Victor Chan, người viết chung với ngài Dalai Lama cuốn “The Wisdom of Forgiveness” (Trí tuệ của sự tha thứ), có được cơ hội quý báu trải qua một khoảng thời gian riêng cùng ngài Đạt Lai Lạt Ma. Dưới đây là lá thư ông viết cho các con của mình và kể lại những gì ông học được trong buổi sáng đặc biệt ấy.
Victor Chan, who co-wrote “The Wisdom of Forgiveness” with His Holiness the Dalai Lama, had the precious opportunity to spend some private time with His Holiness the Dalai Lama. Here is a letter he wrote to his children and recounts what he learned that special morning.
Lina và Kira yêu quý,
Bây giờ, các con đã 16 và 19 tuổi rồi, bắt đầu hoạch định cho cuộc sống của chính mình. Thời gian qua là chuỗi ngày dường như vô tận, chúng ta chỉ mải mê ngồi đó và tán gẫu suốt ngày. Cha tiếc thời gian chúng ta hoang phí rong ruỗi ngoài bãi biển và những chuyến đi chơi dài ngày trong lần đi cắm trại ở Westfalia của gia đình mình trong khi các con chỉ ngoan ngoãn làm theo những gì cha bảo.
Dear Lina and Kira,
You are now 16 and 19 years old, starting to plan your own lives. The days seemed endless, we just sat there and chatted all day. I regret the time we wasted on the beach and on long family camping trips in Westfalia while you just obediently did as I told you.
Một câu chuyện cha muốn chia sẻ với các con là về buổi sáng cha có dịp sống với ngài Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một sự trải nghiệm có ý nghĩa sâu sắc của đời cha. Mấy tiếng đồng hồ cùngngài đã cho cha hiểu rõ cách ngài sử dụng thời gian cho riêng mình đằng sau ánh hào quang củangài. Ngài hầu như không nói gì nhiều với cha trong buổi sáng hôm ấy, nhưng những gì ngàilàm đã nói thay ngài rất nhiều và có liên quan đến tất cả chúng ta.
One story I would like to share with you is about the morning I had with His Holiness the Dalai Lama. This was a profoundly meaningful experience for me. The few hours I spent with him gave me a clear understanding of how he spent his time behind the scenes. He hardly said much to me that morning, but what he did spoke volumes and was relevant to all of us.
Do đó, cha quyết định viết thư này chia sẻ với các con.
So I decided to write this letter to share with you.
Thời điểm ấy, khi đang viết bản thảo cho cuốn The Wisdom of Forgiveness (Trí tuệ của sự tha thứ), cuốn sách cha viết chung với ngài Đạt Lai Lạt Ma, ngài mời cha đến cùng ngài trải qua một buổi sáng tại tịnh thất của ngài ở Dharamsala, Ấn Độ. Cha đã từng cùng ngài đi qua bốn châu lục và nhiều lần thực hiện phỏng vấn cùng ngài, nhưng cha chưa bao giờ có được cơ hội vào nơi tịnh thất của riêng ngài. Chỉ một lần thôi, cha không ngại thức dậy vào lúc nửa đêm, với cha, có thể nói như vậy, lúc nửa đêm các con ạ.
At that time, while I was working on the manuscript for The Wisdom of Forgiveness, a book I co-wrote with His Holiness the Dalai Lama, he invited me to spend a morning with him at his residence in Dharamsala, India. I had traveled with him to four continents and conducted many interviews with him, but I had never had the opportunity to enter his private residence. Just once, I don't mind waking up in the middle of the night, for me, you could say, in the middle of the night.
Lúc 3:45 sáng, cha đang ngồi trên một tấm thảm nhỏ đặt trên nền nhà ở trong phòng hành thiền của ngài Đạt Lai Lạt Ma. Không gian nơi đây thật yên tĩnh và kỳ diệu, trang nhã, nhẹ nhàng. Trong phòng, có bài trí một chiếc bàn, một góc dành để ngồi thiền và một khu vực nhỏ để ngồi và dùng bữa. Có nhiều chiếc kệ trưng bày các loại pháp khí bằng đồng đủ các kích cỡ lớn nhỏ và nhiều giá sách đựng các tập kinh viết bằng chữ Tây Tạng. Những tấm rèm dày che cửa sổ buông dài từ trần nhà đến sàn và trong ánh sáng mờ mờ trước lúc rạng đông, cha có thể thấy thấp thoáng ảnh hiện dãy núi Hy mã lạp sơn.
At 3:45 a.m., I was sitting on a small mat on the floor in His Holiness the Dalai Lama's meditation room. The space was quiet and magical, elegant and gentle. In the room, there was a table, a corner for meditation and a small area for sitting and eating. There were many shelves displaying bronze religious objects of all sizes and many bookshelves containing Tibetan scriptures. Thick curtains covered the windows from ceiling to floor and in the dim pre-dawn light, I could see the Himalayas.
Vào thời điểm mà chỉ có những chú chó không chủ ở ngoài đường phố thức dậy, ngài Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng, ngài buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho phần thân mình. Hai tay ngài đưa thẳng lên khỏi đầu, lòng bàn tay tựa vào miếng vải vuông, tạo nên một góc với các ngón tay đang chỉ thẳng lên trần nhà.
At a time when only the homeless dogs on the street were awake, His Holiness the Dalai Lama had started his day by prostrating. From a standing position, he stretched out on the floor, with only a thin cushion spread on the plank large enough for his torso. His arms were raised straight above his head, his palms resting on the square of cloth, forming an angle with his fingers pointing straight up to the ceiling.
Rồi với một động tác điêu luyện, ngài trượt hai tay xuống dần đến đùi để lấy đà chống đỡ, gấp người về vị trí quỳ trên gót chân, rồi đứng thẳng lên. Ngài đặt lòng hai bàn tay lên đỉnh đầu, nhẹ nhàng đưa dần xuống ngực và trượt người nằm dài trên sàn trở lại. Thế rồi ngài tiếp tục quy trình như vậy nhiều lần.
Then, in a practiced motion, he slid his hands down to his thighs to gain support, bent his body back to a kneeling position on his heels, and stood up straight. He placed his palms on the top of his head, gently brought them down to his chest, and slid back down to lie flat on the floor. Then he continued the process many times.
Cha quên đếm một lát, nhưng cha ước chừng ngài lạy theo cách như vậy ít nhất là 30 lần. Ngài Dalai Lama đã lạy như thế hầu như mỗi ngày trong suốt cuộc đời ngài, và nếu có ai đó đếm số lần ngài lạy, cha đoan chắc rằng, phải hơn một ngàn lần lặp đi lặp lại như thế trong suốt hơn bảy chục năm qua.
I lost count for a moment, but I estimated that he prostrated in this manner at least 30 times. The Dalai Lama has done this almost every day of his life, and if someone counted the number of times he has done it, I am sure it would be more than a thousand repetitions over the past seventy years.
Sau khi lạy xong, ngài đến máy đi bộ (máy tập thể dục) đặt ở góc cửa sổ. Ngài treo xâu chuỗi niệm Phật trên một thanh nắm cạnh cái khăn choàng và bắt đầu bước nhanh trên thanh trượt của máy tập đang di chuyển. Hầu như ngay tức khắc, ngài nhắm mắt lại theo điệu nhạc phát ra từ máy và cứ thế, ngài thực hành thiền khi đang tập thể dục. Điệu nhạc dành cho thiền hành có tiết tấu nhanh hơn.
After finishing his prostrations, he went to the treadmill (exercise machine) in the corner of the window. He hung his Buddhist prayer beads on a bar next to his scarf and began walking quickly on the moving treadmill. Almost immediately, he closed his eyes to the music playing on the treadmill and thus practiced meditation while exercising. The music for walking meditation had a faster tempo.
Sau khi tắm, ngài Đạt Lai Lạt Ma đưa cha đi vòng bên ngoài tịnh thất của ngài. Những rặng núi bao quanh vẫn còn chìm trong màn đêm, hầu như mặt trời chưa chạm tới. Những làn khói mỏng cuộn tròn bay lên từ những ống khói ẩn khuất đâu đó từ từ lan nhẹ trong làn sương lạnh. Xa xa dưới thung lũng Kangra, lác đác những tia sáng từ các phố thành Ấn Độ có thể nhìn thấy ẩn hiện từ xa. Còn quá sớm, chim vẫn chưa cất tiếng gọi đàn.
After his bath, the Dalai Lama took me for a walk around the outside of his hermitage. The surrounding mountains were still dark, barely touched by the sun. Thin curls of smoke rose from hidden chimneys, slowly dispersing in the cold mist. Far down in the Kangra Valley, the scattered rays of light from the Indian cities could be seen in the distance. It was too early, the birds had not yet begun to call.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu từ đằng xa, hòa mình vào không gian yên tĩnh, để tất cả các căn của ngài hòa quyện vào sự thanh tịnh đến huyền diệu của môi trường xung quanh. Ngài thật bình an trong hiện tại, không hề dao động mảy may với sự hiện diện của cha bên cạnh. Khi quan sátngài, cha đứng đó trong tĩnh lặng, một tay nhẹ chạm vào rào chắn bằng kim loại sơn màu xanh, sự thanh thoát không bút mực nào có thể tả được đã chạm vào trái tim cha.
His Holiness the Dalai Lama began from a distance, immersing himself in the quiet space, letting all his senses blend into the magical serenity of his surroundings. He was at peace in the present, not the slightest bit shaken by his father's presence beside him. As he watched him, his father stood there in silence, one hand lightly touching the blue-painted metal railing, an indescribable serenity that touched his heart.
Trời lạnh nên ngài và cha không ở lâu bên ngoài tịnh thất. Ngay sau khi trở lại phòng,ngài lập tức ngồi thiền. Ngài ngồi trên tấm tọa cụ trải sau chiếc bàn, có một tấm pa-nô bẵng gỗ gụ nhũ vàng hình tròn đặt phía sau lưng ngài. Ngài gỡ đôi kính ra khỏi mắt, thần thái thanh thoát, hiện thân của sự sống viên mãn nhất, được thể hiện trọn vẹn nơi ngài. Có vết thâm quầng ở dưới mi mắt ngài và những nếp nhăn chạy dài từ hai má đến cằm. Khuôn mặt ngài thật bình thản, nghiêm trang và đầy trí tuệ.
It was cold, so he and his father did not stay long outside the hermitage. As soon as he returned to the room, he immediately sat in meditation. He sat on a cushion spread behind a table, with a circular gilded mahogany panel placed behind him. He took off his glasses, his serene demeanor, the embodiment of the fullest life, was fully expressed in him. There were dark circles under his eyes and wrinkles running from his cheeks to his chin. His face was calm, solemn and full of wisdom.
Khi ngài Đạt Lai Lạt Ma hành thiền, ngài luôn rung lắc thân mình, nhịp nhàng như cái máy. Đôi mắt ngài khép hờ, nhưng cha có thể thấy thỉnh thoảng con ngươi ngài di chuyển nhẹ trong hố mắt. Có những lúc con ngươi đưa lên, cha có thể thấy tròng trắng trong mắt Ngài. Hai bàn tayngài đặt trên đùi, các ngón tay ngài gõ theo một cách nhịp nhàng. Cha cảm thấy không thoải mái, có cảm giác như sự hiện diện của mình đã xâm phạm vào không gian vô cùng riêng tư này.
When the Dalai Lama meditated, he always shook his body rhythmically like a machine. His eyes were half closed, but I could see his pupils moving slightly in their sockets from time to time. Sometimes when they lifted, I could see the whites of his eyes. His two hands were placed on his thighs, his fingers tapping rhythmically. I felt uncomfortable, as if my presence had invaded this extremely private space.
Một điều chắc chắn rằng ngài Dalai Lama đi vào một trạng thái sâu lắng và vô cùng đặc biệt. Sau đó, ngài có chia sẻ với cha rằng, khi hành thiền, tâm ngài không hoàn toàn tĩnh lặng theo cách nói của các thiền sư. Một cách năng động, tâm ngài định hướng những mong muốn, hoạch định ngài sẽ làm trong ngày, ngập tràn với ý niệm làm thế nào để tâm từ bi phát triển sâu rộng hơn. Ngài mong ước đem tâm từ trải đến mọi người và giúp họ vơi đi nỗi khổ bằng bất cứ cách nào ngài có thể. Sự phân tích hợp lý trong lúc này giúp ngài nuôi lớn trí tuệ để thấy rằng, bằng cách trải tâm từ đến người khác, bản thân ngài vẫn có được lợi ích là tâm trở nên an tịnh.
One thing was certain, the Dalai Lama entered a deep and very special state. Later, he shared with me that, when meditating, his mind was not completely calm in the way meditation masters say. Actively, his mind directed his wishes, planning what he would do during the day, filled with the idea of how to develop his compassion further. He wished to extend his loving-kindness to everyone and help them relieve their suffering in any way he could. Rational analysis at this time helped him to grow in wisdom to see that, by extending his loving-kindness to others, he himself also benefited by becoming calm.
Sau 4 tiếng đồng hồ, đã đến lúc cha chào ngài ra về. Ngài nắm chặt tay cha và đưa cha đến một căn phòng nọ. Từ đây, ngài lấy ra một viên đá nhỏ màu xám có khắc một ngôi tu viện Ấn Độ được trang trí bởi cái tháp ở phía trên cùng của một cái bục có hai tầng. Bốn ngọn tháp nhỏ an trí ở bốn hướng. Ngài nói “Tháp ở Bồ-đề đạo tràng đây, riêng dành tặng anh”.
After four hours, it was time for my father to say goodbye. He held my hand tightly and led me to a room. From here, he took out a small gray stone engraved with an Indian monastery decorated with a tower at the top of a two-story platform. Four small towers were placed in the four directions. He said, “This is the tower in Bodh Gaya, specially for you.”
Ngài đưa cha ra cửa thì dường như có một ý tưởng lóe lên trong đầu ngài. Ngài hướng cha đến một cái thùng chứa đầy các vật thể đẹp. Ngài vui mừng reo lên “À đây!”. Ngài cẩn thận lấy ra và trao cho cha một mảnh gỗ gụ có khắc một ông già râu dài đến tận thắt lưng. Đó là biểutượng cho sự hoàn hảo ở một vị thánh Trung Hoa.
As he led my father to the door, an idea seemed to flash in his mind. He directed me to a box filled with beautiful objects. “Ah, here!” he exclaimed happily. He carefully took out and handed me a piece of mahogany wood carved with an old man with a beard reaching down to his waist. It was a symbol of perfection in a Chinese saint.
Ngay lúc đó, Paljior la, thị giả của ngài Đạt Lai Lạt Ma, nhẹ nhàng bước vào phòng. Vị này dâng lên ngài Đạt Lai Lạt Ma một phong bì nhỏ màu đỏ để Ngài trao cho cha. “Một bao lì xì đỏ dành cho anh, theo phong tục của người Trung Hoa. Tạm biệt anh”. Ngài nói trong sự chân tình, ấm áp. Bên trong bao lì xì là một xấp tiền đô-la Mỹ. Cảm giác ngại ngùng lan tỏa khắp khuôn mặt cha. Cha cảm thấy xấu hổ. Quá bất ngờ khi ngài Đạt Lai Lạt Ma cho cha những món quà, kể cả những vật quý giá với lai lịch đặc biệt của chúng. Và biết rằng cha khá eo hẹp, ngài còn cho tiền nữa.
Just then, Paljior la, the Dalai Lama’s attendant, gently entered the room. He offered the Dalai Lama a small red envelope for him to give to me. “A red envelope for you, according to Chinese custom. Goodbye,” he said sincerely and warmly. Inside the envelope was a wad of American dollars. A feeling of embarrassment spread across my face. I felt ashamed. It was so unexpected that the Dalai Lama would give me gifts, including precious objects with special origins. And knowing that I was quite poor, he also gave me money.
Khi cha bước ra khỏi phòng thiền, ngay giây phút ấy, cha chạm phải ánh nhìn vô cùng hoan hỷ của ngài Đạt Lai Lạt Ma. Khuôn mặt ngài rạng ngời. Dường như khi cho cha những món quà ấy, ngài rất hài lòng. Điều này thể hiện trên nét mặt rạng rỡ của ngài. Vài nếp nhăn dọc theo hai gò má ngài dường như căng ra, vầng trán như bớt nhăn đi và bọng nước dưới mi mắt ngài dường như bớt thâm quầng. Tất cả toát lên vẻ bình yên và an lành nơi ngài.
As I walked out of the meditation room, at that moment, I met the Dalai Lama’s extremely happy gaze. His face was radiant. He seemed to be very pleased to give these gifts to his father. It showed in his radiant face. The few wrinkles along his cheeks seemed to have smoothed out, his forehead seemed less wrinkled, and the bags under his eyes seemed less dark. Everything radiated peace and serenity.
Lina và Kira, từ kinh nghiệm cá nhân của mình, các con đã biết ít nhiều về những lợi ích của sự cho đi. Gia đình chúng ta đã từng sống ở Ấn Độ một năm khi Lina lên 7 và Kira lên 9. Các con có lẽ còn nhớ thời gian vài tuần đầu, chúng ta khó khổ như thế nào. Các con đã phải khổ sở với sự khác biệt quá lớn về văn hóa khi phải đối đầu với đói nghèo và khổ sở bao vây. Các con cảm thấy thật khủng khiếp. Rồi các con biết được những học sinh đường phố ở Dharamsala và rất vui khi được chăm sóc các bạn.
Lina and Kira, from your own personal experience, you know something about the benefits of giving. Our family lived in India for a year when Lina was 7 and Kira was 9. You probably remember how difficult those first few weeks were. You struggled with the huge cultural differences and the poverty and misery that surrounded you. You felt terrible. Then you got to know the street children in Dharamsala and were happy to take care of them.
Cha còn nhớ rất rõ hai con đã bò qua những rãnh nước hôi hám dơ dáy để mang thức ăn và nước uống cho các con vật nhỏ. Rồi khi chúng bắt đầu chết vì sự lan tràn của vi rút gây bệnh, các con lại dấn thân vào việc kêu gọi mọi người chung tay để mua thuốc phòng bệnh cứu chúng. Hành vi chăm sóc, đặt lợi ích của người khác lên trên bản thân mình đã khơi dậy và làm cho tinh thần các con phấn chấn đáng kể.
I remember very clearly how you crawled through the dirty, smelly gutters to bring food and water to the little animals. Then, when they started dying from the spread of the virus, you threw yourself into calling on everyone to join hands to buy medicine to save them. This act of caring, putting the interests of others before your own, inspired and uplifted your spirits considerably.
Như tôn giả Tịch Thiên (Shantideva), một vị Thánh người Ấn vào thế kỷ XIX và chủ trương học thuyết của vị này ảnh hưởng sâu sắc đến ngài Đạt Lai Lạt Ma, từng viết rằng: “Tất cả niềm vui mà thế gian này chứa đựng đến từ mong ước người khác có hạnh phúc”. Cũng như ngài Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng “Nếu bạn muốn người khác hạnh phúc, hãy thực hành tâm từ. Nếu bạn muốn bản thân mình hạnh phúc, hãy thực hành tâm từ”.
As Shantideva, a 19th-century Indian saint whose teachings deeply influenced His Holiness the Dalai Lama, once wrote: “All the joy this world contains comes from wishing others to be happy.” As His Holiness the Dalai Lama often says, “If you want others to be happy, practice loving-kindness. If you want to be happy yourself, practice loving-kindness.”
Sau khi rời chỗ ở của ngài Đạt Lai Lạt Ma, cha đến một quán cà phê trong khu chợ ở Dharamsala. Ngồi nhâm nhi ly cà phê sữa ngon lạ, cha hồi tưởng lại những gì mình vừa trải nghiệm trong mấy tiếng đồng hồ qua. Cha thấy cuộc sống hằng ngày của ngài rất đơn giản, thậm chí bình thường. Ngài lạy, đi trên máy đi bộ, đi dạo vòng quanh tịnh thất, hành thiền và biếu quà cho cha. Không có việc nào ra ngoài quỹ đạo của cuộc sống bình thường cả, thật sự là như vậy. Khi nói với các con đây, cha vẫn còn cảm nhận được nguồn an lạc toát ra từ ngài.
After leaving His Holiness the Dalai Lama’s residence, I went to a cafe in the market area in Dharamsala. Sipping a delicious cup of milk coffee, I thought back on what I had experienced in the past few hours. I found his daily life to be very simple, even normal. He bowed, walked on the treadmill, walked around his hermitage, meditated, and gave me gifts. Nothing was out of the ordinary, really. As I speak to you, I can still feel the peace radiating from him.
Cha đã từng gặp ngài, một người biết tự chăm sóc mình, cả về phương diện vật lý cũng như tinh thần. Cha biết công việc thường ngày trong mỗi buổi sáng của ngài cứ như thế, từ năm này sang năm khác, diễn ra một cách nhẹ nhàng. Nó diễn ra một cách có nguyên tắc, kiên trì và tự chủ, thức dậy lúc 3:30, thực hành tâm linh trong mấy tiếng đồng hồ trước khi bắt đầu những công việc đa đoan ở văn phòng. Ngài Đạt Lai Lạt Ma vẫn đều đặn thực hành như thế trong suốt mấy chục năm qua, ngay cả khi ngài đi xa với sự khác biệt múi giờ.
I have met him before, a man who knows how to take care of himself, both physically and mentally. I know his morning routine has been like this, year after year, going smoothly. It is done in a disciplined, consistent and self-controlled manner, waking up at 3:30, doing spiritual practice for a few hours before starting the multi-tasking work at the office. His Holiness the Dalai Lama has been doing this regularly for the past several decades, even when he is away with the time difference.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhiều lần bảo cha rằng, ngài không thích tập thể dục. Thế nhưng, với cái đầu thiên về khoa học, không ngừng cập nhật những ưu điểm mới nhất trong lãnh vực sức khỏe, ngài hiểu rằng thể dục là quan trọng. Ngài ý thức rõ ràng về thời gian, sự tương đối và không phung phí nó. Khả năng của ngài là càng hoàn thiện sứ mạng giúp người càng tốt và tất cả đều phụ thuộc vào sức khỏe của ngài có cho phép hay không.
His Holiness the Dalai Lama has told me many times that he does not like to exercise. However, with a scientific mind, constantly updated with the latest advances in the field of health, he understands that exercise is important. He is clearly aware of time, relativity and does not waste it. His ability to fulfill his mission of helping people as much as possible depends on whether his health allows it or not.
Cha cũng biết rằng ngài không phải là một học trò ngoan khi còn nhỏ. Ngài có tính khí thất thường và bốc đồng. Nguyên tắc tu viện (giới luật) như thiền định và học kinh điển không phải đến với ngài một cách tự nhiên.
I also know that he was not a good student when he was young. He had an erratic and impulsive temperament. Monastic discipline (precepts) such as meditation and studying scriptures did not come naturally to him.
Trong một cuộc nói chuyện trước đây, với ánh mắt xen lẫn một chút tinh nghịch, ngài Đạt Lai Lạt Ma nói với cha rằng, “lúc khoảng lên 7 hay 8 tuổi, tôi không hề ham học. Chỉ thích chơi thôi. Thế nhưng có một điều: đầu óc tôi lúc đó vì còn nhỏ, nên sắc bén lắm, có thể học dễ dàng. Vì lẽ đó mà chủ quan sinh ra lười. Do vậy, mấy vị thầy dạy tôi luôn giữ cái roi bên mình, cái roi màu vàng. Khi trông thấy cái roi màu vàng, cái roi thánh thiện dành cho cậu học trò thánh thiện Đạt Lai Lạt Ma, tôi học. Vì sợ mà học. Ngay cả khi đến tuổi có hiểu biết, khi tôi học, không có sự đau đớn thánh thiện nào”.
In a previous conversation, with a mischievous glint in his eyes, His Holiness the Dalai Lama told his father, “When I was about 7 or 8 years old, I was not interested in studying. I just liked to play. But there was one thing: my mind was still young, so it was very sharp, and I could learn easily. Because of that, subjectivity gave rise to laziness. Therefore, my teachers always kept a whip with them, a yellow whip. When I saw the yellow whip, the holy whip for the holy disciple Dalai Lama, I studied. I studied out of fear. Even when I reached the age of understanding, when I studied, there was no holy pain.”
Mặc dù không mấy ham học khi còn nhỏ, ngài Đạt Lai Lạt Ma đã toàn tâm toàn ý thực hành mỗi buổi sáng. Với sự kiên trì và tự chủ, Ngài đã tập ngồi tĩnh lặng trong thời gian khá lâu. Dần dần, ngài có thể kiểm soát tốt hơn những bản năng sai lầm. Thiền định và học pháp trở thành quan trọng hơn việc chơi; không đáp ứng ngay những gì mình muốn thỏa mãn trở thành điều tất nhiên.
Although he was not very interested in studying as a child, His Holiness the Dalai Lama practiced wholeheartedly every morning. With perseverance and self-control, he practiced sitting quietly for quite a long time. Gradually, he was able to better control his faulty instincts. Meditation and study became more important than play; not responding immediately to what one wanted to satisfy became a matter of course.
Trong một thời gian dài, các nhà tâm lý học tập trung vào phương diện hiểu biết thuộc tri thức và xem đó là yếu tố quan trọng nhất để dự đoán sự thành công trong cuộc sống. Ngày nay, phần đông đều nhất trí rằng chỉ số trí tuệ IQ phần lớn tùy thuộc vào khả năng tự chủ. Những đứa trẻ thông minh nhất không thể luôn luôn y cứ thuần túy vào khả năng của não bộ. Sự thành công lâu dài phụ thuộc vào khả năng tự điều chỉnh, làm giảm đi những bản năng không tốt và tăng cường những gì tốt đẹp cho cuộc sống.
For a long time, psychologists focused on the intellectual aspect of understanding as the most important factor in predicting success in life. Today, most agree that IQ depends largely on self-control. The smartest children cannot always rely purely on brain power. Long-term success depends on the ability to self-regulate, to reduce the negative instincts and to enhance the positive ones in life.
Kira, cha nghĩ con có thể liên hệ đến vấn đề này. Suốt ngày ở trường, con cứ lao đầu vào mớ bài tập, cắm cúi cho đến phút cuối. Điều này nói lên rằng, con có khả năng tự chủ tốt, không đáp ứng ngay những thỏa mãn mang tính bản năng. Cha nghĩ con cảm nhận được khi làm xong trách nhiệm đúng lúc, con đã hoàn thành công việc. Điều này dỡ đi gánh nặng từ đôi vai con và để con rảnh rang làm việc khác, những công việc có lẽ đem lại nhiều niềm vui hơn. Cha rất vui khi con có thể rèn cho mình có thói quen hữu ích này, một việc quan trọng trong đời sống của con.
Kira, I think you can relate to this. All day at school, you threw yourself into your homework, staying focused until the last minute. This suggests that you have good self-control, not responding immediately to instinctive gratification. I think you sense that when you finish your responsibilities on time, you have done your job. This lifts the burden from your shoulders and frees you to do other, perhaps more joyful, things. I am glad that you have been able to develop this useful habit, which is important in your life.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma thường giảng về tầm quan trọng của tự chủ. Ngài tin rằng tự chủ là yếu tố cần thiết trong sự thực hành tâm linh. Nó cho chúng ta phương tiện để thực hành và nuôi lớn những đặc tính cần thiết quyết định cho cuộc sống. Nó cho phép chúng ta thẩm vấn những hành vi của mình và mở đường cho sự sửa đổi ngày càng tốt hơn. Nó ví cái tâm chưa được thuần hóa của chúng ta với con voi nổi loạn chưa được huấn luyện. Nếu có thể dần thuần hóa được nội tâm, chúng ta sẽ có cơ hội nuôi dưỡng tâm từ, nền tảng của hạnh phúc thuần chân một cách dễ dàng hơn.
His Holiness the Dalai Lama often speaks about the importance of self-control. He believes that self-control is essential to spiritual practice. It gives us the means to practice and cultivate the qualities that are essential to life. It allows us to question our actions and opens the way for gradual improvement. It compares our untamed mind to a rebellious, untrained elephant. If we can gradually tame our inner self, we will have an easier time cultivating loving-kindness, the basis of genuine happiness.
Rõ ràng rằng đối với ngàiĐạt Lai Lạt Ma, thiền định rất quan trọng. Ngài dành một khoảng thời gian lớn trong ngày cho việc hành thiền, và cha đã từng chứng kiến ngài được nạp thêm nguồn năng lượng sau thời khóa buổi sáng. Câu nói của ngài Dalai Lama được trích dẫn nhiều trong thời gian gần đây là “Nếu mọi đứa bé lên tám được dạy thiền, chúng ta sẽ chấm dứt bạo lực trên thế giới chỉ trong một thế hệ mà thôi”.
It is clear that meditation is important to His Holiness the Dalai Lama. He devotes a large part of his day to meditation, and I have seen him feel energized after his morning session. His Holiness has been quoted a lot in recent times as saying, “If every eight-year-old was taught meditation, we would eliminate violence in the world within one generation.”
Càng ngày càng có nhiều người thực hành thiền. Nhưng điều cha lo ngại là mặc dù họ có thiện chí đó, nhưng được bao nhiêu người có thể kiên trì thực hành thiền trong cuộc sống của mình. Sớm muộn gì những công việc cấp bách cần giải quyết của đời thường sẽ làm trở ngại việc thực hành thiền hằng ngày của nhiều người.
More and more people are practicing meditation. But my concern is that despite their good intentions, how many people are able to consistently practice meditation in their lives. Sooner or later, the pressing matters of everyday life will interfere with many people's daily meditation practice.
Với ngài Đạt Lai Lạt Ma, việc hành thiền tự nhiên như việc đánh răng vậy thôi. Đó là một thói quen trong cuộc sống hằng ngày. Cha thử nhẩm tính, hẳn ngài đã dành ra hơn 100 ngàn tiếng đồng hồ để thực hành thiền. Và không nghi ngờ gì nữa, ngài là người hạnh phúc nhất mà cha từng biết. Sự hài hước của ngài, khả năng gây cười và niềm hoan hỷ trong cuộc sống của ngài thật là thần kỳ. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ cho cha một số cách đơn giản để ứng dụng thiền vào trong công việc hằng ngày. Đừng quá tham vọng làm điều gì to tát; hãy kềm chế sự nóng nảy. Lúc mới bắt đầu thực hành thiền, đừng ngồi quá lâu, mỗi lần chỉ nên ngồi chừng 10 đến 15 phút thôi. Có điều là cần thực hành thường xuyên, nhiều lần trong một ngày và duy trì để nó trở thành một thói quen thường xuyên trong cuộc sống.
For His Holiness the Dalai Lama, meditation is as natural as brushing your teeth. It is a habit in daily life. I try to calculate, he must have spent more than 100,000 hours practicing meditation. And without a doubt, he is the happiest person I have ever known. His sense of humor, his ability to make people laugh and his joy in life are miraculous. His Holiness the Dalai Lama has shown me some simple ways to apply meditation to daily work. Don't be too ambitious to do anything big; control your temper. When you first start practicing meditation, don't sit for too long, only about 10 to 15 minutes at a time. The thing is, you need to practice regularly, many times a day, and maintain it so that it becomes a regular habit in life.
Làm cho việc hành thiền trở thành một công việc nhịp nhàng như một thói quen hằng ngày, đó là bí quyết để ngài Dalai Lama nuôi dưỡng suối nguồn bình an. Và trong những năm gần đây, khoa học cũng đã xác chứng sự liên quan mật thiết giữa thiền định và hạnh phúc thuần chân.
Making meditation a rhythmic work like a daily habit, that is the secret to cultivating the source of peace for the Dalai Lama. And in recent years, science has also confirmed the close connection between meditation and genuine happiness.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma bảo cha “thế nhưng muốn tiến bộ, cần kiên trì với thời gian. Hành thiền không giống như mở công tắc bóng đèn, mà giống như nhen một ngọn lửa: bắt đầu từ một đốm lửa nhỏ, nó cháy to dần, mỗi lúc một to dần, sáng hơn, mỗi lúc một sáng hơn. Hành thiền là giống như vậy đó”.
The Dalai Lama told me, “But to progress, you need to persevere over time. Meditation is not like turning on a light switch, but like lighting a fire: starting from a small flame, it gradually burns bigger and bigger, brighter and brighter. Meditation is like that.”
Đây là đôi điều cha học được trong buổi sáng hôm ấy. Hãy rèn luyện. Điều này tốt cho cả thân và tâm. Thiền định cũng rất tốt. Không có gì đáng ngạc nhiên ở đây. Cha không nói với các con điều gì mới mẻ cả. Thế nhưng cha ấn tượng với sự thấu hiểu hàm chứa trong công việc buổi sáng của ngài Đạt Lai Lạt Ma. Không có gì to tát cả, nhưng thật ý nghĩa khi chứng kiến những kinh nghiệm sống động như thế.
Here are a few things I learned that morning. Practice. It is good for both body and mind. Meditation is also very good. There is nothing surprising here. I am not telling you anything new. But I was struck by the insights contained in His Holiness the Dalai Lama's morning routine. Nothing grand, but it was meaningful to witness such vivid experiences.
Đầu tiên là sự tự chủ và tất cả những gì nó hàm chứa: không đáp ứng ngay những gì mình muốn thỏa mãn, sống có nguyên tắc, bền bỉ kiên trì. Thứ hai là thói quen. Hình thành một thói quen hằng ngày một cách nhẹ nhàng giúp chúng ta có được sự kiên trì và thành công trong mỗi việc mình muốn thực hiện. Thứ ba là chúng ta có được sự hài lòng từ sự cho đi, từ sự giúp đỡ người khác. Tất cả những điều này đều hiện thực, xác chứng những phương cách ta có thể sử dụng để làm cho cuộc sống mình thêm thành công và tươi đẹp hơn.
The first is self-control and all that it entails: not giving in to immediate gratification, living with principles, perseverance. The second is habit. Forming a daily routine gently helps us to persevere and succeed in whatever we want to do. The third is the satisfaction we get from giving, from helping others. All of these are tangible, tangible ways we can use to make our lives more successful and beautiful.
Hiểu biết sâu thẳm nhất đến một cách nhanh chóng với cha khi ở bên ngoài tịnh thất cùng ngàiĐạt Lai Lạt Ma. Ngay cả lúc này, nó vẫn còn thoáng hiện trong tâm trí cha, tuy không được trọn vẹn như lúc đó. Cha không mong hai con có thể liên hệ đến việc ấy trong lúc này, nhưng các con nên lưu tâm điều này. Đó là khi ở bên ngoài tịnh thất hôm đó, cha đã cảm nhận một cách khái quát về sự duyên sinh và tầm quan trọng trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau trong cuộc sống này. Ngài Dalai Lama luôn sống với tâm ở trạng thái phản tỉnh, và ngài hầu như không nói gì với cha. Thế nhưng những khoảnh khắc ngắn ngủi trong sương lạnh trước lúc rạng đông trong buổi sáng hôm ấy đã đánh động mãnh liệt đến tâm thức cha một cách không ngờ.
The deepest understanding came to me quickly outside the retreat with His Holiness the Dalai Lama. Even now, it is still in my mind, though not as fully as it was then. I don't expect you two to be able to relate to that at this moment, but you should keep this in mind. It was while I was outside the retreat that day that I got a general sense of interdependence and the importance of interdependence in this life. His Holiness the Dalai Lama always lived in a reflective state of mind, and he hardly spoke to me. But those brief moments in the cold dew before dawn that morning struck me in an unexpected way.
Cha trực nhận năng lực của ngài và sự liên kết rất thật với những gì quanh ngài, một sự kết nối làm thăng hoa ý tưởng.
I felt his power and his very real connection with everything around him, a connection that elevated the idea.
Cha xin được nhắc lại trong một cuộc phỏng vấn ngài trước đó. Ngài đã nói với cha về nhiều điều ngài trải nghiệm lúc ngài hơn 20 tuổi. Bất cứ cái gì ngài nhìn – một chiếc bàn, chiếc ghế, hay một người nào đó – ngài đều thấy nó không có một thực thể, không thật tồn tại. Có một “cái không trong cái có hiện hữu”, ngài nói với cha như thế.
Let me recall from an earlier interview with him. He told me about many things he experienced when he was in his early twenties. Whatever he looked at—a table, a chair, a person—he saw that it had no real entity, no real existence. There is “nothingness in something that exists,” he told his father.
Nhìn thấy cha bối rối chưa hiểu gì, ngài giải thích “những khoảnh khắc này giống như những bức tranh xuất hiện, giống như xem ti vi hay xem phim vậy. Đặc biệt rất giống như xem phim. Ta có cảm giác những gì đang diễn ra là thật, nhưng đồng thời, trong khi mắt ta nhìn thấy các cảnh ấy, tâm ta biết đó chỉ là bức tranh. Chỉ là sự diễn xuất, không thật có”.
Seeing his father’s confusion, he explained, “These moments are like pictures that appear, like watching television or watching a movie. Especially like watching a movie. You have the feeling that what is happening is real, but at the same time, while your eyes are seeing these scenes, your mind knows that it is just a picture. It is just a performance, not real.”
Cách nhận thức này, sự cảm nhận vi tế về thực tại này là nền tảng trong đời sống tâm linh của ngàiĐạt Lai Lạt Ma. Ngài biết, trên phương diện tri thức cũng như phương diện trải nghiệm, rằng vạn vật đều chịu sự chi phối của luật vô thường và rằng sự tồn tại của mình tùy thuộc vào một mạng lưới phức tạp trong các mối quan hệ khác. Trên cơ sở này, các ranh giới cá nhân đều tan ra. Kết quả là, ngài cảm nhận được sự gắn kết quyến thuộc với tất cả vạn vật và mọi người.
This way of knowing, this subtle sense of reality, is the foundation of His Holiness the Dalai Lama’s spiritual life. He knows, intellectually and experientially, that all things are subject to the law of impermanence and that their existence depends on a complex network of other relationships. On this basis, personal boundaries dissolve. As a result, he felt a sense of kinship with all things and all people.
Lina và Kira, cha khép lại những chia sẻ về những gì đi qua tâm trí cha về buổi sáng hôm ấy. Cha vẫn luôn nhớ về mấy tiếng đồng hồ quý báu cha có mặt cùng ngài Đạt Lai Lạt Ma. Ngài chẳng giảng cho cha những giáo lý cao siêu nào, cũng không phải theo cách thông thường. Hầu như trong mọi lúc, ngài không đoái hoài gì đến sự có mặt của cha. Nhưng các con có thể nói rằng, cha đã học được những điều quan trọng – những điều không dễ dùng ngôn ngữ mà diễn đạt được.
Lina and Kira, I conclude by sharing what went through my mind that morning. I still remember the precious few hours I spent with His Holiness the Dalai Lama. He did not give me any profound teachings, nor in the usual way. Most of the time, he did not acknowledge my presence. But you can tell that I learned important things – things that are not easy to express in words.
Nguồn: http://www.shambhalasun.com/index.php?option=com_content&task=view&id=4093
Source: http://www.shambhalasun.com/index.php?option=com_content&task=view&id=4093