Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tùy bút »» Xem đối chiếu Anh Việt: Tri kiến »»

Tùy bút
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Tri kiến

(Lượt xem: 5.684)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Font chữ:
Font chữ:

Tri kiến

Xưa nay có rất nhiều vị đại anh hùng hào kiệt hoặc những người học rộng nghe nhiều; trong số đó, cũng có người tận sức gánh vác Phật pháp, dốc chí tu trì. Nhưng cũng có những người cả đời chẳng biết đến nghĩa lý của Phật pháp là như thế nào. Lại có những người tuy biết Phật pháp, đã quy y Tam Bảo, mang danh là Phật tử, là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật, thế mà họ hoàn toàn chẳng học Phật từ nơi kinh Phật nên chẳng thông hiểu Phật pháp. Vì thế, tuy họ chẳng hủy báng Phật pháp nhưng cũng chẳng tán dương Phật pháp. Cái tâm của họ đối với Phật pháp thật là thờ ơ, hời hợt. Cũng có những kẻ tuyệt đối chẳng biết gì về Phật pháp, thế mà lại tùy tiện dựa theo ý riêng của mình chê bai xằng bậy; Phật bảo những hạng người này là Nhất-xiển-đề, tức là ngu si điên đảo bậc nhất. Tệ hơn hết và nguy hiểm hơn hết là có những người học Phật, thấu rõ Phật pháp, trong tâm cũng bội phục Phật pháp rất sâu xa, nhưng lại sanh tâm hư ngụy, trộm lấy Phật pháp để lập môn, lập phái, lập dị, xưng hùng trong thiên hạ, rồi lại cố ý phỉ báng kinh Phật hòng ngăn lấp nhân duyên của người khác, khiến họ không có cơ hội được học Phật pháp. Kinh này bảo những người thế trí biện thông như vậy, càng học Phật càng tăng lớn tâm tà, hỏi sao họ khó thể thoát khỏi nạn lớn sanh tử.

Tri kiến của chúng sanh biến hóa vô cùng lạ lùng đến mức đáng sợ như vậy, chẳng ai giống ai. Cho nên, các chư cổ đức từ xưa đến nay nói pháp chỉ là lập đi lập lại lời nói của Phật, Tổ, chớ chẳng dám tùy tiện dùng ý riêng của mình để nói, hoặc nói pháp theo kiểu cắt xén, tháo ráp, tăng giảm, chẳng có đầu đui gốc ngọn, khiến cho người nghe hiểu lầm ý của Phật, Tổ. Do vậy, người giảng kinh phải nói từ đầu kinh cho đến cuối kinh thì mới viên mãn một bộ kinh, chẳng thể nói nữa chừng rồi bỏ lở, khiến người nghe chẳng những chẳng thể khai ngộ mà lại còn hiểu lầm ý Phật.

Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật khuyên lơn nhắc nhở rằng: Nếu kinh này không được lưu thông và diễn giải thì Phật pháp sẽ rất mau chóng đi đến chỗ tận diệt. Lúc ấy nhân dân tà ngụy mặc sức làm những điều cực ác, ngũ thống, ngũ thiêu lâu sau càng thêm nguy ngập. Vì thế, Phật đặc biệt gia trì, giữ gìn cho kinh này lưu lại trong thế gian thêm một trăm năm nữa sau khi chánh pháp của Phật bị diệt. Trong thời gian ấy, nếu ai còn chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên gặp được kinh này cũng được độ thoát. Ngày nay, chúng ta còn may mắn gặp được kinh điển này thì tại sao tự mình hủy bỏ thiện căn, phước đức, nhân duyên của mình đã tích lũy được từ vô lượng kiếp trước đến nay. Đây thật sự là chuyện đáng buồn thương! Đối với những người học Phật, hiểu rõ vận mạng của Phật pháp trong đời Mạt pháp như Phật đã huyền ký, thì họ vô cùng trân quý kinh này, họ xem kinh này là thân mạng tuệ mạng của họ, là nguồn hy vọng cuối cùng để có thể giải thoát sanh tử ngay trong đời này. Đấy mới đúng là người chân chánh học Phật, biết quán chiếu thời cơ và sự lý nên có ý chí kiên định, lấy chuyện gặp khổ, gặp chướng ngại để thúc đẩy, hướng dẫn mình thâm nhập vào trong chánh pháp của A Di Đà Phật. Do nhờ thọ trì kinh điển này, nên họ biết rõ, nếu chuyện đời lúc nào cũng theo như ý muốn của mình thì chỉ e sợ rằng suốt đời phải làm kẻ đứng ngoài cửa Phật môn, chẳng thể nào được thâm nhập vào trí tuệ tạng của Như Lai. Chúng ta phải nên biết, kinh Vô Lượng Thọ chính là tạng pháp của A Di Đà Phật, cũng tức là quang minh trí huệ của A Di Đà Phật. Do đó, nếu ai muốn trở thành quang minh tạng của A Di Đà Phật thì đều phải thâm nhập vào kinh này.

Họa, phước trong thế gian dấy lên hay ẩn lấp chỉ là do mình có trí huệ và biết khéo dụng tâm hay không mà thôi! Người thường xuyên học Phật, đọc tụng kinh Phật, tư duy quán chiếu văn tự Bát-nhã trong kinh Phật chẳng qua là để học cách dụng tâm, dụng trí của chư Phật, Bồ-tát mà có thể chuyển hóa cảnh giới. Do nhờ học Phật, nghe pháp nên người học Phật thấu rõ lý tánh của hết thảy các pháp vốn không có tướng nhân, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả nào để được. Huống chi từ vô thủy đến nay, hết thảy chúng sanh đều lần lượt làm cha mẹ của nhau, tương lai đều cùng thành Phật như nhau; cho nên người học Phật phải biết: ”Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai.” Nếu biết sự thật là như vậy, thì chúng ta cung kính còn không xuể, sao còn dám trách móc, phê bình, chỉ trích những thiếu sót, sai lầm của người ta. Vả lại, những thiếu sót, sai lầm của người khác chẳng phải là những điều giúp cho ta hồi quang phản chiếu lấy lỗi lầm của chính mình hay sao?

Cổ nhân thường nói: ”Nếu chẳng hạ mình trước người thật sâu, thì chẳng thể đạt được lẽ thật.” Nếu chính mình chẳng thể sanh tâm chân thành cung kính học Phật thì dù người ta có chịu khó cố gắng dạy mình, nhưng do trong tâm của chính mình không có chánh khí để học Phật, lại chất chứa toàn là những điều ngạo mạn, nên tự gây chướng ngại trong việc học Phật của mình, chẳng thể thu nhận được lợi ích thật sự. Đức Phật và chư cổ đức lập ra những giới luật và nghi lễ nghiêm túc nhằm dạy cho đệ tử trong Phật môn cách đoạn trừ tâm tự cao, ngã mạn và biết cách dụng tâm như Phật, khiến họ sanh lòng kính ngưỡng, tận lực tu trì, dứt trừ các lậu hoặc nơi ba nghiệp thân, khẩu, ý. Vì thế, người học Phật pháp trước hết phải học luật nghi cung kính một cách nghiêm túc, phải chứng tỏ lòng chân thành tột bực muốn học Phật thì mới có thể lãnh hội được giáo pháp của Phật.

Ngã mạn là căn bản phiền não che lấp Phật tánh; do đó người học Phật trước hết là phải học hạnh thứ nhất “Lễ kính chư Phật” của Bồ-tát Phổ Hiền, nhằm dẹp bỏ tâm ngã mạn thì Phật tánh mới hiển lộ. Chữ “Lễ kính chư Phật” ở đây bao gồm lễ kính hết thảy chúng sanh; bởi vì mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật trong tương lai. Vậy, phép tu “Lễ kính chư Phật” tức là tu luật nghi, cung kính, lễ bái để đối trị các lậu hoặc, phiền não do tâm ngã mạn sanh ra. Kinh Pháp Hoa có kể rằng, Ngài Thường Bất Khinh thấy người khác liền lễ bái, xưng gọi họ là Phật. Người ta cho rằng Ngài là người điên khùng đến phá quấy nên dùng roi, gậy, ngói, đá đánh ném Ngài. Ngài tuy chạy tránh ra, nhưng vẫn từ ở chỗ xa mà cung kính lễ bái mọi người, chẳng hề buồn trách. Người đời chẳng biết Bồ-tát Thường Bất Khinh đã đang tu pháp cung kính lễ bái để trừ khử tập khí ngã mạn phiền não. Đây là vì Ngài biết căn cứ trực tiếp trên bản thể của Chân tâm Tự tánh để gieo chủng tử Phật nơi tâm mình, chứ không phải là lề lối duy trì pháp đạo của kẻ phàm phu chỉ tu hành trên hành vi mà chẳng biết cách thức dụng tâm như Phật, Bồ-tát.

Ấn Quang Tổ sư dạy: “Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, phải cầu nơi cung kính. Có một phần cung kính liền tiêu được một phần tội nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính, tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng mười phần phước huệ.” Ngài cũng dạy bảo: “Người chân thật học Phật phải biết cách dụng tâm ví như trời che đất chở, chỉ tận hết bổn phận của mình, chớ chẳng hề cậy mình có công lao, có trí tuệ được nhiều người kính phục, lễ bái. Đấy mới chính thực là bậc quân tử khiêm nhường, tu hành đã đạt được kết quả tốt lành.” Lời dạy này của Ấn Tổ cũng có nghĩa là trước khi muốn tu tập Mười Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ-tát để dẫn về Cực Lạc thì hành nhân phải bắt đầu tu hạnh “chân thành cung kính,” hạnh ấy chính là “Lễ kính chư Phật.” Thật ra, tu hành khó nhất là ở chỗ phá ngã chấp. Cái chướng ngại lớn nhất của người tu đạo Phật không phải là chướng duyên bên ngoài mà chính là ngã chấp. Nếu phá được ngã chấp, ý kiến riêng của mình thì việc tu hành sẽ tự nhiên trở nên dễ dàng, không còn bị chướng ngại nữa. Vì sao? Vì phá được ngã chấp thì kiến tự hoặc sẽ không còn nữa, bèn thấy tất cả pháp đều bình đẳng như nhau, Lúc ấy, mình thấy cái gì cũng tốt, cái gì cũng ngon, cái gì cũng đẹp, chẳng còn phân biệt cái này tốt hơn cái kia; nhờ đó mà tâm mình sạch tận các lậu, được mát mẽ, vui sướng. Đây là sự thành tựu của hạnh tự lợi của hàng Thanh văn, Duyên giác.

Vượt cao hơn nữa, người đã dứt sạch các lậu, không còn khởi nghĩ tham thân, chấp ngã nữa, bèn có thể phát được tâm Bồ-đề của Đại hạnh Bồ-tát, tức là họ có thể phát tâm độ trọn hết thảy chúng sanh, lúc nào cũng muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đều nhập Vô Dư Niết-bàn, nhưng lại chẳng thấy có một chúng sanh nào được diệt độ như kinh Kim cang đã nói. Thật vậy, chỉ có người khiêm tốn, không chấp ngã mới có thể mở tâm lượng bao dung rộng lớn ví như biển lớn dung nạp hết thảy các sông, như hư không chứa đựng mọi hình tượng, trọn không cự tuyệt một vật nào mà chẳng dung nạp, chẳng bao gồm. Nhờ đó nên họ có thể gánh vác được hết thảy những việc cần nên gánh vác để viên mãn hai hạnh tự lợi, lợt tha.

Do vì kinh Vô Lượng Thọ phát huy sự-lý viên dung, dạy cho con người sống trong cõi trần học đạo, tu chân trong cõi tục mà thành tựu viên mãn cả hai hạnh “tự giác, giác tha” và “tự lợi, lợi tha” ngay trong đời này, nên đây là quyển kinh chẳng phải chỉ dành riêng cho người tu Tịnh độ, mà là một quyển kinh mà tất cả những người học Phật đều không thể không đọc tụng, thọ trì. Từng câu, từng chữ trong kinh đều là trí huệ quang phát xuất từ Pháp thân của A Di Đà Phật, nên từng câu từng chữ trong kinh này đều là A Di Đà Phật. Cho nên, niệm một chữ trong kinh Vô Lượng Thọ cũng chính là niệm một câu Phật hiệu A Di Đà. Người hiểu rõ được pháp thức này chính là người đã đạt được sự-lý viên dung của Đại kinh này chính là: “Chân như trọn khắp, vạn pháp chỉ là một!” Đối với họ, bất cứ vật gì, sự lý nào ở trong thế gian cũng đều là A Di Đà Phật, nên không có cái gì mà chẳng phải từ quang minh của Phật A Di Đà phóng chiếu ra để giác ngộ chúng sanh. Đây chính thực là những người có thiện căn sâu dầy, có nhân duyên thù thắng với Phật A Di Đà từ nhiều kiếp trước. Cho nên, khi họ nghe được danh hiệu Phật, hoặc thấy được hình tượng Phật thì liền phát lòng tín ngưỡng, thành kính lễ lạy. Những người này khi đọc kinh, nghe pháp của Phật thì tâm tư liền thấu suốt, học ít hiểu nhiều, tâm luôn kính Phật, trọng pháp và vui thích tu hành. Do cái tâm cung kính, chí thành, tận hiếu học Phật, nghe pháp như thế nên họ mới có thể nắm vững được căn bản pháp luân, hiểu được trí Phật đến trí thù thắng, biết cách dụng tâm, dụng trí của chư Phật Bồ-tát, chẳng bị lầm lạc vào các pháp sở hữu của thế gian.

Phật pháp vô cùng tích cực, trí tuệ vô biên, từ bi bác ái. Người không học Phật thì sẽ không biết rõ điều này, dễ sanh lòng ngược ngạo, tự tư tự lợi, bất kính. Tệ hơn hết là họ coi kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ rốt ráo độ hết thảy chúng sanh thoát khổ này của chư Phật Như Lai là pháp ngu xuẩn, mê hoặc kẻ ngu tục, rồi lại bảo người khác chẳng nên học kinh này, chẳng nên nói kinh này vì kinh này chẳng khế lý khế cơ! Đấy đều là do túc nghiệp của họ trong đời trước quá sâu nặng, tai ương đời trước chưa dứt tận, nên trong lòng hồ nghi, chẳng thể tin ưa kinh này. Chúng ta phải biết: Nếu kinh Vô Lượng Thọ này không có sức độ sanh rộng lớn vô lượng biên và rốt ráo vô tận thì Phật cũng chẳng đặc biệt lưu lại kinh này thêm một trăm năm nữa sau khi chánh pháp bị tận diệt.

Hết thảy phàm phu chúng ta ai nấy đều mắc phải cái bệnh thân kiến, nên Phật A Di Đà mới phát lời nguyện “Không tham chấp.” Tức là Phật nguyện cho chúng sanh không còn khởi tưởng ý niệm tham thân, chấp ngã nữa. Thân kiến là kiến chấp lớn nhất trong kiến hoặc. Nếu người tu hành chẳng thể đoạn được kiến hoặc thì chẳng thể nào vào được dòng Thánh, tất nhiên là phải thường lưu chuyển trong sanh tử, khó mong có ngày thoát ra. “Tham thân, chấp ngã” chính là thân kiến hay ngã chấp. Do vì phàm phu chúng ta vọng tưởng cho thân mình chính là ngã rồi tham chấp vào đó, rồi so đo, ham thích, giữ gìn, bồi bổ cho cái thân này, hễ thuận với mình thì sanh lòng yêu thích, hễ nghịch với mình thì sanh lòng sân giận, ghét bỏ. Toàn thể các thứ phân biệt, tham đắm ấy đều là căn bản của phiền não, gọi là ngã mạn.

A Di Đà Phật nguyện rằng: “Nếu còn khởi nghĩ, tham thân chấp ngã, con thề quyết không ở ngôi Chánh Giác.” Lời nguyện này của Phật dạy chúng sanh phải xa lìa ba thứ tâm: tâm tham chấp tự thân, tâm chẳng an chúng sanh và tâm cúng dường cung kính thân mình. Do vì ba thứ tâm này làm chướng ngại Bồ-đề nên kinh Vô Lượng Thọ lấy “phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật” làm tông chỉ, nhằm dạy người tu Tịnh độ phải xả bỏ ngã chấp để tâm Bồ-đề được khởi dậy, không bị chướng ngại nữa mà có thể niệm Phật được vãng sanh. Chúng ta đều đã quy y Phật pháp và đều hiểu rõ, mọi sự trong thế gian đều là vô thường, vô ngã. Nếu chẳng chịu buông xả tập khí tham thân chấp ngã, cực lực niệm Phật cầu sanh Tây Phương, thì đành phải tùy theo túc nghiệp của mình mà mãi mãi bị luân hồi trong tam đồ lục đạo, không thể nào ngưng dứt được.

Chúng ta phải biết, đối trước cái chết, thì chỉ có Tây Phương Cực Lạc A Di Đà Phật mới chính thật là chỗ để cho hết thảy chúng sanh nương tựa mà thoát ra cảnh luân hồi sanh tử, chẳng có một nơi nào khác chúng sanh có thể nương cậy vào được, ngay cả chính bản thân mình. Vì sao? Bởi vì tha lực độ sanh của các nơi khác và tự lực tự độ của mình quá sức nhỏ nhoi so với tha lực độ sanh vô cùng vô tận, vô lượng vô biên của A Di Đà Phật. Từ lý do đó, chúng ta phải thật sự phát lòng cảm kích A Di Đà Phật, tôn trọng pháp của A Di Đà Phật mà dũng mãnh tinh tấn tu hành các pháp công đức, rồi lại đem tất cả công đức đã làm được hồi hướng cho chính mình và hết thảy chúng sanh đồng vãng sanh Tây Phương.

Người không thường luôn đọc tụng, nghe giảng pháp yếu trong kinh Phật thì khó thể tự mình biết phản tỉnh lỗi lầm, lại thường hay tham thân, chấp ngã, nên chẳng thể sanh lòng nhàm lìa Sa-bà và cũng không thể sanh lòng ưa muốn Cực Lạc. Người tham thân, chấp ngã thường hay khoe khoang, kiêu căng bởi những công đức mà họ đã tạo được và dễ dãi đối với những tội lỗi của chính mình, lại nghiêm khắc chỉ trích lỗi lầm của người khác. Đã là con người thì ai mà không có tội? Đừng nói chi đến tội lỗi mà mình đã tích lũy từ vô lượng kiếp, nếu chỉ bàn đến cái tội lỗi của mình tạo ra trong đời này thôi, cũng không làm sao tính kể ra cho xiết. Cho nên, Phổ Hiền Bồ-tát mới bảo: “Chúng sanh khởi tâm động niệm đều là tạo ác nghiệp.” Ngài Di Lạc Bồ-tát cũng nói: “Trong mỗi sát-na, chúng sanh khởi lên ba trăm hai mươi triệu vọng niệm.” Trong đó có vọng niệm thô lẫn vi tế mà phàm phu chúng sanh không có cách chi nhận ra nổi, duy trừ các Bậc Đẳng giác Bồ-tát đã chứng Tịnh tâm kiên cố mới thấy được. Mỗi một vọng niệm tạo ra một làn sóng nghiệp, tức là trong mỗi sát-na chúng ta phát ra ba trăm hai mươi triệu làn sóng nghiệp chặt chịt, đan móc với nhau, khó mà tháo gở ra nổi. Thế thì, đã là phàm phu đầy dẫy phiền não như bọn chúng ta thì khó thể nào tự mình có thể tiêu diệt được hết thảy các nghiệp, thì làm sao có thể tự độ được chứ? Do đó, chữ “tự độ” trong kinh Phật là nói về mặt lý thuyết; chớ nói về mặt sự thì phàm chúng ta làm không nổi. Phàm phu chúng ta phải nương nhờ vào Phật lực gia trì thì mới hòng thành tựu đạo giải thoát.

Nếu chỉ xét riêng về tội sát sanh thôi thì đã thấy rõ, chúng ta đã từng giết chết và não loạn đủ loại chúng sanh để ăn thịt cho sướng miệng, no bụng. Chúng sanh nào phải là gỗ đá, chẳng biết đau khổ, chẳng muốn sống, chỉ mong người ta giết để ăn thịt? Vậy mà chúng ta lại nhẫn tâm banh thây, mổ bụng, móc hết tim gan phèo phổi của chúng ra để nấu nướng mà ăn cho thỏa thích. Thử hỏi, chỉ trong một đời này ta đã ăn bao nhiêu sanh linh vào trong bụng thì làm sao dám tự bảo là “ta vô tội”? Những chúng sanh ấy ắt hẳn oán hận chúng ta đến cùng cực; tất nhiên họ cũng chẳng thể nào tha thứ chúng ta. Cho nên, một ngày nào đó trong tương lai, các chúng sanh đó nhất định cũng sẽ giết chết chúng ta để ăn thịt. Oan oan tương báo như thế cứ mãi tiếp diễn chẳng lúc nào ngừng dứt thì làm sao có thể thoát ra khỏi lục đạo luân hồi?

Chư cổ đức thường nói: “Thường nhân chẳng thấy được bản thân có lỗi, thánh nhân chẳng thấy chính mình có đức. Chẳng thấy có lỗi thì tội chất như núi. Chẳng thấy có đức thì đức cao tầy trời.” Do vậy, chúng ta phải cực lực làm lành, tránh xa điều ác, chỉ biết quan tâm đến nhà mình, không xen vào chuyện nhà của người khác, nỗ lực niệm Phật, tất cả hết thảy công đức làm được đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh cùng vãng sanh Tây Phương, thì tâm hạnh này của mình trong đời hiện tại sẽ khế hợp với tâm hạnh của Thánh hiền; đến khi lâm chung, chắc chắn được A Di Đà Phật tiếp dẫn vãng sanh như lời Phật đã tuyên thệ.

Đức Phật thường dạy chúng ta, ngộ có tiểu ngộ và đại ngộ. Hằng ngày trong cuộc sống đời thường chúng đều phải giác ngộ, nếu chẳng ngộ thì là mê. Giác ngộ điều gì? Giác ngộ là phát hiện được hành vi sai lầm của chính mình, phản tỉnh lỗi lầm của chính mình. Sau khi đã ngộ ra được điều sai lầm của mình rồi, liền sửa đổi những khuyết điểm, tập khí ấy thì đó mới thật sự là tu hành. Tu hành chẳng phải là hằng ngày đối diện trước bàn thờ Phật, Bồ-tát thắp nhang, gõ mõ, tỏ vẻ ra cái tướng làm bộ tu hành. Tu hành thật sự phải là sám hối, sửa đổi lỗi lầm!

Trong truyện ký của Phật giáo Thiền tông, trong thời quá khứ, ở núi Thiên Thai, có ba vị tăng điên điên khùng khùng, tên của họ là Hàn Sơn, Thập Đắc và Phong Can. Ba vị tăng này thấy người xuất gia sáng tối cứ mãi tụng niệm công khóa, nhưng lại chẳng biết hồi quang phản tỉnh lỗi lầm, nên họ ở ngoài cửa chùa giở trò chọc ghẹo. Mọi người thấy vậy, cho họ là ba kẻ điên khùng, về sau người đời mới biết họ chính là ứng hóa thân của Văn Thù Bồ-tát, Phổ Hiền Bồ-tát và A Di Đà Phật. Ba vị Phật sống này trụ tại chùa Quốc Thanh, thường ngày chỉ làm những công việc trong nhà bếp, hầu hạ đại chúng, chẳng hề lên chánh điện công phu. Họ làm như vậy để làm gì? Để biểu tướng cho đại chúng biết, tu hành chẳng phải là tu nơi cái tướng giả tạo của mình, mà phải từ tâm khởi tu, phải biết phát hiện lỗi lầm của mình mà tu chỉnh nó lại cho đúng với lý đạo. Người tu hành như vậy, lại biết kết hợp với việc niệm Phật vãng sanh, ắt sẽ được toại nguyện theo đúng như lời nguyện “Mười Niệm Vãng Sanh” của Đức Phật A Di Đà.

Lúc gặp Phật vãng sanh Cực Lạc chính là lúc thật sự gặt hái công lao, kết quả của việc tu hành. Nếu đời này chúng ta không được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì những chuyện lành mà mình đã làm được sớm muộn gì cũng đều bị chuyển biến thành phước báo hữu lậu, sau khi thọ hưởng hết sạch phước báu thì ác báo sẽ hiện ra mà phải bị đọa vào trong tam ác đạo. Do vậy, Phật bảo phước báo trời người là “tam thế oán;” đời này làm phước, đời sau hưởng phước, rồi đời sau nữa phải bị đọa vào trong tam ác đạo. Chúng ta nghĩ đến đây thì phải biết sợ mà mau mau nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ, chẳng nên dấy khởi lên bất cứ ý tưởng nào khác ngoài ý niệm tưởng nhớ đến Tây Phương Cực Lạc A Di Đà Phật, thì tâm mình mới có thể tương ứng với lời nguyện “Vui như Tỳ-kheo dứt sạch các lậu” và nguyện “Không tham thân, chấp ngã” của A Di Đà Phật.

none

    « Xem chương trước «      « Sách này có 1411 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.239.214.173 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Ngọc Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Thiện Diệu Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Văn Minh Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Thiền Khách Rộng Mở Tâm Hồn nước Rộng Mở Tâm Hồn Bui Tuyet Lan Rộng Mở Tâm Hồn Xuân Thôn Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Độ Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn Pháp Tâm Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Yduongvan Rộng Mở Tâm Hồn Trí Tuệ Từ Bi Rộng Mở Tâm Hồn Tiến Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Hoat Khong ... ...

Hoa Kỳ (410 lượt xem) - Việt Nam (123 lượt xem) - French Southern Territories (5 lượt xem) - Senegal (3 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Philippines (2 lượt xem) - Uzbekistan (1 lượt xem) - Kenya (1 lượt xem) - Anh quốc (1 lượt xem) - Hà Lan (1 lượt xem) - Mauritius (1 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - Algeria (1 lượt xem) - ... ...