Cuộc sống là một sự liên kết nhiệm mầu mà chúng ta không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự khi chưa nhận ra mối liên kết ấy.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Hạnh phúc là khi những gì bạn suy nghĩ, nói ra và thực hiện đều hòa hợp với nhau. (Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.)Mahatma Gandhi

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Học Phật trong mùa đại dịch »» Xem đối chiếu Anh Việt: Học, Hiểu và Hành PHẨM PHỔ MÔN - Phần 6 »»

Học Phật trong mùa đại dịch
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Học, Hiểu và Hành PHẨM PHỔ MÔN - Phần 6

(Lượt xem: 2.700)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Font chữ:
Font chữ:

Học, Hiểu và Hành PHẨM PHỔ MÔN - Phần 6

4 . Tìm Hiểu Nghĩa Ẩn Dụ :

Sau khi tìm hiểu và phân tích toàn bộ nội dung Phẩm Phổ Môn, y cứ theo lời Kinh, nghĩa là thông qua những gì được đọc, được hiểu qua lời lẽ hiện bày, theo nghĩa đen, hay nói một cách khác, Sự được trình bày như thế nào thì cũng được nhận ra như thế đó. Tiếp đến nơi bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu nghĩa ẩn dụ hay biểu trưng, biểu tượng và cũng là bàn đến phần Lý của Phẩm Phổ Môn.

Nhắc lại những điều đọc thấy nơi Phẩm Phổ Môn, phần hiểu theo nghĩa đen là những hiện tượng vật lý như Nước, Lửa, Gió, cùng các nạn tai như Đao gậy, Quỷ dữ, Gông cùm, Giặc cướp. Tổng cộng là 7 nạn chính, thường được nêu ra khi bàn về Phẩm Phổ Môn, nhưng vẫn còn các nạn khác được miêu tả nơi phần Kệ, đó là những nạn như bị rơi từ núi cao, bị trù ếm thuốc độc, gặp thú dữ, rắn độc, kiện tụng ra tòa án, tranh đấu nơi chiến trường…Đọc bốn câu Kệ:

Chúng sanh bị khổn ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Cứu đời thoát các khổ.

Chúng ta nhận ra rằng những cái khổ hay nạn được nêu ra chỉ là một số nhỏ, xem như là tượng trưng, chẳng đáng kể bởi vì chúng sinh có «vô lượng khổ bức thân. »

Khi Kinh nói đến các nạn hay khổ thì đúng là các nạn, các khổ mà mắt con người có thấy, tai con người có nghe, thân con người có xúc chạm, tâm con người có sợ hãi, không thể nói là không có được. Thí dụ như Phẩm Kinh nói đến nạn lửa tất nhiên là có lửa nóng, đốt cháy, nói đến nạn nước là có nước chảy xiết, chảy mạnh làm cuốn trôi hay sấm sét nổ, mưa tuôn xối xả, nói đến nạn gió là phải gió mạnh, như bão táp, thổi trôi cả ghe thuyền, nói đến kẻ ác rượt đuổi theo là có kẻ cầm dao muốn sát hại, nói đến gặp quỷ dữ là có quỉ dữ muốn hại, nói bị gông cùm là có xiềng xích thật sự trói buộc tay chân, nói đến giặc cướp là có bọn cướp chận đường, nói rớt từ đỉnh núi cao xuống là có người xô rượt, ngã xuống, nói đến bị hành hình thì có đao gậy chém đầu, nói đến thuốc độc thì có thuốc độc của kẻ muốn hại mình, nói đến thú dữ thì có thú dữ vây quanh, nhe nanh vút dọa dẫm….

Đọc những lời lẽ như vậy thì chúng ta biết các tai nạn được miêu tả rõ ràng và cũng rõ ràng kèm theo là có sự cứu độ khi niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

Tin theo lời kinh hoàn toàn như vậy là chúng ta y vào nghĩa đen. Chúng ta cần cố gắng tìm hiểu sâu xa hơn đằng sau nghĩa đen đó có chứa đựng nghĩa gì khác, ám chỉ gì khác để không mắc vào lỗi thiếu sót, hiểu sai lời Phật dạy.

Vậy thì sau cái nghĩa đen của các nạn được nêu ra, cần hiểu thêm nghĩa ẩn dụ, biểu tượng hay biểu trưng như sau :

A.

Lửa vật lý được miêu tả nên hiểu thêm là đó Lửa của Phiền Não Tham Sân Si. Lửa của lòng sân hận, lòng tham đắm dục lạc và trí thì mê mờ, ngu si, thiếu hiểu biết. Ba thứ phiền não này ngày đêm thiêu đốt tâm tư con người như Lửa vậy thì chắc chắn phải ảnh hưởng đến cái thân vật lý, sinh lý, làm cho nóng nảy, bực bội, khổ sở, thân thể yếu mòn, sức khoẻ suy giảm…

Lửa Phiền Não khởi lên sẽ ngăn chận các Duyên Lành, không tạo được thiện nghiệp, không có Phước Đức, không có Công Đức, chỉ thúc đẩy tạo ác nghiệp, tà nghiệp qua Thân Khẩu Ý và chịu hậu quả của các nghiệp xấu ác nầy. Rốt cuộc tự rước vào mình những tai họa thật có của Lửa vật lý.

B.

Nước hay Gió cũng ám chỉ Tam Độc Tham Sân Si, vì các thứ này cuốn trôi, nhận chìm con người, nghĩa là làm cho mất thăng bằng, mất bình tĩnh, tâm tư dao động và cũng kéo theo hành động sai trái, đành chịu hậu quả của các nghiệp sai trái đã tạo. Cũng như Lửa đốt cháy, Nước hay Gió của Tham Sân Si cuốn trôi, thổi bay, cản trở sự phát khởi các Duyên Lành, tạo Phước Đức, Công Đức. Con người dễ dàng rước vào mình những tai họa của nước, của gió từ bên ngoài, thuộc phần vật lý.

Phiền não đốt cháy, cuốn trôi, nhận chìm con người không khác gì các nạn Nước, Lửa và Gió vậy.

Đó là nghĩa ẩn dụ cần phải hiểu khi Kinh nói gặp các nạn nước cuốn trôi, lửa thiêu đốt hay gió thổi bay thì chính là các phiền não Tham Sân Si đang thiêu đốt, cuốn trôi, thổi bay Duyên Lành, Phước Đức và Công Đức của chúng ta.

Tiếp đến, các nạn khác như Đao gậy, Gông cùm, Giặc cướp, Quỉ dữ cũng đều xuất phát từ Tam Độc, chúng hoành hành tâm tư con người, gây khổ sở, bất an, khiếp sợ y như bị đao gậy đánh đập, gông xiềng trói buộc, giặc cướp lấy của cải, quỉ dữ đe dọa tánh mạng, thú dữ vây quanh, phải liều mình, liều mạng xông pha nơi chiến trường, bị ra tòa kiện tụng, đi dưới bão dông, sóng to gió lớn, rơi từ đỉnh cao...

Trong đời thường chúng ta từng nghe những câu diễn tả nỗi khổ đau tận cùng mà cái Tâm phải lãnh chịu như « Khổ quá chịu hết nổi, tức đến ứ họng, ứ hơi, cái đầu muốn nổ tung, sốt ruột quá, bủn rủn tay chân, đứng không vững nữa, nằm ngồi cũng không yên, đau như cắt ruột, thắt gan, như bị đâm một nhát dao, nghẹn lời, mất tiếng, hết nói năng, tim muốn ngừng đập, ngừng thở, máu muốn trào, nổi khùng, phát điên … » Tất cả chứng minh rằng Tham Sân Si trực tiếp tác động lên Thân và Tâm của con người không khác gì gặp phải các nạn, đang xảy ra, thật có bên ngoài vậy. Cả Thân lẫn Tâm đều chịu ảnh hưởng khi Tham Sân Si lộng hành.

Dưới sự tấn công của Tham Sân Si, nghiệp ác của quá khứ cũng ào tới, con người không làm chủ được mình nữa, mất Chánh Niệm, không có Chánh Kiến, Thân Khẩu Ý loạn động, đương nhiên đánh mất cơ hội hay Duyên Lành để tạo Phước Đức, Công Đức, như vậy lại càng dễ dàng chiêu cảm tai họa.

Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Phổ Hiền Hạnh, Phật dạy :

Nhất niệm sân tâm khởi Bách vạn chướng môn khai.

Nghĩa là : Một niệm sân nổi lên Trăm vạn cửa chướng đều mở ra.

Và cũng lửa Sân này : “Nhất sân chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn” (Một đốm lửa sân, có thể đốt cháy muôn mẫu rừng công đức).

https://langnghiem.com/vi/kinh-hoa-nghiem-pham-3/

Ngài Shantideva ( Tịch Thiên ) viết trong quyển Cách sống của Bồ-Tát (The Bodhisattva’s Way of Life) , đoạn kệ đầu tiên trong chương “Nhẫn” rằng:

Dẫu có bao công đức
Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí
Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống
Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả".

Trích https://giacngo.vn/dung-de-lua-san-dot-het-rung-cong-duc-post61756.html

Chúng ta nhận ra các ngọn lửa của Tam Độc Tham Sân Si còn độc hại hơn cả các thứ lửa vật lý, vì cái thân vật lý có thể bị thiêu hủy nhưng khi có điều kiện, đủ duyên thì cái thân cũng có thể hiện hữu trở lại nhưng công đức mất rồi thì không dễ gì gầy dựng trở lại.

Hiểu thêm nghĩa ẩn dụ đằng sau các tai họa được miêu tả theo nghĩa đen là nhận ra cái Nhân gây tai họa không gì khác hơn là Tam Độc Tham Sân Si. Như vậy sẽ giúp chúng ta khẩn thiết chú tâm vào việc làm chủ Tam Độc này, không để chúng lộng hành.

Kinh dạy Trì Niệm danh hiệu Bồ Tát, đây chính là phương pháp hay pháp môn cần tu tập, cần hành trì. Vừa nương vào Tha Lực, vừa có Tự Lực ra sức, chịu khó công phu thì hóa giải các họa tai ắt không khó. Trì Niệm danh hiệu giúp Tâm định tĩnh, sáng suốt, vừa có Chánh Định, Chánh Niệm, Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, không dao động vì vọng tưởng, suy nghĩ sai quấy, sợ hãi được đẩy lùi, làm chủ Thân Khẩu Ý nên có Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Khi chịu khó, ra công sức như vậy là có Chánh Tinh Tấn. Trì Niệm danh hiệu Bồ Tát chẳng khác nào hành giả đang tu tập con đường Bát Chánh vậy.

C.

Nghĩa ẩn dụ nơi hai điều mong cầu sinh con trai, con gái chính là lòng mong cầu Trí Tuệ và Đức Hạnh, cũng là Giới Đức. Sau khi đã định tâm, an trú vào Thiền Định, Chánh Định, nhờ vào Trì Niệm danh hiệu Bồ Tát, hành giả sẽ hướng đến mong cầu Trí Tuệ được khai mở và Đức Hạnh, Giới Đức cũng vẹn toàn. Tham Sân Si được chế ngự, đẩy lùi, không não hại tâm tư thì tất nhiên có Đức Hạnh, có Giới Đức vì Thân Khẩu Ý được kiểm soát, chế ngự, không tạo nghiệp ác, xấu, sai quấy. Như vậy người Trì Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm đang thực hành trọn vẹn con đường tu tập Giới Định Tuệ.

D.

Nghĩa ẩn dụ qua 32 Ứng Thân để thuyết pháp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Con số 32 chỉ là một con số biểu trưng, chúng sinh có bao nhiêu hình tướng, là Bồ Tát có thể ứng theo thứ thân hình đó để thuyết pháp, độ cho được giải thoát qua từng chặng Khai Thị Ngộ Nhập Tri Kiến Phật. Tuy nói là Ứng Thân nhưng thật sự chính là Cảm Ứng nơi tiếng gọi, âm thanh phát từ Tâm, Ý của chúng sinh mà Bồ Tát quán sát ngay từ khi nghe được âm thanh kêu cứu và theo Tâm, Ý này của chúng sinh mà Bồ Tát kết nối với chúng sinh, hiển hiện trong Tâm của chúng sinh, hiểu rõ ngọn nguồn, niềm đau nỗi khổ, mong cầu gì, khao khát gì, trình độ hiểu biết tới đâu, có thể thâu nhận Giáo Pháp tới mức độ nào, có những chướng ngại gì, họa phước như thế nào, với Trí Tuệ của Bồ Tát, một vị Phật trong quá khứ, Ngài có thể thấy xuyên qua Ba Đời của đối tượng đang tìm đến Ngài. Tâm hay Ý của chúng sinh thì Vô Tận, cũng như Bồ Tát Vô Tận Ý luôn thưa hỏi, tương tợ như vậy, Trí Tuệ của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không có chỗ dừng lại, không bị ngăn ngại, ngăn che, thấy và quán sát chúng sinh qua Tâm và cũng có thể Ứng Hiện nơi Tâm, không cần phải Ứng Hiện qua Sắc Thân.

Từ ý tưởng này, Bồ Tát không chỉ Ứng Hiện qua Sắc Thân mà có thể Ứng Hiện nơi Tâm chúng sinh, chúng ta có thể hiểu thêm về danh hiệu Quán Thế Âm là không chỉ lắng nghe âm thanh được thốt ra từ nơi miệng, nơi cổ họng mà dùng Tâm để nghe âm thanh của làn sóng Tâm rung động nơi chúng sinh, Tâm đó có Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Dục, Lạc, Thiện, Ác…có đủ Mười Triền, các tâm lý trói buộc, Mười Kiết Sử, các tâm lý nó sai khiến, dẫn dắt chúng sinh thấy sai, nghĩ sai, hành động sai như thế nào, Bồ Tát đều « bắt » được, tiếp nhận được các làn sóng điện từ nơi Tâm khởi lên của mỗi chúng sinh, quán sát luồng điện Tâm này và cứu độ tùy tình huống, tùy hoàn cảnh, tùy căn cơ, trình độ, không ai giống ai.

Sự tiếp tay của Bồ Tát để cứu chúng sinh là không thể nghĩ bàn với trí óc hạn hẹp và qua ngôn ngữ thô thiển của phàm phu. Nhưng cũng phải từ hình ảnh, âm thanh, ngôn ngữ giới hạn này mà từ đó bước sang ý nghĩa sâu xa, ẩn chứa đằng sau. Và cái gì ẩn chứa đằng sau những âm thanh, những hình ảnh ? Là không gì ngoài Tâm của chúng ta cả. Tiếng nói của Tâm thì cứ vang lên như chẳng bao giờ biết ngừng, như một dòng sông mà nước cuồn cuộn trôi chảy, chảy từ kiếp này sang kiếp khác, từ cõi này đến cõi khác. Những hình tướng, hình ảnh cũng thế, từ Tâm hiện ra, mất đi rồi hiện ra, tiếp nối nhau, khi là Thánh, khi là phàm, khi là súc sinh khi là ngạ quỉ, khi có tướng đẹp, khi có tướng xấu, khi hiền lành, khi dữ tợn…Từ Tâm mà tạo công đức, tìm về con đường giải thoát và cũng từ Tâm mà tạo vô lượng tội, tự đọa đày mình để trôi lăn vào luân hồi sinh tử.

Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu, Đức Phật dạy :

« Tâm dẫn đầu mọi Pháp. Tâm chủ tâm tạo tác »

Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm thứ 20, Dạ Ma cung kệ tán, Đức Phật cũng không nói khác :

Tâm như nhà họa sư
Hay vẽ những thế gian
Ngũ Uẩn từ tâm sanh
Không pháp gì chẳng tạo.


Nếu người muốn rõ biết
Tất cả Phật ba đời
Phải quán pháp giới tánh
Tất cả duy Tâm tạo.

Như vậy để chúng ta hiểu thêm các thứ âm thanh vang lên hay các thứ thân hình hiện ra đều phát xuất từ nơi gốc Tâm của chúng ta cả. Trở về quán sát Tâm, Ý, tiếng nói, âm thanh và cả hình ảnh tự nơi cõi lòng, tâm tưởng của chúng ta chính là Quán Thế Âm.

E.

Nghĩa ẩn dụ sau hai chữ Phổ Môn.

Phổ Môn mà chúng ta đã định nghĩa từ đầu bài học là cánh cửa mở rộng ra Pháp Giới, từ phàm đến Thánh đều có liên hệ chặt chẽ với nhau, nương vào nhau, chúng sinh thấy được những gì trói buộc mình trong luân hồi sinh tử nhưng đồng thời cũng thấy được con đường giải thoát, thấy được các nguyên lý Vô Thường, Duyên Sinh, Vô Ngã, tuy đắm chìm trong màn Vô Minh nhưng cũng có mặt trời của Trí Tuệ chiếu rọi, xé tan màn Vô Minh. Theo tinh thần của Kinh Pháp Hoa, chúng sinh từ cái tri kiến của phàm nhân tuy có Ác, có Tà nhưng cũng có Thiện, có Chánh, có Vọng mà cũng có Chân và một khi đã bước qua cánh cửa Phổ Môn mang tên là Quán Thế Âm Bồ Tát thì đã được Khai Thị Ngộ Nhập Tri Kiến Phật có nghĩa là chứng đạt được Phật Tánh sẳn có nơi chính mình. Cánh cửa Phổ Môn mở ra cho chúng ta Trở Về với chính chúng ta, không còn lang thang sáu nẻo luân hồi khổ đau nữa. Trở Về với bản tánh thanh tịnh, Phật Tánh đó thì chúng sinh có thể dạo đi khắp cõi Ta Bà hay Pháp Giới cũng như Bồ Tát Quán Thế Âm, hoàn toàn Tự Tại Vô Ngại. Tự Tại Vô Ngại vì đã thực chứng Vô Ngã.

Phổ Môn cũng có thể hiểu là Pháp Môn phổ cập, thênh thang, cùng khắp, nhà nhà, nơi nơi, ai ai cũng có thể thực hành Pháp môn này, không giới hạn trong không gian, thời gian. Pháp Môn hay là phương pháp, phương tiện tu tập là Trì Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm để từ Vọng tâm chuyển sang Chân tâm, từ Tri Kiến phàm phu chuyển qua Tri Kiến Phật.

Phổ Môn cũng là môi trường Hành Đạo, Hóa Độ của Bồ Tát Quán Thế Âm, từ cõi người lên cõi trời, từ căn cơ thấp kém, hạ liệt lên đến bậc Thánh, bậc thượng căn, không giới hạn, không gì ngăn ngại.

5. Đúc Kết.

Sau khi đã tìm hiểu nghĩa đen cũng như các nghĩa ẩn dụ hàm chứa trong Phẩm Phổ Môn, chúng ta cố gắng trình bày một Đúc Kết dung hòa Sự, Lý và vẫn không xa rời tinh thần của Kinh Pháp Hoa đồng thời nêu ra những điểm chính yếu cần ghi nhớ về sự Học, Hiểu và Hành Phẩm Phổ Môn.

Nhưng chúng ta vẫn còn một khúc mắc cần làm sáng tỏ. Thông thường có hai quan điểm đối nghịch, hai cách hiểu khác nhau, có người cho rằng Phật dạy Phẩm Phổ Môn là dạy một phương pháp tu tập, không có một vị Bồ Tát nào núp bóng đằng sau danh hiệu Quán Thế Âm được trì niệm. Phương pháp tu tập này vì được nhân cách hóa nên có hai chữ Bồ Tát kèm theo danh hiệu Quán Thế Âm. Thật ra không có Bồ Tát nào nghe âm thanh của thế gian hay tiếng kêu cứu của chúng sinh. Chúng sinh phải tự mình nghe mình, tự quán sát âm thanh vang lên tự thâm Tâm của mình. Nghe rồi, quán sát rồi, nhận ra tiếng nói lao xao, gây bất an, gây sợ hãi, vọng động của Tâm mình, nhận biết đó là vọng tưởng, là chấp nhất, chấp Ngã, chấp Nhân, đủ loại Kiến Chấp, được tính ra có đến 62 loại Kiến Chấp, nhận biết Tâm mình bị điều động, trói buộc bởi Tam Độc Tham Sân Si, nhận ra tiếng nói của Tâm Thức mình, như một dòng nghiệp cảm, nghiệp lực, trùng trùng duyên khởi, một chuỗi dài sinh diệt, diệt sinh, bất tận, để từ đó sinh nhàm chán, xả ly, hướng đến chuyển hóa tự thân, từ Tri Kiến phàm phu, Tri Kiến Thế Gian, hướng đến Tri Kiến Xuất Thế Gian, Tri Kiến Phật vì không còn cách nào khác hơn nếu muốn tự cứu mình, muốn chấm dứt mọi khổ đau.

Quan điểm này muốn đánh bạt lòng tin dễ duôi, dựa vào Thần Linh, vào Tha Lực, rơi vào Tín Ngưỡng có thể đưa đến cuồng tín, đánh mất sức mạnh của chính mình, hoàn toàn không đúng với lời Phật dạy : « Các con phải tự mình nổ lực, Như Lai chỉ là đạo sư. » ( Kinh Pháp Cú, câu 276) Hoặc : « Hãy tự xem con là hòn đảo của con. Hãy tự xem con là nương tựa của con, Không nên tìm nương tựa nơi ai khác » ( Trường A Hàm, Kinh Đại Bát Niết Bàn, trích Đức Phật và Phật Pháp. Narada Thera )

Nhưng y theo lời Kinh diễn tả, hoàn toàn theo nghĩa đen thì có quan điểm tin chắc thật là có một vị Bồ Tát tên là Quán Thế Âm. Vị Bồ Tát này nghe được lời cầu cứu của chúng sinh, quán sát và giải cứu. Vị bồ Tát này có thể ứng hiện nhiều thân hình nên hình tượng thờ phụng Ngài cũng rất khác biệt từ địa phương này sang địa phương khác, từ thời đại này sang thời đại khác, tuy vậy, hình tượng Bồ Tát dưới dạng người Nữ, tay cầm tịnh bình, nhành dương liễu vẫn là hình tượng phổ thông nhất. Hình ảnh này phát xuất từ sự ứng hiện của Bồ Tát mà có nhiều người đã được thấy hiện ra trước mắt, trên hư không, ngoài biển khơi, nơi đỉnh núi, hoặc chỉ trong giấc mộng…Cũng như những mong cầu, đa số đều được toại nguyện nên các nơi có thờ phụng Bồ Tát Quán Thế Âm không bao giờ thiếu vắng người đến lễ bái, cúng dường. Tuy không được liệt kê, ghi chép có hệ thống, có bằng chứng cụ thể nhưng truyền miệng thì không thiếu, trải qua nhiều thế kỷ, lòng tin, sự sùng bái cũng như sự linh nghiệm không hề thuyên giảm, chứng minh Bồ Tát Quán Thế Âm thật sự hiện hữu tuy thật sự hiện hữu chỉ với một số người, không phải với tất cả mọi người.

Vậy phật tử Đạo Tràng chúng ta phải hiểu theo quan điểm nào cho đúng lời Phật dạy ?

Nếu chọn quan điểm Đức Phật chỉ muốn dạy một Pháp Hành để giúp chúng sinh chuyển khổ đau thành an lạc, chuyển mê thành ngộ. Lắng nghe âm thanh tự Tâm sanh diệt hay Vọng Tâm mà chuyển đến Chân Tâm, bất sanh bất diệt. Chân Tâm cũng là Tự Tánh thanh tịnh, là Phật Tánh. Đúng như vậy, đây là mục đích duy nhất mà Đức Phật muốn hướng đến khi nói Kinh Pháp Hoa là giúp chúng sinh Khai Thị Ngộ Nhập Tri Kiến Phật, là giúp chúng sinh nhận ra Phật Tánh sẳn có, ai ai cũng có thể thành Phật như Ngài, không khác.

Vậy, nếu chúng ta chọn quan điểm này, không tin vào sự hiện hữu của Bồ Tát Quán Thế Âm, danh hiệu chỉ là một phương tiện chỉ bày một Pháp Hành mà chúng ta cần hiểu rõ nghĩa lý sâu xa để noi theo, áp dụng, điều này hoàn toàn đúng, không thể nói khác.

Tiếp đến, quan điểm tin chắc có một vị Bồ Tát tên là Quán Thế Âm, vị này nghe tiếng kêu cứu của chúng sinh là Ứng Hiện ngay và giải cứu tai họa cũng như ban bố cho sự không sợ hãi, làm thỏa mãn những mong cầu, nhưng Bồ Tát không dừng lại ở đó, Ngài còn thuyết pháp độ cho chúng sinh hoàn toàn thoát cái khổ của Tam Đồ, Lục Đạo, dẫn dắt từ Pháp Hữu Vi chuyển sang Pháp Vô Vi. Rốt ráo là thể nhập Phật Tánh theo tinh thần của Kinh Pháp Hoa.

Xét cả hai quan điểm tuy khác nhau về Tín Tâm. Nhưng Mục tiêu, cứu cánh là hoàn toàn giống nhau. Cả hai đều hướng đến sự giải thoát rốt ráo là thể nhập Phật Tánh.

Tin hay không tin có một Bồ Tát mang danh hiệu là Quán Thế Âm, bất kỳ chọn quan điểm nào, chúng ta đều có cùng một niềm tin : Ai cũng có Phật Tánh, ai cũng có thể thành Phật.

Đây là điểm chung cho bất kỳ ai học Kinh Pháp Hoa hay Phẩm Phổ Môn nói riêng.

Một điểm chung khác nữa là tin hay không tin có Bồ Tát Quán Thế Âm, vẫn phải thực hành Pháp niệm danh hiệu Bồ Tát.

Một bên niệm danh hiệu Quán Thế Âm để tự mình thắng lướt họa tai, làm chủ Tâm mình, không chạy theo vọng tưởng, vọng tâm, Tham Sân Si, không tạo nghiệp bất thiện qua Thân Khẩu Ý, buông bỏ Ngã Chấp, Kiến Chấp, nhàm chán sinh tử luân hồi, dần dà tu tập từ Tri Kiến phàm phu, Tri Kiến Thế Gian chuyển qua Tri Kiến Xuất Thế gian, Tri Kiến Phật.

Một bên niệm danh hiệu Quán Thế Âm là nương tựa vào vị Bồ Tát mang danh hiệu Quán Thế Âm để nhờ vào thần lực, oai đức của Ngài che chở, giải cứu họa tai, giúp toại nguyện những mong cầu, ban cho sự không sợ hãi, nhờ thế có tự tin hơn, và do được chỉ dạy Đảnh Lễ Cúng Dường đúng pháp thì sẽ tạo được công đức, tích trữ tư lương cho các kiếp còn phải tái sinh luân hồi, nhưng nhờ đã kết Duyên Lành với Bồ Tát, Bồ Tát sẽ tiếp tục dẫn dắt, chỉ dạy, thuyết pháp cho đến khi Trí Tuệ được khai mở, và rồi cũng từ Tri Kiến phàm phu, Tri Kiến Thế Gian chuyển sang Tri Kiến Xuất Thế Gian, Tri Kiến Phật.

Như vậy, tin hay không tin có sự hiện hữu của một vị Bồ Tát mang danh hiệu là Quán Thế Âm, hành giả của hai quan điểm tuy khác nhau, nhưng đồng chuyên trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm, đồng vươn tới một mục đích là Tri Kiến Phật.

Lại thêm một điểm chung rất quan trọng nữa là tin có Bồ Tát hay không có Bồ Tát, hành giả niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Âm đều noi theo Pháp Quán của Bồ Tát mà như Kinh dạy « Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng » đó là Năm pháp : Chân Quán, Thanh Tịnh Quán, Trí Huệ Quán, Bi Quán và Từ Quán. Cũng như biết được giá trị cao quí, cao cả của tiếng niệm danh hiệu Bồ Tát, không phải là tiếng niệm tầm thường mà là Diệu Âm, Quán Thế Âm, Phạm Âm, Hải Triều Âm. Ý nghĩa của năm Pháp Quán và bốn thứ Âm Thanh chúng ta đều đã được học qua bài trước, xin ôn lại ở đây :

https://quangduc.com/a75694/ky-11-hoc-hieu-va-hanh-pham-pho-mon-tiep-theo-ky-4-

Cho dù theo quan điểm nào, chỉ dựa vào Tự Lực hay vừa có Tha Lực và Tự Lực cùng ra sức, đều phải áp dụng các Pháp Quán đúng nghĩa, cùng ý thức tiếng niệm danh hiệu là hơn hết tiếng của thế gian, ra sức tu tập cũng chỉ mong cầu đạt một mục đích là nhập Tri Kiến Phật hay Phật Tánh.

Xét như vậy thì không có quan điểm nào sai hay chướng ngại nhau, mọi lựa chọn đều tùy thuộc vào căn cơ của mỗi người.

Phân tích thêm, chúng ta nhận ra rằng niệm danh hiệu Bồ Tát với Tín Tâm, tin rằng có một vị Bồ Tát mang tên là Quán Thế Âm đến bên ta để giúp chúng ta trong cơn hoạn nạn khổ đau, do cảm kích tấm lòng Từ Bi của vị Bồ Tát này đối với chúng ta mà rồi chúng ta cũng sẽ phát nguyện noi theo hạnh Từ Bi của Ngài để hướng về giúp đỡ những ai cũng đang lâm vào cảnh hoạn nạn khổ đau như chính mình. Tương tợ như khi nhớ nghĩ đến sự che chở của Mẹ mình đối với bản thân mình và rồi tự mình cũng thấy cần che chở lại cho đứa con của mình vậy.

Nơi Kinh Từ Bi, Đức Phật dạy :

Như Mẹ hiền thương yêu con một
Dám hi sinh bảo vệ cho con
Với muôn loài ân cần không khác
Lòng ái từ như biển như non.

Nếu không có ai trải lòng Từ Bi, không một vị Bồ Tát nào hiện ra nơi đời để dẫn dắt chúng sinh như Mẹ hiền thương con, ắt chúng sinh không hi vọng có ngày thoát khổ. Theo Kinh dạy thì Bồ Tát không chỉ cứu những khổ nạn thường tình mà thôi, Ngài còn Ứng Hiện thân hình để thuyết pháp độ thoát rốt ráo, đây mới thật sự là Hạnh Nguyện Độ Sinh của Bồ Tát. Hạnh Nguyện cứu chúng sinh thoát khổ của tái sinh luân hồi, chìm đắm trong vô minh, luôn đi đôi với Hạnh Từ Bi. Bồ Tát giúp chúng sinh mở mang Trí Tuệ đồng thời khuyến khích chúng sinh phát khởi tâm Từ Bi, cả hai cùng song hành mới có thể hướng đến Phật Tri Kiến được.

Nương vào Bồ Tát là chúng sinh trở thành quyến thuộc của Bồ Tát, sẽ phát nguyện trở thành Bồ Tát, cùng theo con đường tu tập của Bồ Tát. Mà nói đến Bồ Tát là nhất định nói đến tâm Đại Từ Bại Bi trước tiên vì chính qua cái cửa Khổ mà Bồ Tát đến với chúng sinh. Cái Khổ của chúng sinh làm động lòng Bồ Tát, không thể nào Tự Giác mà không Giác Tha được.

Tiền thân của đức Phật Thích Ca là một vị Bồ Tát, Đạo Sĩ Sumedha, Ngài đã mở lòng Đại Bi mà suy tư như sau :“Hôm nay, nếu ta từ bỏ ý-nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì chắc chắn ta sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán trong giáo-pháp của Đức- Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới chỉ một mình ta; nhưng còn bao nhiêu chúng-sinh khác vẫn đang chìm đắm trong biển khổ trầm luân, chịu cảnh khổ tử sinh luân- hồi. Ta không đành giải thoát khổ riêng một mình ta.”

Như vậy nói đến Bồ Tát là nói đến Tâm Đại Từ Đại Bi.

Ngay nơi lời dạy mở đầu Phẩm Phổ Môn đã cho chúng ta thấy điều này : « Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát : Thiện nam tử ! nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này, một lòng xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát. »

Và do Bồ Tát Quán Thế Âm còn thuyết pháp độ khổ rốt ráo, giúp cho đạt được Tri Kiến Phật nên Bồ Tát còn là bậc Đại Trí.

Nói đầy đủ về Bồ Tát Quán Thế Âm phải là Bậc Đại Bi và Đại Trí vậy.

Đến đây chúng ta ôn lại những điểm cần nhớ về việc Học, Hiểu và Hành Phẩm Phổ Môn như sau :

- Phẩm Phổ Môn, phẩm thứ 25 trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, bao gồm những lời Phật dạy cho Bồ Tát Vô Tận Ý được hiểu rõ về Bồ Tát Quán Thế Âm, vị này đến với chúng sinh bằng cách nào, cứu độ chúng sinh như thế nào ?

- Phẩm Phổ Môn nêu lên những gì Bồ Tát Quán Thế Âm có thể làm cho chúng sinh, độ cho chúng sinh hết khổ, cái khổ vật lý, sinh lý thuộc cái thân Tứ Đại, Ngũ Uẩn, cũng như cái khổ tâm lý, thuộc phần tinh thần. Nơi cửa Khổ này mà chúng sinh tìm đến Bồ Tát và Bồ Tát kết mối Duyên Lành với chúng sinh từ nơi cửa Khổ này để đưa đến cánh cửa giải thoát có tên gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn.

- Bồ Tát có thể dùng tai nghe tiếng kêu cứu của thế gian và dùng tâm để quán sát và tùy hoàn cảnh mà cứu độ, giải thoát nạn tai, cũng như làm cho hết sợ hãi bất an, khổ thân và cả khổ tâm vì Tam Độc Tham Sân Si bức bách, Bồ Tát còn giúp cho chúng sinh toại nguyện các mong cầu.

- Những con số về các nạn, về các mong cầu, về ứng hiện thân hình chỉ là những con số có tính cách biểu trưng. Các nạn, các khổ, các mong cầu cũng như các hình tướng của chúng sinh thì vô số kể, vô cùng tận, Bồ Tát đều có thể cứu giúp, làm toại nguyện, ứng hiện thân hình tùy theo hoàn cảnh, môi trường, căn cơ, tùy theo khả năng tiếp nhận khác nhau. Bồ Tát thực hiện được những điều như vậy vì đã thể nhập Phật Tánh, từng là một vị Phật quá khứ.

- Bồ Tát cứu cái khổ trước mắt và thuyết pháp cho chúng sinh, đưa đến giải thoát rốt ráo, an lạc, hạnh phúc thật sự vì thoát được cái khổ sinh tử luân hồi, chuyển đổi từ tri Kiến phàm phu, Tri Kiến Thế Gian sang Tri Kiến Xuất Thế Gian, Tri Kiến Phật, đúng như mục đích duy nhất của Đức Phật Thích Ca cũng như hầu hết chư Phật khi nói kinh Pháp Hoa. Đúng như bản hoài của chư Phật nên Phổ Môn là cánh cửa giải thoát chúng sinh, từ Vọng Tâm chuyển sang Chân Tâm, thể nhập vào Phật Tánh. Đúng như kinh dạy ở đoạn cuối : « Sau khi nghe Phẩm Phổ môn này, trong chúng có Tám Vạn Bốn Ngàn chúng sinh đồng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác »

- Pháp Hành được chỉ dạy để chúng sinh nhờ đó mà kết nối với Bồ Tát, cùng đồng hành với Bồ Tát trên con đường cứu khổ, giải nạn và thể nhập Phật Tánh này chính là câu niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Có câu niệm vang lên là có tiếng vọng đáp lại : « Cảm ứng đạo giao nan tư nghì » mắt phàm, trí phàm của chúng ta không dễ gì hiểu thấu hết.

- Bất cứ theo quan điểm nào, tin hay không tin có một Bồ Tát với danh hiệu là Quán Thế Âm, phương pháp hành trì chỉ có một, đó là niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

- Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm mang năng lượng tich cực không khác gì người tu tập Thiền Định. Hành giả được định tâm, đình chỉ tạo nghiệp qua Thân Khẩu Ý, không để Tham Sân Si thao túng, đó là đang giữ Giới, tâm an ổn, hết sợ hãi, có tự tin, trí óc sẽ minh mẫn, sáng suốt, là cơ sở cho Tuệ phát sinh. Hành giả niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm là đang tu tập trọn vẹn Giới Định Tuệ vậy.

- Đức Phật dạy thêm nên Đảnh Lễ và Cúng Dường Bồ tát Quán Thế Âm. Nên hiểu là Đảnh Lễ và Cúng Dường đúng Pháp như được học nơi Kinh Châu Báu. Đảnh Lễ và Cúng Dường mang tấm lòng biết ơn, qui kính Tam Bảo, Hộ Trì Tam Bảo, mong cầu được chỉ dạy, và tinh tấn thực hành Pháp. Đảnh Lễ và Cúng Dường là giúp cho chúng sinh tạo Công Đức. Công Đức là tư lương cho đời này đời sau. Nhờ Công Đức mà các thiện nghiệp có cơ hội trổ quả, giảm thiểu khổ đau, tai nạn và đẩy lùi chướng ngại trong cuộc sống cũng như trên con đường tu tập.

- Người theo quan điểm cho rằng Phẩm Phổ Môn chỉ đưa ra một phương pháp tu tập và chỉ có Tự Lực ra sức, công phu tuy cũng phải niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng đằng sau danh hiệu này không có một Bồ Tát nào cả. Phương pháp tu tập này được nhân cách hóa mà thôi, người này là bậc Thượng căn, đáng được kính trọng.

- Người theo quan điểm cho rằng Phẩm Phổ Môn giới thiệu một vị Bồ Tát mang tên là Quán Thế Âm và chúng sinh có thể nương tựa vào Ngài để giải thoát khổ đau vật lý cũng như tâm lý đồng thời sẽ được dẫn dắt tiếp để giải thoát rốt ráo, thể nhập vào Phật Tánh. Tuy nương vào Tha Lực nhưng không phải là không có Tự Lực. Và Tha Lực này đã thể nhập Phật Tánh, là Vô Ngã, Vô Tướng, Tự Tại Vô Ngại, có Tướng cũng như Vô Tướng, như vậy Tự Lực yếu ớt, nhỏ nhoi, kém phước đức, kém trí tuệ, nương vào Tha Lực này chắc chắn chỉ có lợi lạc mà thôi.

- Có điều cần quan tâm là nương vào Tha Lực nhưng luôn sáng suốt, không để rơi vào cực đoan, trở nên cuồng tín, mong muốn mọi người phải tin theo mình, và có mưu đồ không chính đáng, tìm cách thu nạp tín đồ, tìm danh, tìm lợi…

Chúng ta cẩn thận không để tâm dao động vì cầu mà không toại nguyện, các nạn không được giải cứu, Pháp Hữu Vi thì không có gì tồn tại lâu dài, sướng rồi khổ, khổ rồi sướng, sanh diệt, diệt sanh, như lời Phật dạy : « Hãy nghe đây, này các đệ tử, Như Lai khuyên các con, tất cả Pháp Hữu Vi đều vô thường. Hãy tận lực liên tục chuyên cần. » ( Kinh Di Giáo )

- Điều đáng mừng cho chúng ta là được kết Duyên cùng Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta ra khỏi hẳn con đường sanh diệt khổ đau triền miên này. Chúng ta cũng nên cố gắng tận lực, liên tục chuyên cần niệm danh hiệu Ngài.

- Bồ Tát Quán Thế Âm đến với chúng sinh với tinh thần Vô Ngã, Ngài là Vô Ngã. Ngài không chờ đợi gì ở chúng sinh, tôn thờ hay xem thường Ngài, chẳng « động » gì đến Ngài, vậy chúng ta hãy cố gắng tu tập nương theo tinh thần Vô Ngã này. Có Vô Ngã mới có được Vô Ngại.

- Sau khi hiểu được ý nghĩa cao quí của sự trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng ta không phải chờ khi gặp khổ, gặp nạn, có điều mong cầu mới niệm danh hiệu Ngài. Trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm là một Pháp Môn tu tập mà chúng ta cần tinh tấn, chuyên tâm, chuyên chú hành trì trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất tâm bất loạn, có như thế mới mong đạt được kết quả, đạt mục đích tối thượng mà chư Phật đã nói kinh Pháp Hoa và Phẩm Phổ Môn nói riêng : Tất cả chúng sinh đều có sẳn Phật Tánh và ai ai cũng có thể thành Phật.

- Để kết luận bài học về Phẩm Phổ Môn chúng ta cùng tuyên đọc lại các câu kệ sau đây :

Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Hơn hết tiếng trên đời
Cho nên thường phải niệm.

Niệm niệm chớ sinh nghi
Quán Âm bậc Tịnh Thánh
Nơi khổ não nạn chết
Ngài là nơi nương tựa.

Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông thế gian
Biển phước lớn khôn lường
Thế nên phải Đảnh Lễ.

Đạo Tràng chúng ta tụng đọc và được nghe giảng Phẩm Phổ Môn này trong đợt đầu của Mùa Đại Dịch Covid 19, lúc chưa tìm ra thuốc chích ngừa, con số người mắc bệnh và qua đời mỗi ngày mỗi tăng. May thay Đạo Tràng chúng ta vẫn yên ổn gặp nhau qua mạng lưới internet để tu học. Có thể nói là nỗi bất an, nỗi sợ hãi nơi mỗi chúng ta cũng giảm thiểu rất nhiều nhờ các khóa tụng kinh và nghe giảng.

Tiếp theo Phẩm Phổ Môn, chúng ta sẽ học tiếp Kinh Girimananda, thuộc Tăng Chi Bộ, Kinh tạng Pali thường được đọc tụng ở các xứ Phật Giáo Nam Truyền, cũng được xem như là một bài kinh Cầu An.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm.

Nguyện đem công đức này
Hồi Hướng khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sinh
Đồng trọn thành Phật Đạo.

Nhật Duyệt LKTH

    « Xem chương trước «      « Sách này có 1433 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Học Phật Đúng Pháp


Hương lúa chùa quê - Phần 2: Hồi ký của Hòa thượng Thích Như Điển


Hạnh phúc là điều có thật


Kinh Đại Bát Niết bàn Tập 1

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.16.90 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Ngọc Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Thiện Diệu Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Văn Minh Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Thiền Khách Rộng Mở Tâm Hồn nước Rộng Mở Tâm Hồn Bui Tuyet Lan Rộng Mở Tâm Hồn Xuân Thôn Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Độ Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn Pháp Tâm Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Yduongvan Rộng Mở Tâm Hồn Trí Tuệ Từ Bi Rộng Mở Tâm Hồn Tiến Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Hoat Khong ... ...

Hoa Kỳ (87 lượt xem) - Việt Nam (71 lượt xem) - French Southern Territories (14 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - Algeria (1 lượt xem) - Kenya (1 lượt xem) - ... ...