòa ngay khi Thầy cười. Hai con mắt Thầy cùng cười với miệng, cái dữ biến đi đâu mất. Với cái hồn hiền hòa ấy trên mắt Thầy, tôi quên tuốt đã nói chuyện gì buổi chiều hôm đó, hình như chẳng có chuyện gì quan trọng, hình như cũng chẳng đề cập đến cả tờ báo, hình như giữa bản sao với bản chính có chuyện gì nữa đâu mà nói với ông trời. Thế mà, khi từ giã Thầy, chúng tôi có cảm tưởng như mình đã là chiếc đũa trong một bó, muốn bẻ gãy cũng không dễ. Tờ báo ra đời sau đó. In ở nhà in đại học và trong sự chờ đợi nóng hổi của quần chúng, in bao nhiêu cũng không đủ bán, bán cũng không nghĩ đến chuyện thu tiền. Đó là giấy khai sinh thứ hai của tôi.
My teacher, Tri Quang, sat in the living room, looking out into the yard when we arrived. He greeted us with a smile, on his mouth and in his eyes. The two eyes were the soul of his face. His eyes were bright and fierce. After 1963, the masses idolized the leader, saying to each other "his eyes were electric". Those eyes captivated me from the very first moment, not because they were "electric" but because they became gentle as soon as the Teacher smiled. His two eyes smiled along with his mouth, the evil disappeared somewhere. With that gentle soul in his eyes, I forgot everything we talked about that afternoon, it seemed like there was nothing important, it seemed like we didn't even mention the newspaper, it seemed like there was nothing between the copy and the original to tell God. However, when we said goodbye to the Teacher, we felt like we were chopsticks in a bundle, not easy to break. The newspaper was born later. Printed at the university printing house and in the eager anticipation of the masses, no matter how much was printed, it was not enough to sell, and selling it didn't even think about collecting money. That was my second birth certificate.
Tờ báo ra đời trong bối cảnh "cách mạng" 1963 bị phản bội. Lý lẽ của chiến tranh buộc người Mỹ ủng hộ tích cực những lực lượng chủ trương chiến tranh; những lực lượng này, được thể, quay lại trả thù những người đã tham gia lật đổ chế độ cũ. Diệm đổ, nhưng chính quyền Diệm vẫn còn y nguyên từ trung ương đến xã thôn, với bộ máy đàn áp không suy suyển. Chiến tranh cho phép họ trả thù với một lý lẽ sơ đẳng và đui mù như bom đạn: chúng nó là cộng sản, chúng nó tiếp tay cho cộng sản, cộng sản mạnh lên là vì chúng nó. Chiến tranh còn cho phép họ trả thù những người cầm đầu phong trào một cách "hợp pháp" trâng tráo: tóm chúng nó đi lính là xong! Ai muốn hiểu những diễn biến chính trị trong những năm 1964-66 chỉ cần suy nghĩ trên sự đối đầu giữa hai tranh chấp về thừa kế: thừa kế Diệm hay thừa kế phong trào lật đổ Diệm. Thừa kế Diệm tức là tiếp tục chiến tranh và dựa trên chiến tranh để nắm quyền. Thừa kế 1963 là đòi tuyển cử để lập một chế độ mới. Khí giới của phe kia là bom đạn. Khí giới của phe này là lá phiếu. Có một lúc, người Mỹ cũng bị phanh thây: họ thừa biết bom đạn không giải quyết được tất cả, làm chiến tranh mà không có dân thì khác nào lùa dân qua phía cộng sản. Nhưng, như một ngạn ngữ của họ đã nói, rốt cuộc "chim cùng lông thì cùng bay với nhau".
The newspaper was born in the context of the 1963 "revolution" being betrayed. The argument of war forced the Americans to actively support the forces advocating war; These forces, taking advantage of the situation, turned around to take revenge on those who had participated in overthrowing the old regime. Diem fell, but the Diem regime remained intact from the central government to the communes and villages, with an unshaken repressive apparatus. The war allowed them to take revenge with a logic as elementary and blind as bombs and bullets: they are communists, they helped the communists, the communists became stronger because of them. The war also allowed them to take revenge on the movement leaders in a brazenly "legal" way: just capture them and send them to the army and that's it! Anyone who wants to understand the political developments in the years 1964-66 only needs to think about the confrontation between the two disputes over succession: inheriting Diem or inheriting the movement to overthrow Diem. Inheriting Diem means continuing the war and relying on war to seize power. Inheriting in 1963 means demanding elections to establish a new regime. The other side's weapon is bombs and bullets. This side's weapon is the ballot. At one point, the Americans were also torn apart: they knew very well that bombs and bullets could not solve everything, that waging war without the people was like herding the people to the communist side. But, as one of their proverbs said, in the end, "birds of the same feather fly together."
Thế nhưng, oái oăm của thời cuộc, dân chúng cũng không phải là con số không, dù là trước mắt tướng tá. Lồng trong chiến tranh còn có một bối cảnh khác cũng lao xao binh khí: tranh giành quyền lực giữa các ông tướng chỉ huy các vùng chiến thuật. Giữa họ với nhau, đảo chánh lật nhau không khó; giữ thế đứng của mình trong vùng cát cứ khó hơn, mà muốn thế phải dựa vào dân, trước hết là mấy ông "nhân sĩ" được dân nghe. Chúng tôi, ở miền Trung, có cái thế đó để đối đầu với các ông tướng ở Sài Gòn và đòi họ "cách mạng". Trong bối cảnh ấy, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc ra đời tại Huế năm 1964. Do tờ Lập Trường chủ xướng, hành động này là để bảo vệ thành quả của 1963, chống lại một cuộc đảo chánh ở trung ương của phe tướng tá thân chế độ cũ. Tổ chức này cũng vậy, không do Thầy tôi đẻ ra; lúc ấy Thầy đang ở Sài Gòn. Ai học lịch sử cách mạng Pháp đều biết Comité de Salut public. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là dịch nguyên văn tổ chức của Robespierre. Trong đầu bọn trẻ trí thức nửa mùa chúng tôi hồi đó, 1963 như được ủ hơi men của cách mạng 1789 thần thoại.
However, the irony of the times was that the people were not nothing, even in the eyes of the generals. Caged in the war, there was another context that was also bustling with weapons: the struggle for power between the generals commanding the tactical zones. Between them, it was not difficult to overthrow each other; maintaining one's position in the occupied zone was more difficult, and to do so, one had to rely on the people, first of all, the "scholars" who were listened to by the people. We, in the Central region, had that position to confront the generals in Saigon and demand "revolution" from them. In that context, the National Salvation Council was born in Hue in 1964. Initiated by Lap Truong newspaper, this action was to protect the achievements of 1963, against a central coup by the generals close to the old regime. This organization was also not born by my teacher; at that time he was in Saigon. Anyone who studied the history of the French revolution knows Comité de Salut public. The National Salvation Council was a literal translation of Robespierre's organization. In the minds of us half-educated young intellectuals at that time, 1963 was like being incubated with the yeast of the mythical 1789 revolution.
Ra đời chưa kịp khóc ba tiếng, các tỉnh ở miền Trung đã tức tốc đẻ theo, cùng một khuôn, một mặt, các HĐNDCQ địa phương. Tự động đẻ. Chẳng do chỉ thị một ai. Rồi cũng tự động, các HĐNDCQ khắp miền Trung kéo nhau về Huế để thống nhất đường lối. Tranh đấu trở thành chính trị. Mà toàn là tự động! Ký giả ngoại quốc bắt đầu kéo nhau đến Huế, tưởng như sắp chứng kiến một màn thay bậc đổi ngôi. Người Mỹ lân la dọ ý chúng tôi về tướng Thi, tư lệnh Vùng I, tưởng như HĐNDCQ sắp sửa làm bàn đạp cho một người hùng mới. Miền Trung bỗng nhiên trở thành trung tâm chính trị mà Huế là đầu não một cách tự phát, tự phất. Quần chúng hưởng ứng nhiệt liệt, chẳng cần biết lãnh tụ của HĐNDCM là Bác sĩ Quyến hay là ai. Mơ hồ, họ chỉ thấy ai đó "đằng sau" tờ Lập Trường, nghĩa là Thầy tôi.
Before it could cry three times, the provinces in the Central region immediately gave birth, in the same mold, on the same side, to local People's Councils of the Central Region. Born spontaneously. Without anyone's instructions. Then, spontaneously, People's Councils of the Central Region gathered in Hue to unify the policy. Struggle became politics. And it was all spontaneous! Foreign journalists began to flock to Hue, thinking they were about to witness a change of position. The Americans began to ask us about General Thi, the commander of the I Corps, thinking that the National Council of Vietnam was about to become a springboard for a new hero. The Central region suddenly became a political center, with Hue as its brain, spontaneously and spontaneously. The masses responded enthusiastically, not caring whether the leader of the National Council of Vietnam was Doctor Quyen or anyone else. Vaguely, they only saw someone "behind" Lap Truong, meaning my Teacher.
Họ thấy như vậy cũng không phải là vô căn cứ. Không có Thầy, sao lại có một "Thư về Huế" của Thầy đăng trong Lập Trường, ngày 23-5-1964? Thầy viết: "Tiếng "thầy" được kêu lên trong khi chết chóc, trong cơn điên loạn, trong những ngày Từ Đàm bị bao vây và tấn công như một chiến khu, tiếng "thầy" được gọi lên trong nước mắt và máu, tiếng "thầy" đó, tôi biết Phật tử Huế đã dành cho tôi". Giữa lãnh tụ và quần chúng, mấy ai có được sự gắn bó thiết tha như vậy. Chừng đó thôi, mấy lời tình cảm huyết lệ ấy đủ để quần chúng biết Thầy ở đâu mà đứng theo Thầy. Từ tờ Lập Trường cho đến HĐNDCQ, tôi lặp lại, trí thức ở Huế không phải là công cụ của Thầy, Thầy không nhúng tay vào bất cứ hành động nào của họ, nhưng không có Thầy thì họ không phải là họ, được dân thương đến thế. Ai muốn hiểu Thầy tôi thì hãy hiểu Thầy qua ngọn lửa Quảng Đức, đừng lầm Thầy như một chính trị gia, vị thế đó thấp kém lắm, không xứng đáng với Thầy. Tự gánh trên vai trách nhiệm về ngọn lửa Quảng Đức, Thầy không thể cho phép thời cuộc phản bội lại ngọn lửa đó, chỉ thế thôi.
They saw that as not without basis. Without the Teacher, how could there have been a "Letter to Hue" by the Teacher published in Lap Truong on May 23, 1964? The Teacher wrote: "The word "teacher" was called out in the midst of death, in the midst of madness, in the days when Tu Dam was surrounded and attacked like a war zone, the word "teacher" was called out in tears and blood, that word "teacher", I know Hue Buddhists reserved for me". Between the leader and the masses, how many people have such a close bond? Just that, those few words of love and tears are enough for the masses to know where the Master is and to stand with him. From the Lap Truong newspaper to the HDQC, I repeat, the intellectuals in Hue are not the Master's tools, the Master does not interfere in any of their actions, but without the Master, they would not be who they are, loved by the people so much. Whoever wants to understand my Master, please understand him through the fire of Quang Duc, do not mistake him for a politician, that position is very low, not worthy of him. Taking on the responsibility for the fire of Quang Duc, the Master cannot allow the times to betray that fire, that's all.
*
*
Nhưng thời cuộc không phải lúc nào cũng chiều Thầy. Miền Trung, trở thành một trung tâm chính trị, sẽ đưa Thầy vào một thế khó xử, khi tranh chấp giữa địa phương với trung ương leo thang đến mức ly khai. Ly khai? Sao nghe được! Nhưng bỏ quần chúng nửa đường, sao đành! Thầy như một sĩ quan chỉ huy một chiến hạm bị địch bắn đắm, danh dự phải giữ là chịu đắm theo tàu. Đây là nguồn cơn của biến động miền Trung năm 1966. Một biến động đè nặng trong lòng Thầy, khó nguôi.
But the times do not always favor the Master. The Central region, becoming a political center, will put the Master in a difficult position, when the dispute between the locality and the central government escalates to the point of secession. Secession? How can you hear it! But abandoning the masses halfway, how can you do it! The Master was like an officer commanding a warship that was sunk by the enemy, the honor he had to maintain was to sink with the ship. This was the source of the turmoil in the Central region in 1966. A turmoil that weighed heavily on the Master's heart, difficult to calm.
Bối cảnh của 1966 là chiến tranh lan rộng, tiến gần thành phố, ban đêm đại bác đã dội về tận Sài Gòn, làm rung cửa sổ. Từ chống chiến tranh, Phật giáo đứng lên đòi hòa bình, theo đề nghị của Thầy. Tiếng nói đó làm phiền cả hai bên, nhưng trực tiếp và sát cạnh là người Mỹ. Đòi cách mạng, họ còn nhịn. Đòi hòa bình, họ nổi khùng. Làm sao vượt qua chống đối của họ bằng chính triết lý căn bản của họ? Thầy đòi bầu cử Quốc hội lập hiến. Trong khí thế sôi động ở miền Trung, Thầy nghĩ ảnh hưởng sẽ lan vào Sài Gòn và bầu cử sẽ bất lợi cho những ai chủ trương chiến tranh. Mà thật vậy! Không riêng gì miền Trung, toàn thể các tỉnh đến tận Sài Gòn, mọi tầng lớp dân chúng, chỉ trừ những lực lượng tôn giáo sống chết với chiến tranh, nhiệt liệt ủng hộ chủ trương bầu cử để thay thế chế độ tướng tá bằng một chính phủ dân sự. Dân chúng biểu tình ở Sài Gòn, chiếm cả sân bay Tân Sơn Nhất, kêu gọi đình công, trương cả biểu ngữ "Yankee Go Home". Miền Trung thì khỏi nói: ngay cả quân nhân, ngay cả tướng tư lệnh, cũng sát cánh với dân thường, cảnh sát, công an sát cánh với công chức, trí thức, sinh viên, thương gia, tạo nên một phong trào đòi hỏi bầu cử. Đố một ông tướng nào tại vị ở miền Trung mà dám đi ngược lại phong trào. Đố Thiệu-Kỳ đưa được một tướng khác thay thế. Đố ông Kỳ lột chức được thị trưởng Đà Nẵng bằng cách nào khác hơn là dọa bắn vào đầu ông Mẫn. Phe quân đội chia hai: một bên là đồng minh của Thiệu-Kỳ, dựa trên những đảng phái và tôn giáo thánh chiến, sợ bầu cử sẽ có lợi cho Phật giáo; một bên là đồng minh của miền Trung, quân và dân hiếm khi một dạ một lòng như vậy. Một lòng đến nỗi tư lệnh sư đoàn I huấn luyện quân sự cho sinh viên, thanh niên, phát vũ khí cho họ để bảo vệ Huế, tiếp ứng Đà Nẵng, dọa sẽ chống lại Kỳ nếu Kỳ dùng bạo lực.
The context of 1966 was that the war was spreading, approaching the city, at night cannons were firing all the way to Saigon, shaking the windows. From opposing the war, Buddhism stood up to demand peace, at the Master's request. That voice bothered both sides, but directly and closely by the Americans. Demanding revolution, they were still patient. Demanding peace, they were furious. How could he overcome their opposition with their own fundamental philosophy? The Master demanded elections for a Constituent Assembly. In the tumultuous atmosphere in the Central region, the Master thought the influence would spread to Saigon and the election would be disadvantageous for those who advocated war. And it was true! Not only in the Central region, but also in all the provinces up to Saigon, all classes of people, except for religious forces who lived and died for the war, enthusiastically supported the election policy to replace the generals' regime with a civilian government. People demonstrated in Saigon, occupied Tan Son Nhat airport, called for strikes, and even displayed banners reading "Yankee Go Home". In the Central region, needless to say: even soldiers, even commanding generals, stood side by side with civilians, police, public security stood side by side with civil servants, intellectuals, students, businessmen, creating a movement demanding elections. I dare any general in power in the Central region to dare to go against the movement. I dare Thieu-Ky to replace him with another general. I dare Mr. Ky to remove the mayor of Da Nang by any other means than threatening to shoot Mr. Man in the head. The military faction was divided into two: one side was Thieu-Ky's ally, based on jihadist parties and religions, afraid that elections would benefit Buddhism; On one side, the army and people were allies of the Central region. The army and people were rarely of one mind like that. So much so that the commander of the 1st Division trained the students and youth in military affairs, gave them weapons to defend Hue, and supported Da Nang, threatening to oppose Ky if Ky used violence.
Quân và dân sát cánh tại miền Trung thì người Mỹ sát cánh với Thiệu-Kỳ trong chiến dịch đàn áp và phân hóa Phật giáo. Họ sẽ phân hóa được bằng cách lập một cánh Phật giáo đối nghịch với Thầy tôi. Nhưng trước khi đó, họ thẳng tay đàn áp phong trào cái đã, tại Sài Gòn trước, tại miền Trung sau. Phân hóa hay đàn áp, mục tiêu họ nhắm là Thầy tôi. Triệt hạ Thầy thì triệt hạ được phong trào hòa bình, đập nát được thanh thế miền Trung mà Westmoreland, mà Taylor, mà Lodge, mà Rostow xem như thành trì Phật giáo. Hơn thế nữa, triệt hạ Thầy tôi thì họ sẽ tương kế tựu kế tổ chức được một Quốc hội theo ý họ, gạt Phật giáo vĩnh viễn ra khỏi các cơ quan dân cử, leo thang chiến tranh. Súng đạn đi đầu lá phiếu.
While the army and people stood side by side in the Central region, the Americans stood side by side with Thieu-Ky in the campaign to suppress and divide Buddhism. They would divide by establishing a Buddhist wing opposing my Master. But before that, they would brutally suppress the movement, first in Saigon, then in the Central region. Divide or suppress, their target was my Master. Destroying my Master would destroy the peace movement, destroy the prestige of the Central region that Westmoreland, Taylor, Lodge, and Rostow considered a Buddhist stronghold. Moreover, destroying my Master would enable them to organize a National Assembly according to their wishes, permanently remove Buddhism from elected bodies, and escalate the war. Guns and bullets were at the forefront of the ballot.
Lấy cớ trừng phạt ly khai, ông Kỳ dồn đại quân ra Đà Nẵng, nhắm Huế. Dân chúng tự động đem bàn thờ ra ngoài đường để cản chiến xa từ Quảng Trị vào An Hòa. Trong vòng nửa giờ, các đường chính của thành phố Huế đã đầy bàn thờ Phật. Thầy nói: Thầy bị động. Trước sự đã rồi, Thầy ra lệnh chính thức. Quần chúng thỉnh Phật ra đường, hương án trang nghiêm, tụng niệm như ở trong nhà, như ở trong chùa. Kỳ điều đình với Thầy. Thầy không trả lời. Kỳ giới nghiêm, tung tiểu đoàn "Trâu Điên" xung kích, bắn, bắt, đánh, đập, uống bia cho say rồi vung chai đập đánh, đánh cả sinh viên, học sinh.
Using the excuse of punishing the separatists, Mr. Ky sent a large army to Da Nang, aiming at Hue. The people spontaneously brought altars out onto the streets to block tanks from Quang Tri to An Hoa. Within half an hour, the main streets of Hue city were full of Buddhist altars. The Master said: I am passive. In the face of a fait accompli, I give the official order. The masses invited Buddha out into the street, the altar was solemn, and they chanted as if they were at home, as if they were in a temple. Ky negotiated with the Master. The Master did not respond. Ky imposed curfew, launched the "Mad Buffalo" battalion to attack, shot, captured, beat, beat, drank beer until drunk, then swung bottles to beat, beat even the students.
Trước đó, binh sĩ Vùng I và sinh viên "quyết tử" đã quyết ăn thua đủ với Kỳ, dàn trận bên này đèo Hải Vân, chực nổ súng. Công binh đã đặt mìn, sẵn sàng phá hủy các cầu từ Đà Nẵng ra, từ Quảng Trị vào, cắt đứt tiếp vận từ Quảng Trị. Tại Huế, đại pháo và đại liên đã được bố trí dọc theo kỳ đài, chỉa xuống bộ tư lệnh giới nghiêm đóng tại Phu Văn Lâu. Quân nhân hỏi ý Thầy. Đau xót: ông thầy tu trong Thầy không cho phép Thầy dùng bạo lực. Đưa bàn thờ ra đường là tranh đấu bất bạo động. Nổ súng là bạo động, Thầy đành bảo họ hủy mìn, dẹp súng. Nội chiến là chuyện Thầy không làm, dù hậu quả là cả quân lẫn dân Phật tử bị bắt, bị đàn áp sau đó. Thất bại, Thầy đành chịu. Nhưng bất bạo động là kim chỉ nam của Thầy. Khí giới duy nhất của Thầy là tuyệt thực. Bị bắt và giải về Sài Sòn, Thầy tuyệt thực đúng 100 ngày.
Before that, the soldiers of Region I and the "death row" students had decided to fight Ky, lined up on this side of Hai Van Pass, ready to open fire. The engineers had laid mines, ready to destroy the bridges from Da Nang to Quang Tri, cutting off supplies from Quang Tri. In Hue, artillery and machine guns were arranged along the flagpole, pointing at the curfew command post located at Phu Van Lau. The soldiers asked the Master's opinion. Painfully: the monk in the Master did not allow him to use violence. Bringing the altar out into the street was a non-violent struggle. Shooting was violence, the Master had to tell them to destroy the mines and put away the guns. Civil war was something the Master did not do, even though the consequences were that both the army and the Buddhist people were arrested and later repressed. If he failed, he had to accept it. But non-violence was his guiding principle. His only weapon was hunger strike. Arrested and taken to Saigon, he went on hunger strike for exactly 100 days.
Trong biến cố 1966, một tờ báo lớn Mỹ đặt câu hỏi to tướng: Ông Trí Quang muốn gì? Muốn gì mà ông chống hết chính quyền này đến chính quyền khác? Muốn gì mà ông không biết nhân nhượng? Muốn gì mà ông đòi Quốc hội? Rồi muốn gì mà ông hết đòi Quốc hội lại chống Quốc hội? Trong bấn loạn hỏa mù của đảo chánh và chiến tranh, của ngoại thuộc và nội chiến, nếu chịu khó nhìn và hiểu thì những gì mà Thầy tôi muốn cực kỳ đơn giản, có thể tóm gọn vào trong một bức thư, "Thư về Huế" mà tôi đã nói ở trên.
During the 1966 incident, a major American newspaper asked a big question: What did Mr. Tri Quang want? What did he want that he opposed one government after another? What did he want that he did not know how to compromise? What did he want that he demanded the National Assembly? And then what did he want that he stopped demanding the National Assembly and then opposed the National Assembly? In the chaos of coups and wars, of foreign domination and civil wars, if you take the time to look and understand, what my Master wanted was extremely simple, and could be summarized in a letter, "Letter to Hue" that I mentioned above.
Thầy tôi muốn gì năm 1964? Dân đã lật ông Diệm thì cứ tưởng là rạng đông sẽ sáng sau đêm tối âm u. Nhưng ai ngờ! "Ai ngờ sự vận động để cải thiện chính sách thực đã không đơn giản như chúng ta tưởng. Đảo chính quá dễ nhưng cách mạng quá khó. Hóa cho nên đời sống hiện tại của chúng ta và của tín ngưỡng chúng ta gần như vẫn ác mộng giống quá khứ và chưa chừng mà tiếp tục cả đến tương lai". Thầy muốn gì? Muốn cái đuôi của ông Diệm không làm khổ dân và khổ Phật giáo.
What did my Master want in 1964? When the people overthrew Mr. Diem, they thought that dawn would break after the dark night. But who would have thought! "Who would have thought that the movement to improve policy would not be as simple as we thought. A coup is too easy but a revolution is too difficult. As a result, our current life and our beliefs are almost as nightmare as the past and perhaps will continue into the future." What do you want? You want Mr. Diem's tail to not cause suffering to the people and to Buddhism.
Bằng cách nào? "Nỗ lực và nỗ lực một cách liên tục để chấm cho dứt những chính sách không phù hợp với sự sinh tồn của Dân tộc và Phật giáo, phát triển Phật giáo bằng sự thực hiện của bản thân mà không bằng cách làm thương tổn các tôn giáo khác, càng nêu cao đức tính Từ bi bao nhiêu lại càng thực hiện đức tính Vô úy bấy nhiêu: đó là "ý thức Phật tử" đơn giản vô cùng nhưng khó khăn vô tận".
How? "Continuous efforts and efforts to end policies that are not suitable for the survival of the Nation and Buddhism, to develop Buddhism through one's own practice without harming other religions, to promote the virtue of Compassion the more one practices the virtue of Fearlessness: that is the "Buddhist consciousness" that is extremely simple but endlessly difficult."
Đúng là khó khăn vô tận, vì Thầy thất bại năm 1966. Nhưng thế nào là "ý thức Phật tử" vào thời cuộc 1966? Là đại bác dội đêm, là chiến tranh, là phải hòa bình. Có người tưởng Thầy tôi đòi hỏi Quốc hội để chiếm đa số, để khuynh loát, để thủ diễn vai tuồng mới trên chính trường miền Nam. Họ chịu khó nhìn chính trị ở miền Nam một cách lô gích thì biết Thầy tôi muốn gì: chừng nào còn chiến tranh, chừng đó còn người Mỹ; chừng nào còn người Mỹ, chừng đó còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh; chừng nào còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh, chừng đó còn những thế lực ăn theo chiến tranh; chừng nào còn những thế lực ăn theo chiến tranh, chừng đó Phật giáo còn bị đè xuống, chận họng. Cách giải quyết vấn đề, đứng trên cương vị của một ông thầy tu, là tháo vất cái mắc xich đầu tiên, là chấm dứt chiến tranh! Thế là làm chính trị hay sao?
It is truly endlessly difficult, because the Master failed in 1966. But what is "Buddhist consciousness" in the 1966 era? It is the cannons that fire at night, it is war, it must be peace. Some people think that my Master asked the National Assembly to gain a majority, to dominate, to play a new role in the political arena of the South. If they take the time to look at politics in the South logically, they will know what my Master wants: as long as there is war, there will be Americans; as long as there are Americans, there will be a military apparatus serving the war; As long as there is a military apparatus serving war, there will be forces that feed on war; as long as there are forces that feed on war, Buddhism will be suppressed and silenced. The way to solve the problem, from the position of a monk, is to remove the first link, which is to end the war! Is that doing politics?
Thầy tôi mang đủ thứ tiếng. Có người nói Thầy thân Cộng. Có người nói Thầy thân Mỹ. Có lúc Thầy được đội cả hai cái mũ một lần. Lẳng lặng, Thầy nói với người thân: "Càng nhiều mũ càng tỏ ra thật không có mũ nào. Trái lại, càng nhiều mũ càng tốt: càng làm cao lên, và rõ ra, cái tư thế đặc biệt của Phật giáo. Nên Phật giáo không cần tránh mà còn cần đến cái tác dụng nghịch lý ấy".
My teacher has many different names. Some people say he is pro-communist. Some people say he is pro-American. Sometimes he wears both hats at the same time. Quietly, he told his relatives: "The more hats he has, the more it shows that he really has no hats. On the contrary, the more hats he has, the better: it elevates and makes clear the special position of Buddhism. So Buddhism does not need to avoid but also needs that paradoxical effect."
Chính cái nghịch lý ấy làm nên Thầy. Thầy là một nghịch lý to tướng. Một ông thầy tu có tầm cỡ và sức thu hút đặc biệt của một nhà chính trị lớn, lớn nhất miền Nam lúc đó, nhưng lại từ khước cái khả năng hiếm có ấy để làm ông thầy tu. Câu hỏi mà các ký giả Mỹ đặt ra về Thầy không phải là không có căn cơ: họ bị Thầy thu hút như một tài năng chính trị, nên họ không thể tưởng tượng Thầy thật không muốn làm chính trị. Họ lầm.
It is that paradox that makes him. He is a huge paradox. A monk with the stature and special charisma of a great politician, the greatest in the South at that time, but refused that rare ability to become a monk. The question that American journalists asked about the Master was not without basis: they were attracted to the Master as a political talent, so they could not imagine that the Master really did not want to do politics. They were wrong.
Bây giờ thì chắc người ta hiểu Thầy hơn. Thời thế bắt buộc Thầy phải xông trận, như một người lãnh đạo. Nhưng đó là cái thế bất đắc dĩ của một ông thầy tu cỡ lớn, quá lớn để từ khước một trách nhiệm đặc biệt mà lịch sử bất thần đặt lên vai. Nhưng Thầy không bị lịch sử lừa phỉnh để đi vào con đường khác với con đường của ông thầy tu. Cái vui thú của Thầy là lúc Thầy được xa cái chợ chính trị để làm cái việc của ông thầy tu là dịch kinh, giảng kinh. Trăm ngày tuyệt thực, đó là lúc Thầy vui. Vì Thầy làm được cái việc Thầy muốn: viết được hai bản thảo "Nghiên cứu Khởi tín luận" và "Khảo luận Tây du bằng Duy thức học". Ông thầy tu tuyệt thực như thế nào, với tâm trạng gì? Thầy nói: "Có hai việc mà tuyệt thực tuyệt đối phải có. Một là phải có một tâm thức thanh thản, không buồn, không giận, không cầu hồ gì. Không cầu chết cũng không sợ chết, tiếp cận hoàn toàn với đức hỷ xả của Phật. Hai là tuyệt đối không ăn, dĩ nhiên, cũng không uống, không chích bất cứ thứ gì". Thân thì không ăn uống, tâm thì hỷ xả. Ấy là ông chính trị gia hay ông thầy tu?
Now people probably understand the Master better. The times forced the Master to go into battle, as a leader. But that was the reluctant position of a great monk, too great to refuse a special responsibility that history suddenly placed on his shoulders. But the Master was not fooled by history into taking a different path from that of a monk. The Master's joy was when he was away from the political marketplace to do the work of a monk, translating and preaching sutras. During the hundred days of fasting, that was when the Master was happy. Because the Master was able to do what he wanted: write two manuscripts, "Research on the Awakening of Faith" and "Research on the Journey to the West using the Consciousness-Only School". How did the monk fast, and with what state of mind? The Master said: "There are two things that a fast absolutely must have. One is to have a peaceful mind, not sad, not angry, not asking for anything. Not asking for death nor fearing death, completely approaching the Buddha's virtue of joy and renunciation. Two is to absolutely not eat, of course, not drink, not inject anything." The body does not eat or drink, the mind is joyful and renunciation. Is he a politician or a monk?
Thầy tôi có thắng có bại trong hành động, như bất cứ ai hành động. Nhưng thắng, Thầy dành cho người khác hưởng; bại, Thầy nhận một mình. Thắng hay bại, Thầy đều cô đơn. Suốt đời, Thầy cô đơn. Sau mỗi tranh đấu thắng lợi, bao giờ cũng có lắm anh chính khách xun xoe sau lưng các lãnh tụ. Ai tranh đấu bên cạnh Thầy chỉ hưởng cơm hẩm nước rau. Suốt đời, Thầy không nhân nhượng với cái gian, cái ác, cái xảo quyệt, cái ma lanh ma lẹ của bán buôn chính trị. Về riêng Thầy, có lần tôi nghe Thầy nói một câu bâng quơ: nước trong quá thì không có cá. Có gì để nhậu nhẹt trong cái am của Thầy đâu! Ai chơi hoa, cắm hoa đều biết: dù hoa thanh khiết đến bao nhiêu đi nữa, sau ba ngày thì nước trong bình bắt đầu hôi. Có kẻ chỉ thấy hoa đẹp, không thấy nước hôi. Thầy thấy nước hôi, không dùng hoa đó để cúng Phật. Tôi học được ở Thầy cái nhìn đó để không sợ cô đơn trong cuộc đời. Và trong sự thật.
My Master has victories and defeats in his actions, like anyone who acts. But victory, he gives it to others to enjoy; defeat, he accepts alone. Victory or defeat, he is lonely. All his life, he is lonely. After every victorious struggle, there are always many politicians who fawn on the leaders. Those who fight alongside him only enjoy stale rice and vegetable water. Throughout his life, the Master was intolerant of the deceit, the evil, the cunning, the cunning of political trading. As for the Master, I once heard him say something offhanded: water that is too clear has no fish. What is there to drink in my hermitage? Anyone who plays with flowers and arranges flowers knows: no matter how pure the flowers are, after three days the water in the vase begins to smell. Some people only see the beautiful flowers, not the smelly water. The Master saw the smelly water, so he did not use the flowers to worship Buddha. I learned that perspective from the Master so that I would not be afraid of loneliness in life. And in truth.
*
*
Thầy sống cô đơn như vậy từ sau 1975 đến nay, không màng thế sự, khen chê, không thanh minh, không tiếp khách. Thầy sống như Thầy đã tuyệt thực, thanh thản dịch kinh. Thầy sống như để trả lời câu hỏi về Thầy ngày trước: Thầy chỉ là một ông thầy tu không hơn không kém, bây giờ cũng như bao giờ. Có điều là ông thầy tu này có cặp mắt sáng quắc, dữ thì thật dữ mà hiền thì thật hiền, khi dữ thì Vô úy, khi hiền thì Từ bi, hai chữ đỏ như son trong Lập Trường ngày trước. Tôi không biết nên nói gì với tuổi trẻ ngày nay ngoài hai chữ mà tôi đã học được ngày xưa.
The Master has lived alone like that since 1975 until now, not caring about worldly affairs, praise or criticism, not justifying himself, not receiving guests. He lives as if he had fasted, calmly translating sutras. He lives as if to answer questions about the Master in the past: He is just a monk, nothing more, nothing less, now as always. The thing is, this monk has bright eyes, he is really fierce but he is really gentle, when he is fierce he is fearless, when gentle he is compassionate, two words as red as vermillion in the old Lap Truong. I don't know what to say to today's youth other than the two words I learned in the past.
Vô úy, ai cũng đã thấy nơi Thầy. Không sợ! Còn Từ bi? Từ bi không phải chỉ là lòng thương. Phải là lòng thương nào có thể vừa cho vui vừa cứu khổ. Điều này, Phật tử ai cũng rõ. Nhưng ít ai biết tại sao phải từ bi như là một định luật. Thầy giảng: tại vì sống là tương quan, không ai có thể sống một mình, cho nên sống là phải giúp nhau, cho vui và cứu khổ lẫn nhau. Lòng từ bi đó tạo cho mình cái nhìn bình đẳng: thấy tất cả đều khổ, do đó mình phải cho vui và cứu khổ hết thảy.
Fearlessness, everyone has seen in the Master. No fear! What about compassion? Compassion is not just love. It must be a love that can both bring joy and save suffering. Every Buddhist knows this. But few people know why compassion is a law. The Master taught: because life is a relationship, no one can live alone, so living is to help each other, bring joy and save each other from suffering. That compassion creates for us an equal view: seeing everyone is suffering, therefore we must bring joy and save everyone from suffering.
Thầy giảng, tôi hiểu suốt. Và tôi biết đó là lý tưởng của Thầy, Thầy sống như vậy. Nhưng thắc mắc của tôi là ông thầy tu của tôi từ bi như thế nào trong những hành động mà dù muốn dù không cũng mang tính chính trị? Tôi đọc Thầy: "Cứu cánh của từ bi là thấy người với mình là một, thân người tức thân ta… Do từ bi, mình tự đưa mình ra chịu khổ cho người. Xem tất cả như con một, thấy thân người như thân mình, thì còn có gì mà không làm nổi?"
What the Master taught, I understood it all. And I know that is the Master's ideal, he lives like that. But my question is how compassionate is my monk in his actions that, whether he wants it or not, are political? I read the Master: "The ultimate goal of compassion is to see others as one with me, the other person's body is my body... Because of compassion, I offer myself to suffer for others. Seeing everyone as my only child, seeing others as my own body, is there anything I cannot do?"< br>
My Master is very much my Master in the words "what I cannot do". People respect him, fear him, all sides fear him because he exudes those words. But what is it about him that people fear? What is it about compassion? Evil! "Especially in this era - the Master wrote - an era in which psychologically we can clearly see everywhere the embodiment of cruelty. Cruelty, like a fire emitting black and towering smoke, covers suffering humanity. And against cruelty, there is only compassion."
Thầy tôi rất Thầy tôi ở mấy chữ "còn có gì mà không làm nổi". Người ta nể Thầy, sợ Thầy, phe nào cũng sợ Thầy là vì ở Thầy toát ra mấy chữ ấy. Nhưng cái gì nơi người ta sợ Thầy? Cái gì sợ từ bi? Cái ác! "Nhất là vào thời đại này - Thầy viết - thời đại mà về mặt tâm lý ta có thể thấy rõ rệt khắp đây đó hiện thân của lòng tàn ác. Tàn ác, như một ngọn lửa tỏa khói đen nghịt và cao ngất, phủ bọc lấy loài người đau khổ. Mà chống lại lòng tàn ác thì chỉ có lòng từ bi".
One must read one more sentence to see that the writing is the person, the Master's writing style is as sharp as the Master's, and he appears in the eyes of the opponent like that, that is evil: "Therefore, whoever mocks that in this era we still talk about compassion, that person is the one who is cruel. Whoever directly or indirectly damages the power of compassion is a criminal of humanity, a person who brings disaster to humanity. If we have to use the example of a devil, that devil is only afraid of a single mentality, the mentality of compassion."
Phải đọc thêm một câu nữa để thấy văn tức là người, giọng văn của Thầy thế nào thì Thầy sắc như thế ấy, hiện thân ra như thế ấy trước mắt đối phương, nghĩa là cái ác: "Bởi vậy, kẻ nào mỉa mai rằng thời đại này mà còn nói đến chuyện từ bi, thì kẻ ấy chính là kẻ đang tàn ác. Kẻ nào trực tiếp hay gián tiếp làm tổn thương đến uy lực của từ bi là kẻ tội ác của nhân loại, kẻ gieo thảm họa cho loài người. Nếu phải thí dụ kẻ đó là kẻ ma quân thì ma quân ấy chỉ khiếp sợ mỗi một tâm lý độc nhất, tâm lý từ bi mà thôi".
I met my Master when the history of Buddhism and the political history of the South opened a new period with the fire of Quang Duc. History chose my Teacher to be the one to bear the brunt of that period because history knew how he fought against evil with what mentality. In all four directions, we could see: the fire of Quang Duc was the fire of compassion. As for me, at the low level of an ordinary person, I see that fire continue to burn in the nostalgic sentences that the Master wrote to Lap Truong on the first anniversary of the death of the 7 children shot dead by Diem's soldiers in front of Hue radio station on Buddha's birthday in 1963: "I, until now, still cannot overcome the feeling of a person who saw a pile of flesh, blood and bones thrown into a corner of the wall, the flesh, blood and bones of loved ones who had just laughed and talked to him not more than 10 minutes before! When, or will there ever be, when will humans be less brutal, feel ashamed of their crimes, so that people will not be afraid of humans".
Tôi gặp Thầy tôi khi lịch sử Phật giáo và lịch sử chính trị miền Nam mở đầu một giai đoạn mới với ngọn lửa Quảng Đức. Lịch sử đã chọn Thầy tôi làm kẻ đứng mũi chịu sào trong giai đoạn đó vì lịch sử biết Thầy chống cái ác như thế nào với một tâm lý gì. Bốn phương tám hướng đều thấy: ngọn lửa Quảng Đức là ngọn lửa từ bi. Riêng tôi, ở trong tầm mức thấp bé của một người thường, tôi thấy ngọn lửa đó tiếp tục cháy trong mấy câu hoài niệm Thầy viết cho Lập Trường nhân ngày giỗ đầu của 7 em bé bị đạn của lính ông Diệm bắn chết trước đài phát thanh Huế đêm Phật Đản 1963: "Tôi, cho đến bây giờ, vẫn không sao nguôi ngoai được tâm trạng của một người nhìn thấy đống xương thịt máu huyết bị hất vào một góc tường, xương thịt máu huyết của những kẻ thân yêu mới cười nói với mình trước đó không quá 10 phút! Biết bao giờ, hay sẽ không bao giờ, con người bớt tàn bạo, biết xấu hổ vì tội ác của mình, để con người đừng kinh hãi vì con người".
My Master went down in history for just that reason: only because he personally took on the suffering of the Buddhist masses, only because in his bones and blood were the bones and blood of 7 innocent children who died because of evil, only because he took evil as a constant accomplices to provoke him.
Thầy tôi đi vào lịch sử chỉ vì thế: chỉ vì Thầy tự đưa thân ra gánh lấy cái khổ của quần chúng Phật tử, chỉ vì trong xương máu của Thầy có xương máu của 7 em bé trắng trong chết vì cái ác, chỉ vì Thầy lấy cái ác làm kẻ đồng hành khiêu khích không ngừng.
About the Master, I think it was only that story is worth mentioning. But all of this is just a huge mistake that needs no correction or comment: people mistakenly thought that the Master wanted to be Richelieu, cardinal, prime minister of King Louis XIII of France. In fact, my Master wanted more than that: he wanted to be a monk.
Về Thầy, tôi nghĩ chỉ có chuyện ấy là đáng nói. Còn tất cả chỉ là một nhầm lẫn to tướng không cần cải chính, bình luận: người ta tưởng nhầm Thầy muốn làm Richelieu, hồng y, thủ tướng của vua Louis XIII nước Pháp. Sự thực, Thầy tôi muốn cao hơn thế: Thầy muốn làm ông thầy tu.




    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...