Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Danh mục »» SÁCH TẠP BÚT - TRUYỆN KÝ »» Niềm hạnh phúc tối thượng »» Xem đối chiếu Anh Việt: Niềm hạnh phúc tối thượng »»

Niềm hạnh phúc tối thượng
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Niềm hạnh phúc tối thượng

(Lượt xem: 10.695)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Niềm hạnh phúc tối thượng

The Ultimate Happiness

Trong buổi đàm thoại dưới đây Đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ đề cập đến tình nhân ái, và cho biết tại sao Phật giáo chủ trương "vô ngã" nhưng trong một vài trường hợp cũng có thể là có cái “ngã”, và tại sao chăm lo cho kẻ khác lại là cội nguồn mang lại niềm hạnh phúc tối hậu cho chính mình.
In this exclusive conversation, the Dalai Lama talks about human goodness, why the self doesn’t (and does) exist, and how caring for others is the ultimate source of your own happiness.

I think everyone who meets His Holiness the Dalai Lama comes away feeling they have been changed for the better. That was certainly true for me. Spending an hour in his presence, talking about life, human nature, and Buddhism, was a life-changing experience. As I write this many weeks later, the glow has not worn off.
Tại sao Đức Đạt-lai Lạt-ma lại được nhiều người mến mộ đến thế? Họ không nhất thiết chỉ là những người may mắn đích thân được tiếp xúc với Ngài mà còn là hàng trăm triệu người khác trên khắp thế giới chỉ được biết đến Ngài qua các thông điệp thấm đượm trí tuệ và lòng nhân ái của Ngài. Theo tôi thì Ngài đã vượt lên trên tất cả những sự dị biệt giữa chúng ta hầu kết nối mọi người với những gì tinh túy nhất trong mỗi chúng ta với tư cách là những con người như nhau. Ngài đã khai mở con tim chúng ta, hướng thẳng vào những ước vọng sâu kín nhất của chúng ta là mong cầu thực hiện được một cuộc sống hạnh phúc với thật nhiều thương yêu. Ngài đã giúp chúng ta nhận thấy được điều đó là hoàn toàn trong tầm tay của mỗi người trong chúng ta.
Why does the Dalai Lama touch so many people, not just those he meets personally but the hundreds of millions around the world who are inspired by his message of wisdom and kindness? I think it’s because he sees past all our differences and connects with the essence of who we are as human beings. He opens our hearts and touches our deepest longing for a life of happiness and affection. He makes us feel it is possible.
Trước buổi phỏng vấn, tôi được dịp trông thấy Ngài dừng lại trong sân chào hỏi mọi người. Trẻ cũng có, trọng tuổi cũng có, họ là những người Tây Tạng, Ấn Độ và cả Tây phương, một số có vẻ sang trọng, nhưng cũng có những người nghèo khó. Ngài mở rộng vòng tay với họ, và họ cũng mở rộng lòng mình với Ngài. Hình ảnh Ngài ban phúc cho một nhóm nhỏ người Tây Tạng lặn lội từ những nơi xa xôi đến đây để gặp người lãnh đạo tinh thần và quốc gia của họ là cả một dịp cho tôi chứng kiến tận mắt niềm quyến luyến sâu xa của Ngài đối với dân tộc Ngài. Trông thấy họ lau nước mắt, Ngài không khỏi cảm thương họ, an ủi họ. Trước cảnh tượng đó ai mà không cảm động. Tôi bước vào trong để cùng đàm đạo với Ngài suốt một giờ.
Before our interview, I watched His Holiness greet people in the courtyard outside. Young and old, Tibetan, Indian, and Westerner, well-off and poor, he opened his heart to everyone, and they to him. I witnessed too his deep connection with the Tibetan people, as he blessed a small group who had made the arduous journey from Tibet to meet their national and spiritual leader. As they wept, the Dalai Lama expressed his love and concern for them. It was deeply moving to see. I went inside for an hour of life-changing conversation.
—Melvin McLeod
Editor-in-Chief, Lion’s Roar
Buổi phỏng vấn Đức Đạt-lai Lạt-ma

Melvin McLeod (MM): Kính thưa Ngài, thay mặt độc giả và cá nhân tôi, xin cảm tạ Ngài đã sẵn lòng chia sẻ trí tuệ của Ngài với chúng tôi.
Your Holiness, on behalf of myself and our readers, thank you for sharing your wisdom with us.
Người Tây phương thường được dạy bảo rằng phải ý thức và chọn lựa giữa hạnh phúc của cá nhân mình (sụ ích kỷ của mình) và sự an vui của kẻ khác, và họ cũng được dạy thêm rằng nếu muốn chọn cho mình thái độ đạo đức thì phải hy sinh hạnh phúc của riêng mình.
Many people in the West have been taught that they have to choose between their own happiness and the well-being of others. They are told that the correct moral choice is to sacrifice their own happiness.
Thế nhưng đối với Phật giáo thì sự đối nghịch đó tức là giữa hạnh phúc của mình và kẻ khác lại không hề có, bởi vì Phật giáo dạy rằng tu tập Dharma (Đạo Pháp) không những mang lại hạnh phúc cho kẻ khác mà cả cho chính mình. Như vậy xin Ngài giải thích như thế nào để mọi người hiểu rằng hạnh phúc không phải là một hình thức ích kỷ, hầu giúp họ tạo được hạnh phúc - và cả những sự lợi ích - cho mình và kẻ khác?
That conflict between our own happiness and other people’s doesn’t exist in Buddhism, which teaches that dharma practice simultaneously benefits both ourselves and others. How do you tell people that it is not selfish to be happy, and that they can care about—and benefit—both themselves and others?
Đức Đạt-lai Lạt-ma (ĐLLM): Không có một sự đối nghịch nào cả, bởi vì chăm lo cho kẻ khác là cách tốt nhất mang lại hạnh phúc cho chính mình. Thái độ đó bên ngoài có vẻ như chỉ biết lo cho kẻ khác mà không nghĩ gì đến mình, thế nhưng thật ra thì đấy lại là cách mang lại thật nhiều hạnh phúc cho riêng mình.
There is no conflict, because caring about others’ well-being is the best way to achieve your own happiness. It may appear you are more concerned about others’ well-being than your own, but in reality you get the maximum benefit.
Nguyên nhân sâu xa nhất mang lại hạnh phúc trong nội tâm và sức khỏe trên thân xác, phát sinh từ thái độ của tâm thức mình. Nếu chỉ biết nghĩ đến cá nhân mình - tức xem mình là trung tâm của tất cả - thì đấy sẽ là cách tạo ra cho mình đủ mọi thứ phiền muộn, cô đơn, sợ hãi và oán hờn. Thái độ đó sẽ tạo ra các hậu quả nặng nề phương hại đến sự an bình trong tâm thức và cả sức khỏe trên thân xác mình. Các khoa học gia cho biết là sự sợ hãi và giận dữ sẽ làm suy giảm khả năng miễn nhiễm của cơ thể.
The ultimate source of a happy mind and healthy body is your own mental attitude. Thinking only about yourself—having a very self-centered attitude—creates a lot of anxiety, loneliness, fear, and anger. This is very bad for your own peace of mind and for your health. Scientists say constant fear and anger do great damage to your immune system.
Chúng ta là các sinh vật sống tập thể. Niềm hạnh phúc cá nhân lệ thuộc vào cộng đồng xã hội. Thái độ cực đoan chỉ biết nghĩ đến mình đi ngược lại với nguyên tắc trên đây. Nếu các bạn thích sống tách biệt với kẻ khác thì điều đó cho thấy các bạn là những người ích kỷ và cho mình là vô cùng quan trọng.
We are social animals. An individual’s happy life depends on the rest of the community. An extreme self-centered attitude is the opposite of that. You prefer distance from other people because you are self-centered and feel you are something very important.
Vậy chúng ta hãy thử hướng tầm nhìn qua một góc khác hơn - tức là biết quan tâm đến sự an vui của kẻ khác. Thái độ đó đi ngược lại với sự ích kỷ của một tâm thức hẹp hòi. Do đó thật hết sức hợp lý, khi nào biết chăm lo cho kẻ khác thì những gì tiêu cực tạo ra bởi thái độ ích kỷ sẽ giảm xuống ngay. Vậy hãy nhìn vào những kẻ đang cười nói thì sẽ rõ. Có những người bật lên thật dễ dàng những tràng cười hồn nhiên phản ảnh bản chất rất con người của họ. Trong trường hợp này chúng ta không thể không nhận thấy tỏa rộng nơi họ một sự an bình to lớn. Trái lại đối với những người chỉ có thể cười lên một cách gượng gạo, thì theo tôi họ là những người từ bên trong thâm tâm họ đang bị tách rời ra khỏi kẻ khác.
Now let’s look at the other way—having a sense of concern for others’ well-being. That attitude is the opposite of self-centered narrow-mindedness. So logically, all the negative things that are created by a self-centered attitude are reduced when you care for others. Just look at how people smile. If we examine people who easily show a genuine human smile, we see they experience more peace. But when people have an artificial smile, I think it shows that inside they are a little bit distant from others.
Các đứa bé may mắn lớn lên trong tình thương yêu của cha mẹ và bạn bè thường cảm thấy mình sung sướng. Thế nhưng nếu cha mẹ phơi bày trước mặt chúng những khía cạnh tiêu cực (cải vả, đánh nhau, cư xử ích kỷ trong gia đình và ngoài xã hội...), hoặc thường xuyên quở phạt chúng, thì chúng sẽ cảm thấy rất khổ sở. Chẳng cần đến các hiểu biết triết học, cũng chẳng cần phải nghiên cứu gì cả, bất cứ ai từ khi mới lọt lòng cũng đều cảm nhận được điều đó.
Children who receive maximum affection from their parents and friends are usually very happy. But if their parents show them a negative face, or punish them, they will be very unhappy. That’s human nature. There is no need for philosophy, no need for research. Everybody experiences that, right from the beginning of life.
Tôi vẫn thường nói lên với những người chung quanh tôi rằng người thầy từng giảng dạy tôi về lòng từ bi chính là mẹ tôi. Nếu mẹ tôi không phải là một người phụ nữ tràn đầy tình thương thì biết đâu tôi cũng đã trở thành một con người khác hơn, chỉ biết đa nghi và do dự. May mắn thay, mẹ tôi là một người vô cùng từ bi, nhờ đó tôi được thừa hưởng thật nhiều thương yêu và phúc hạnh của mẹ (dù sự vận hành của nghiệp rất phức tạp, thế nhưng dường như chỉ có một người mẹ xứng đáng mới sinh được một người con xứng đáng). Điều này xảy đến với bất cứ một ai.
I often tell people that my first guru who taught me about compassion was my mother. If my mother had not been an affectionate person, then maybe I would be a different kind of person, suspicious and insecure. Fortunately, my mother was very, very compassionate, so I received maximum affection and benefit from her. It’s the same for all human beings.
Tóm lại, tình thương và sự quan tâm đến niềm an vui của kẻ khác chính là cách tốt nhất mang lại cho mình một cuộc sống hạnh phúc, một thân xác khỏe mạnh và tuổi thọ cao. Các bạn không cần đến thuốc bổ, cũng chẳng cần đến thuốc an thần. Đấy là cách luyện tập đã mang lại cho tôi thật nhiều lợi ích.
Therefore, the conclusion is that affection and concern for others’ well-being is the best way to achieve your own happy life, healthy body, and longer life. You don’t need drugs or tranquilizers if you keep more affection in your heart. I have practiced that and I’ve found immense benefit to myself.
M.M: Thưa Ngài, được ngồi bên cạnh Ngài như hôm nay, thú thật chưa bao giờ tôi được trông thấy ai bước vào tuổi tám mươi mà trông vẫn trẻ trung và khỏe mạnh như Ngài. Quả Ngài là hiện thân của những lời giảng dạy của chính Ngài.
Sitting this close to you, Your Holiness, I have to say I’ve never seen anybody who is just about to turn eighty who looks so youthful and healthy. So you are proof of your own teachings. [Dalai Lama laughs]
Đức ĐLLM: Thế à, có thể là nhờ tôi uống thuốc đấy. Thế nhưng đây lại là chuyện tối mật! [Ngài bật cười]
Well, I may have taken some drugs. But that’s top secret. [Laughter]
M.M: Thưa vâng, nhất định chúng tôi sẽ không hé môi với ai cả (nếu người đọc thật tình muốn biết Ngài dùng thuốc gì thì cứ ghé tai người chuyển ngữ sẽ mách cho biết. Mỗi ngày Ngài uống hai viên thuốc, một trước khi đi ngủ và một lúc vừa thức dậy, đấy là hai viên thuốc của từ bi mà Ngài uống với những ngụm nước thật mát và thật ngọt của sự hy sinh và tình thương yêu nhân loại. Thế nhưng bạn đọc cũng phải hứa là không được hé môi về chuyện này với ai đấy nhé!).
We won’t tell anybody.
M.M: Nhiều người, nhất là người Tây phương, không mấy khi tự tin nơi lòng từ tâm của chính mình. Thế nhưng Phật giáo cho biết là tất cả chúng ta đều hàm chứa Phật tính, và bản chất tự nhiên và căn bản của con người là lòng tốt và tình thương yêu. Vậy Ngài thuyết phục mọi người như thế nào để họ ý thức được rằng - dù phải đối đầu với khổ đau và bất công trên thế giới và cả những khó khăn riêng tư của mình - từ bản chất mình luôn là những con người nhân ái.
Many people, particularly in the West, doubt their own goodness. But Buddhism says we all have buddhanature and that human nature is fundamentally good and loving. How do you convince people—in the face of all the suffering and injustice in the world and their own problems—that they are basically good?
Đức ĐLLM: Chỉ cần nhìn vào các đứa trẻ đang vui đùa và cười nói thì cũng đủ để nhận thấy điều đó. Chúng không hề phân biệt tín ngưỡng và hoàn cảnh gia đình của nhau. Thế nhưng dần dần sau đó khi lớn lên thì chúng bắt đầu ngày càng để ý đến quốc tịch, tôn giáo và giai cấp của nhau. Thế nhưng tôi cảm thấy các khác biệt đó chỉ là thứ yếu. Hiện có bảy tỉ người trên hành tinh này, nhưng trên căn bản tất cả đều mang cùng một bản chất con người như nhau - có nghĩa là cùng ước vọng tìm thấy tình thương yêu và hạnh phúc. Bản chất sơ đẳng nhất nơi con người là lòng từ bi và tình thân thiện, nếu nhìn qua góc cạnh đó thì bảy tỉ người đều giống như nhau. Tất cả đều là anh, chị, em với nhau.
We just need to look at children, smiling and playful. They never consider differences like religious faith or family background. Then gradually, as they grow up, they become more and more concerned about differences of nationality, religion, class. These are secondary differences, I feel. Actually, the seven billion human beings on this planet are fundamentally the same as human beings—we all want affection and happiness.
Một số khoa học gia trắc nghiệm phản ứng của trẻ em bằng cách chiếu cho chúng xem một số phim hoạt họa. Nếu là các phim cho thấy trẻ em nô đùa và giúp đỡ lẫn nhau, thì chúng tỏ ra thật sung sướng, thế nhưng mỗi khi xem phim với các cảnh gây hấn giữa người này với người khác thì chúng tỏ ra thật khổ sở và bỏ đi. Các trẻ em ấy cũng chỉ mới lên hai hay lên ba. Các khoa học gia cho rằng trắc nghiệm trên đây chứng minh rõ rệt là bản chất căn bản của con người là lòng từ bi và tình thân thiện. Vì thế tôi nghĩ rằng trên căn bản đó, bảy tỉ con người đều giống như nhau. Từ bản chất chúng ta đều là anh, chị, em với nhau.
Some scientists did an experiment in which they showed cartoons to young children. When they watched cartoons of other children playing together and helping each other, they were very happy. But when they saw a cartoon of people harming each other, they were unhappy and withdrawn.

These children were just two or three years old. Some scientists say this shows that basic human nature is compassionate and gentle. So I think on that fundamental level, the seven billion human beings are all the same. We are basically brothers and sisters.
Ở cấp bậc thứ yếu, thì quả có những sự khác biệt, - chủng tộc, quốc gia, xã hội, tín ngưỡng... Quả là thế, có quá nhiều sự khác biệt. Thế nhưng theo tôi thì tất cả các vấn đề khó khăn do con người tự tạo ra cho mình đều thuộc vào cấp bậc thứ yếu này. Nếu nhìn sâu xa hơn - vào cấp bậc nền tảng của bản chất con người - thì chúng ta sẽ chẳng thấy một sự cách biệt hay ranh giới nào cả. Tất cả chúng ta đều là con người như nhau. Mỗi người trong chúng ta đều được sinh ra từ một người mẹ, lớn lên nhờ tình thương yêu của con người. Tất cả đều như nhau!
Then on the secondary level, yes, there are differences—different races, countries, systems, religions. There are too many differences. I think all our man-made problems are actually based on this secondary level of difference. But if you go deeper—to the fundamental human level—there is no demarcation, no barrier. We are the same human being. Everybody is born from a mother and grows up needing human affection. Same!
Theo tôi nền giáo dục hiện nay không phản ảnh được đúng mức các giá trị căn bản của con người. Mỗi khi nêu lên các giá trị thì đấy cũng chỉ là các giá trị xoay quanh đức tin tôn giáo, thế nhưng chúng ta có thể bàn thảo với nhau về các giá trị con người mà không cần đá động gì đến tôn giáo cả. Chúng ta chỉ cần nêu lên những gì thật giản dị chẳng hạn như nói với nhau về tình thương yêu của cha mẹ mình, các yếu tố sinh học (các tác động sinh học đối với não bộ hoặc các yếu tố mang lại cho mình một thể xác và một tâm thần khỏe mạnh chẳng hạn), hay sự kiện chúng ta là những sinh vật sống tập thể. Đấy là các đường hướng giáo dục nhắm vào các giá trị con người.
I think the existing educational system does not offer adequate explanation of basic human values. Usually when we talk about values, they’re presented in the context of religious faith. But we can talk about human values without touching religion. We can simply talk about parental love, biological factors, and the fact that we are social animals. In this way we can educate people about human values.
Các giá trị căn bản của con người về tình thương yêu và lòng từ bi trên đây còn giữ được sự tươi mát ở tuổi ấu thơ. Thế nhưng khi bắt đầu cắp sách đến trường, thì các điều ấy (lòng hiếu thảo, tình mẫu tử, các yếu tố mang lại một thể xác và một tâm thần khỏe mạnh...) không mấy khi được nhắc đến. Theo tôi nền giáo dục hiện tại hướng quá nhiều vào đồng tiền và các giá trị vật chất. Các thế hệ lớn lên với nền giáo dục đó cũng sẽ dần dần chỉ biết đến vật chất mà thôi. Do đó mỗi khi bàn thảo với nhau về các giá trị thì cũng chỉ xoay quanh đức tin tôn giáo (có nghĩa là khuyến khích và nêu cao các giá trị tôn giáo nhằm đương đầu với các khuynh hướng vật chất hóa xã hội) - dường như là chỉ để mỗi người phải tự áp đặt mình phát động lòng từ bi và sự rộng lượng (tình thương yêu và lòng từ bi phải là những thứ xúc cảm tự nhiên, bùng lên từ bên trong tâm thức mình. Tình thương và lòng nhân ái áp đặt bởi giáo dục chỉ là những thứ xúc cảm gượng ép và hời hợt. Chẳng hạn như lòng hiếu thảo rất khó giáo dục, không thể dạy một đứa trẻ bất hiếu phải "thương yêu" cha mẹ mình. Trái lại đối với một đứa trẻ có hiếu thì không phải dạy gì cả, dù nặng tay hay chửi mắng nó thì nó vẫn cứ thương cha mẹ nó, bởi vì nó thuơng cả những sự lầm lẫn của cha mẹ mình, tức là những khổ đau của chính họ mà nó không làm gì khác hơn để làm nhẹ bớt đi những khổ đau ấy của cha mẹ mình, ngoài tình thương yêu của nó. Hiếu thảo và tình mẫu tử là các tác động bản năng rất sâu kín và tích cực, nói lên giá trị của con người và cả muôn thú, khác hơn với các xúc cảm bản năng tàn phá khác).
When children are very young, these basic human values of affection and compassion are very fresh. Then they go to school, where there’s not much talk about these things. I think the existing education system is very much oriented toward money and material values. Generations of people go through that kind of education, and gradually their life becomes more materialistic. Then, when values are discussed, it’s in the context of religious faith—almost forcing yourself to try to practice compassion or forgiveness.
Theo tôi thì tất cả tình trạng trên đây đều do sự thiếu ý thức về các nhu cầu căn bản của con người là tình thương yêu và lòng từ bi mà ra. Giáo dục nào có phải chỉ cần phát huy khối óc tuyệt vời của mình là đủ, mà còn phải sưởi ấm con tim của mình nữa. Đấy là quan điểm của tôi.
I think this is all due to the lack of understanding of what we basically need as human beings, which is affection and compassion. Education can’t focus only on developing our wonderful brain. We also need warm-heartedness. This is my view.
MM: Làm thế nào để có thể thật sự mở rộng lòng từ bi và thương cảm của mình nếu không có một ý niệm sơ đẳng nào về khái niệm vô ngã (có nghĩa là nếu xem nặng "cái tôi" và cái "của tôi" - tức là không hiểu gì về vô ngã - thì sẽ không sao có thể phát huy lòng từ bị được)? Ngoài việc giáo huấn nhằm khơi động lòng từ bi, phải chăng cũng thật hết sức quan trọng là phải giảng dạy thêm về sự ý thức tuyệt vời về tính cách vô ngã của một cá thể, hay ít nhất cũng phải làm cho cái ngã ấy nhẹ bớt đi (quên bớt "cái tôi" hầu có thể khơi động lòng từ bi của mình)?
Is it truly possible to be compassionate or empathetic without some understanding of non-self? In addition to teachings on compassion, how important is it to also present the wisdom teachings of no-self, or at least less self?
Đức ĐLLM: Tôn giáo trên thế giới gồm có hai nhóm: hữu thần và vô thần. Đối với các tôn giáo hữu thần thì phải tin vào Thượng Đế, tức là Vị Sáng Tạo, là Tình Thương Cảm Vô Biên. Đấy là phương pháp nhằm phát huy tình thương yêu trong các tôn giáo này. Theo các tôn giáo ấy thì chúng ta được tạo ra bởi một vị Trời tuyệt vời, từ bi và tràn ngập thương yêu đã tạo ra cho chúng ta một thứ nhiệt tình hay một sự can đảm nào đó. Một khi đã được một Vị Trời như thế sáng tạo ra thì mình cũng hàm chứa cái tia lửa thương yêu đó bên trong chúng ta (thế nhưng phải cẩn thận, chớ để cho cái tia lửa thương yêu, nhiệt tình và can đảm đó bùng lên quá "mạnh" để trở thành một trận hỏa hoạn thiêu đốt nhau). Đấy là một cách tiếp cận [với Thượng Đế] vô cùng mạnh mẽ.
Among the world’s different religions, there are theistic and nontheistic traditions. In theistic religions, their method is to believe in God, Creator, Infinite Love. That is their method to increase the practice of love. We are created by a wonderful, compassionate, infinitely loving God, which brings us some kind of enthusiasm or courage. Since such a God created us, we have the same spark of love in us. This is a very powerful approach.
Đối với các tôn giáo vô thần, thì tầm quan trọng liên hệ đến bản thân của chính mình nhiều hơn. Đối với các tôn giáo vô thần thì không có Vị Trời hay Vị Sáng Tạo nào cả. Chính mình là người sáng tạo ra mình (các hành động của mình - tức là nghiệp của mình - sẽ đưa đến sự hình thành của chính mình trong thế giới hiện tượng, phù hợp với tư duy và các hành động đó của chính mình). Do đó tất cả những điều tốt đẹp hay tiêu cực xảy ra là do chính mình tạo lại cho mình. Đức Phật có nói rằng mình cũng là vị chủ nhân của chính mình là vậy.
In the nontheistic religions, the emphasis is more on yourself. In nontheistic religions, there is no God or Creator. You yourself are the creator. So all the good or negative things that happen are your responsibility. As the Buddha stated, you are your own master.
Vậy đến đây chúng ta hãy tìm hiểu xem "vô ngã" và sự giảm bớt của cái “ngã” theo như các bạn vừa nêu lên là gì [Ngài bật cười]. Nếu thật sự muốn phát huy thái độ vị tha nhằm làm giảm bớt đi cảm tính chỉ biết nghĩ đến mình, thì trái lại các bạn cần phải cảm nhận được một cái ngã thật mạnh! Chúng ta cần phải thấu triệt thật rõ ràng vô ngã theo Phật giáo có nghĩa là gì. Phật giáo cho biết là mình không có một thứ linh hồn (soul) nào cả. Vô ngã (no-self) có nghĩa là mình không hề có một cái ngã nào mang tính cách độc lập, cá biệt, và trường tồn cả. Một cái ngã như thế không hề có. Đấy là cách mà Phật giáo nói lên mỗi khi đề cập đến khái niệm vô ngã (cảm tính về một "cái tôi" là một hình thức tác động hay biểu lộ của bản năng, là một phương tiện nhằm bảo vệ và duy trì sự hiện hữu của một cá thể. Không nên lầm lẫn động cơ thúc đẩy mang chủ đích bảo tồn sự sống đó của bản năng với một "cái ngã" trường tồn và bất biến, độc lập với năm thứ cấu hợp/ngũ uẩn tạo ra một cá thể, như một thứ "linh hồn" hoàn toàn phát sinh từ trí tưởng tượng).
Now, you mentioned no-self, or less self. [Laughs] If you really want to develop an altruistic attitude, and in order to do that minimize self-centered feeling, you need a sense of strong self!
MM: Theo quan điểm Phật giáo, tất cả các xúc cảm tiêu cực và bám víu đều phát sinh từ quan điểm sai lầm cho rằng bên trong chúng ta có một cái "cái tôi" vững chắc và độc lập.
We need to understand how Buddhism defines no-self. Buddhism says we have no soul. No-self means we do not have a self that is independent, singular, and permanent. That kind of self is not there. That is what Buddhists mean when we talk about no-self.
Đức ĐLLM: Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là phải phủ nhận sự hiện hữu của cái ngã. Cái ngã vẫn sờ sờ ra đó. Không có ai có thể phủ nhận được điều đó [Ngài bật cười] (như đã được ghi chú trên đây: chúng ta luôn bị các sự thúc dục của bản năng chi phối, điều khiển và sai khiến mình. Sức mạnh gây ra bởi các tác động đó của bản năng được chúng ta biến nó trở thành "cái ngã", "cái tôi" hay "cái "linh hồn" của mình nhờ vào sự tưởng tượng của mình. Tuy nhiên cũng nên hiểu rằng những sự thúc đẩy đó đôi khi cũng mang những khía cạnh tích cực: chẳng hạn như lòng hiếu thảo, lòng từ bi, tình nhân ái, v.v. Và đấy cũng là những thứ xúc cảm trực tiếp góp phần vào sự duy trì và bảo tồn sự sống). Như đã nói đến trên đây, nếu các bạn muốn tự biến cải mình bằng cách làm giảm bớt "các xúc cảm tàn phá" (kilesa, xem ghi chú dưới đây) thì các bạn cần phải có một cái ngã thật mạnh (tức là các sự thúc dục bản năng thật mạnh đã được ghi chú trên đây). Các bạn cảm thấy: "Tôi đủ sức làm được việc đó. Tôi có thể biến cải được tâm thức tôi. Tôi có thể làm cho các cơn giận dữ, các sự thù ghét và lánh xa kẻ khác phải giảm xuống". Nếu muốn làm được như thế thì các bạn phải cần đến một sự cảm nhận thật mạnh về cái ngã (nói một cách khác là phải có một sự tự tin thật mạnh, phía sau sự tự tin đó là "cái ngã" của mình, nhưng không phải là cái "linh hồn" trường tồn và bất biến hiểu theo các tôn giáo độc thần).

(Trên đây Đức Đạt-lai Lạt-ma có nói đến "các xúc cảm tàn phá"/destructive emotions, vậy có nghĩa là gì? "Các xúc cảm tàn phá" còn được gọi là các "xúc cảm bấn loạn"/disturbing emotions, các "độc tố " hay "ô nhiễm tâm thần"/defilements, v.v., tiếng Pa-li là kilesa, tiếng Phạn là klesa, kinh sách gốc Hán ngữ dịch là "phiền não" (?!). Khái niệm này được giải thích trong tập Visuddhimagga/"Con đường của sự tinh khiết" trong Tạng Luận, kinh sách Hán ngữ dịch là Thanh Tịnh Đạo. "Các xúc cảm tàn phá" hay các thứ "ô nhiễm tâm thần" gồm 10 thứ: thèm khát/loba, hận thù/dosa, hoang mang/moha, tự kiêu/mana, quán thấy sai lầm/ditti, nghi ngờ/vicikiccha, đờ đẫn/thina, xao động/uddhacca, không biết hổ thẹn/ahirika, thiếu suy xét/anottappa. Sở dĩ dài dòng là để cho thấy Đức Đạt-lai Lạt-ma đã tóm lược toàn bộ một khái niệm phức tạp là kilesa bằng vài chữ ngắn gọn "các xúc cảm tàn phá". Đó là một cách đơn giản hóa một số các khái niệm trong giáo lý Phật giáo để thích ứng với thời đại ngày nay hầu giúp mọi người thấu triệt trực tiếp và dễ dàng hơn về các khái niệm này.)
But this does not mean denying the existence of self. Self is there. Nobody can deny that. [Laughs] So as I mentioned earlier, when you try to improve yourself, when you try to minimize destructive emotions, you need a sense of strong self. You need to feel, “I can do it. I can change my mind. I can reduce anger, hatred, and distance from others.” For that, you need a strong sense of self.

MM: Thế nhưng dù sao thì đấy (tức sự tự tin vào một "cái tôi" thật mạnh) cũng không phải là một thứ linh hồn trường tồn hay một "cái ngã" nào cả.
But not in the sense of a permanent soul or self.

Independent, unchanging self is not there. If you don’t accept that, then there is no possibility to change and improve yourself.
Đức ĐLLM: Chuyện đó không dính dáng gì đến một "cái ngã" trường tồn và bất biến (xin mạn phép nhắc lại; đó chỉ là những sự thúc dục của bản năng). Nếu không đủ sức chấp nhận điều đó (tức là vô ngã), thì các bạn sẽ không thể nào có thể biến đổi và cải thiện chính mình được (nếu khư khư ôm cứng "cái ngã" hay cái "linh hồn" của mình thì đấy là cách trở thành nô lệ cho chúng, ngoan ngoãn tuân theo những sự sai khiến của chúng). Theo quan điểm của Phật giáo, tất cả các xúc cảm tiêu cực chẳng hạn như giận dữ và bám víu (kilesa) đều liên hệ đến các quan điểm sai lầm là có một "cái tôi" thật vững chắc và trường tồn ẩn nấp sâu kín bên trong chính mình. Khi nào ý thức được là mình không có cái ngã độc lập, cá biệt và trường tồn đại loại như thế thì khi đó chúng ta mới mong giải tỏa được sức mạnh của các xúc cảm tàn phá của mình.
In the Buddhist view, all negative emotions like anger and attachment are related to the false view that deep inside us there is an “I” that is solid and independent. When we realize we do not have that kind of independent, singular, permanent self, it reduces the strength of those destructive emotions.
Chỉ vì cảm thấy mình có một cái ngã độc lập, như là một thứ gì đó thật vững chắc, nên chúng ta cho rằng các đối tượng của sự giận dữ hay sự bám víu của mình cũng thế, nghĩa là cũng thật một cách tuyệt đối và độc lập như chính cái ngã ấy của mình vậy. Chúng ta không hề nhận biết được chúng chỉ mang tính cách tương đối và lệ thuộc vào các yếu tố khác để hiện hữu (interdependence/nguyên tắc tương liên/lý duyên khởi). Khi sự tiêu cực của kẻ thù hiện lên với mình như là một thứ gì đó mang tính cách tuyệt đối và độc lập (có nghĩa là rất thật và đúng là như thế), thì tức khắc sự giận dữ của mình sẽ bùng lên ngay.
Because we feel we have an independent self, something very solid, we believe the objects of our anger or attachment are also absolute and independent. We do not see them as relative, as dependent on other factors. The negativity of your enemy seems like something absolute, something independent, and anger develops.
Khi nào ý thức được điều đó thì các bạn mới có thể làm giảm bớt các nguyên nhân tạo ra kẻ thù cho mình. Các bạn cũng sẽ nhận thấy thái độ hành xử của mình cũng dự phần đưa đến các cảnh huống ấy (tức tạo ra kẻ thù cho mình). Các bạn sẽ ý thức được: "Ồ! hóa ra là thế, sở dĩ con người ấy nổi giận với tôi là vì chính tôi đã tạo ra tình trạng ấy cho hắn ", và mình sẽ không còn trút hết lỗi lầm lên đầu hắn nữa. Sự ý thức đó sẽ làm nguôi bớt cơn giận của mình.
Once you realize that, you can reduce the conditions that create your enemy. You can see that you are also a contributor to the situation due to your attitude. You realize, “Oh, this person is also angry at me because I contributed to creating this situation.” So you can’t blame everything on them. That reduces the anger.
MM: Một hôm tôi có dịp đọc một câu phát biểu tuyệt vời nhất mà tôi chưa từng được đọc từ trước đến nay, theo tôi thì câu này có thể tóm lược toàn bộ việc tu tập Phật giáo. Câu ấy thật hết sức đơn giản: "Phật giáo cũng chỉ là sự phát huy thể dạng tỉnh thức (awareness/tỉnh giác, tỉnh táo, sáng suốt) của tâm thức mình.” Tuy nhiên theo Ngài thì con đường căn bản nhất của Phật giáo là gì?
I read a simple statement the other day that I thought was the best summary of Buddhist practice I’ve seen. It was simply: Buddhism is cultivating awareness of your mind. What is your basic definition of the Buddhist path?
Đức ĐLLM: Tôi phải nhấn mạnh một điều là con đường luyện tập Phật giáo là con đường của Trí Tuệ, có nghĩa là phải vận dụng tối đa trí thông minh con người hầu biến cải các xúc cảm tàn phá (kilesa/phiền não đã ghi chú trên đây) của mình trên con đường đó. Cũng tương tự như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng xem trọng đức tin, thế nhưng đồng thời cũng chủ trương đức tin phải được kết hợp với trí tuệ (đức tin không trí tuệ chỉ là một sự mù quáng). Cũng tương tự như thế, tình thương và lòng từ bi cũng phải kết hợp với trí tuệ (tình thương không trí tuệ là sự đam mê, từ bi không trí tuệ là một sự hy sinh vô ích).
I express the Buddhist way of practice as utilizing human intelligence to the maximum, and in that way transforming our destructive emotions. Like other religions, Buddhism stresses the importance of faith, but faith must be combined with wisdom. Similarly, love and compassion also must combine with wisdom.
Đối với Phật giáo, nhất là truyền thống giảng dạy của đại học Nalanda (Na-lan-đà) mà tôi đã được học hỏi, thì trí thông minh và sự lý luận được đặt lên hàng đầu. Đức Phật là một triết gia vĩ đại, một tư tưởng gia và cũng là một khoa học gia. Ngài từng dạy bảo các đệ tử của mình không nên chấp nhận giáo huấn của Ngài bằng cách dựa vào đức tin, mà phải xét đoán và thử nghiệm thật kỹ lưỡng. Vì thế đối với Phật giáo, khảo sát, lý luận, và chứng nghiệm là các yếu tố then chốt. Đức tin đích thật chỉ có thể phát sinh từ sự chứng nghiệm của các yếu tố đó.
In Buddhism, and particularly in the Nalanda tradition I come from, intelligence or reasoning is very important. The Buddha was a great philosopher and thinker, and also a scientist. He told his followers that they should not accept his teachings out of faith, but rather through thorough investigation and experiment. So in the Buddhist tradition, investigation, reasoning, and evidence are the key factors. That in turn brings faith.
Cách nay nhiều năm tôi có nói với một người bạn Tây Phương theo Phật giáo rằng tôi rất muốn thảo luận nghiêm chỉnh và thường xuyên hơn với các khoa học gia. Người bạn này khuyên tôi phải cẩn thận, bởi vì khoa học sẽ giết chết tín ngưỡng. Để đáp lại tôi bèn mượn một một lời dạy của Đức Phật như sau: "Không nên chấp nhận bất cứ một lời giảng huấn nào chỉ vì đức tin hay sự tôn kính, mà phải khảo sát thật cẩn thận".
Many years ago, I said to a Western Buddhist friend that I wanted to have more serious discussion with scientists. My friend said, be careful, science is the killer of religion. Then I reflected on the Buddha’s quotation—that one should not accept any sort of teaching just out of faith or respect, but through thorough investigation.
Khoa học là một phương pháp tìm hiểu thực tại. Các khoa học gia ngày nay cũng như các học giả Phật giáo vào các thời kỳ xa xưa, chẳng hạn như Nagarjuna (Long Thụ), tất cả đều phải khảo sát để mang lại sự hiểu biết! Thế nhưng phần đông các khoa học gia Tây Phương ngày nay chỉ hướng vào lãnh vực vật chất, tức thế giới vật lý, nhưng không quan tâm gì đến lãnh vực tâm thần. Kể từ khoảng cuối thế kỷ XX đến nay, khoa học mới bắt đầu chú ý đến các lãnh vực tri thức và xúc cảm, và đưa dần các lãnh vực này vào các chương trình khảo cứu. Dù sao chúng ta cũng phải luôn khảo sát giáo huấn của chính Đức Phật, nếu có một số điều nào đó ghi chép trong một số kinh sách nào đó đi ngược lại với với các chứng nghiệm khoa học thì phải loại bỏ.

(Thật ra sự hiểu biết khoa học cũng rất giới hạn bởi tính cách chủ quan trong sự lý luận của các khoa học gia và độ chính xác của máy móc đo đạt. Trên một bình diện thật tổng quát thì khoa học cũng chỉ là một chuỗi dài các giả thuyết liên tục đánh đổ nhau. Sự hiểu biết của Phật giáo hướng thẳng vào các lãnh vực siêu hình, vượt qua không gian và thời gian, và chỉ có các kỹ thuật thiền định mới tiếp cận được. Do đó thiết nghĩ khoa học còn phải cố gắng rất nhiều mới có thể "chạm" vào các lãnh vực thâm thuý này của Phật giáo. Ngoài ra giữa khoa học và Phật giáo cũng có một sự khác biệt chủ yếu và nổi bật: sự hiểu biết khoa học mang tính cách đa chiều, nếu không muốn nói là bất định hướng, chẳng hạn như một số hiểu biết về vật lý hạt nhân có thể giúp thiết kế các trung tâm điện lực nhưng cũng có thể áp dụng vào việc chế tạo các quả bom hạt nhân. Trong khi đó thì sự hiểu biết Phật giáo chỉ hướng vào một mục tiêu duy nhất là loại bỏ khổ đau cho con người. Các "hiểu biết" mang tính cách khoa học của Phật giáo chỉ là các kết quả thứ yếu và tự nhiên mang lại bởi trí tuệ. Chẳng hạn như khái niệm về Tánh Không của mọi hiện tượng trong đó kể cả vật chất, chỉ được ngành Vật lý lượng tử/Quantum Physics khám phá ra gần đây, hoặc khái niệm tương liên giữa các hiện tượng - interdependence - mang tính cách toàn cầu nhằm giải thích sự vận hành và chuyển động của cả vũ trụ đã khiến các khoa học gia và triết gia phải thán phục, đã được Đức Phật thuyết giảng cho những con người chất phác 2500 năm trước).
Science is a method to try to know reality. Scientists are like many ancient Buddhist scholars, like Nagarjuna. They investigate! Western science has generally focused on studying the material, physical world, not mind. But now, in the later part of the twentieth century, emotions and consciousness are gradually becoming the subject of science. We must even investigate the Buddha’s own teachings. The Buddha may have said something in certain texts, but we cannot accept it if it goes against the scientific evidence.
MM: Trong thế giới Tây Phương ngày càng có nhiều người luyện tập phép thiền định về sự chú tâm tỉnh giác (mindfulness) nhưng lại không xem đó là một phương pháp tu tập tâm linh mà chỉ nhắm vào những lợi ích cụ thể mà phép luyện tập này mang lại cho cuộc sống và xã hội của chúng tôi. Nhiều kỹ thuật luyện tập đã được rút tỉa hoặc vay mượn thẳng từ các phương pháp luyện tập thiền định của Phật giáo.Vậy với tư cách là một vị Thầy giảng dạy Phật giáo được xem là nổi tiếng nhất thế giới ngày nay, Ngài nghĩ thế nào về phong trào đang lên tại Tây Phương về phép luyện tập tâm linh tỉnh thức của Phật giáo đã có từ ngàn năm?
There are a growing number of people in the West who are doing mindfulness meditation not as a spiritual practice but because it has concrete benefits for their lives and our society. Many of the techniques are derived from or similar to Buddhist meditation. As perhaps the world’s best-known Buddhist teacher, what do you think of the secular mindfulness movement?
Đức ĐLLM: Những người tu tập Phật giáo nói chung, nhất là đối với những người bước theo con đường Đại Thừa (Mahayana) như chúng tôi, đều một lòng nguyện cầu sao cho tất cả chúng sinh đều được hạnh phúc. Nếu thật lòng quan tâm đến niềm an vui của kẻ khác, thì các bạn sẽ không có lý do gì để nghĩ đến là mình sẽ khai thác, chà đạp hay lường gạt họ, đấy là vì các bạn lúc nào cũng chỉ một lòng lo lắng cho sự an vui của họ mà thôi. Nói chung sự ý thức đó về niềm an vui của kẻ khác chính là một cách bộc lộ tình thương yêu và lòng nhân ái bên trong chính mình.
Buddhists in general, and particularly we followers of the Mahayana path, pray for the happiness of all sentient beings. If you have genuine concern for the well-being of others, then there’s no way you will exploit them, bully them, or cheat them, because you care seriously about their well-being. Generally speaking, this sense of concern for others’ well-being means love or affection.
Hiện nay ít nhất có bảy tỉ người trên hành tinh này, và mỗi chúng ta thì đều phải trực tiếp hay gián tiếp liên kết với họ. Tương lai của chúng ta lệ thuộc vào sự an lành của bảy tỉ chúng sinh ấy, vì thế nếu nhận thấy mình có một khả năng nào đó có thể góp phần vào sự an vui của nhân loại thì không nên do dự.
There are now at least seven billion human beings on this planet, and we are connected—directly or indirectly—with them. Our future depends on the well-being of all seven billion human beings, and if we have some way to make a contribution to the well-being of humanity, we should do it.
Trong số bảy tỉ người, khoảng sáu tỉ tin vào tôn giáo và khoảng một tỉ không tin vào tôn giáo. Thiền định phát sinh từ tôn giáo, và nếu mọi người tìm thấy lợi ích [thiết thực và cụ thể] mang lại từ con đường tu tập đã có từ ngàn năm [của Phật giáo] thì cũng là điều tốt thôi. Tương tự như trường hợp của phép luyện tập du-già, tuy cũng phát sinh từ một tôn giáo, thế nhưng ngày nay thì lại được sử dụng như một phương tiện mang lại sức khỏe. Phép thiền định về tâm linh tỉnh thức (mindfulness meditation) giúp cho tâm thức trở nên sắc bén và làm gia tăng khả năng xét đoán (câu này vô cùng quan trọng: phép luyện tập tâm linh tỉnh thức hay sự chú tâm tỉnh giác - vipassana hay satipatthana - còn gọi là "chánh niệm" chỉ là giai đoạn đầu của việc hành thiền, tức là mang lại sự sáng suốt và tỉnh táo cho tâm thức. Giai đoạn tiếp theo là sử dụng sự sáng suốt đó để quán thấy bản chất vô thường, khổ đau và vô thực thể của mọi hiện tượng cấu hợp để buông bỏ chúng. Giai đoạn thứ hai này mới thật là chủ yếu và gay go, thực hiện được giai đoạn này mới thật sự mang lại được sự giải thoát. Một tâm linh tỉnh thức hay "chánh niệm" chỉ là những bước đầu trên con đường. Sự giải thoát thật sự còn rất xa, ở tận cuối con đường). Các phẩm tính này quả vô cùng hữu ích trong bối cảnh ngày nay. Theo tôi thực hiện được điều này cũng hết sức tốt (đối với bối cảnh xã hội xô bồ ngày nay, thực hiện được giai đoạn tỉnh thức/"chánh niệm" cũng có thể cải thiện cuộc sống của mình rất nhiều).

(Thiền định ngày càng phổ biến rộng rãi trong thế giới Tây phương, trong các bệnh viện, trường tiểu học và cả đại học, cho đến các trung tâm dạy thiền mà mọi người ở các tầng lớp khác nhau đều có thể tham dự nhằm mục đích mang lại cho mình sức khỏe tinh thần và thể xác. Điều đó cho thấy dấu hiệu Phật giáo bắt đầu ăn sâu vào các xã hội Tây phương, thế nhưng đồng thời cũng nói lên một sự thích nghi lệch lạc của Giáo Huấn Phật giáo với các xã hội thực tế và thực dụng của phuơng Tây. Nếu nhìn trở lại Á Châu thì chúng ta cũng sẽ thấy qua lịch sử phát triển của Phật giáo đã từng xảy ra không biết bao nhiêu các hình thức lệch lạc như thế với mục đích thích nghi với các tập quán và các nền văn hóa khác nhau. Thiết nghĩ chúng ta nên nhìn vào các hình thức với ít nhiều lệch lạc đó - dù là ở phương Tây hay phương Đông - như là các "phương tiện thiện xảo" mà thôi. Dầu sao thì xã hội, văn hóa và tư tưởng con người luôn biến đổi, đó là sự tiến hoá tự nhiên của toàn thể nhân loại, vậy nếu cứ khư khư giữ nguyên một số các hình thức "thích nghi" trong quá khứ nay đã lỗi thời, chẳng hạn như trường hợp của một số các nước Á Châu, thì đấy là cách khiến Phật giáo ngày càng bị tách rời với xã hội).
Out of the seven billion human beings, about six billion are religious believers and about one billion are nonbelievers. Meditation comes out of the religious tradition, but if people find it helpful to use it in a secular way, that is very good. It is like yoga, which also comes from a religious tradition but is now used to improve health. Mindfulness meditation sharpens the mind and increases your ability to investigate. That’s actually very useful. I think it is very good.
MM: Nhằm thay cho lời kết luận xin Ngài cho biết vì sao Ngài lại được quảng đại quần chúng mến mộ đến thế. Theo tôi thì có thể là vì Ngài được mọi người xem là mang nhiều phẩm tính tích cực nhất trên toàn thế giới. Vậy những điều giáo huấn nào của Ngài hay là những gì phản ảnh từ bản thân Ngài đã khơi động được sự mến mộ đó mà tôi dám nói là của hàng tỉ người?
I want to conclude by asking you about your global popularity. I think you may be the most positively viewed person in the entire world. What is it about your teachings or personality that literally billions of people respond to?
Đức ĐLLM: Mỗi khi tiếp xúc hay thuyết giảng thì tôi luôn ý thức thật mạnh đến một điều là tất cả chúng ta cũng đều là những con người như nhau. Có thể là vì tôi từng phải đối đầu với nhiều khó khăn trong cuộc đời tôi, và nhờ đó tôi đã đạt được một số kinh nghiệm có thể ích lợi cho kẻ khác. Thật vậy tất cả chúng ta cũng chỉ như nhau (mỗi người đều có những khó khăn của mình - nghiệp của mình). Mỗi khi thuyết giảng tôi không bao giờ nghĩ rằng mình là một thứ gì đó ngoại lệ, một vị Lạt-ma chẳng hạn. Mỗi khi nói chuyện trước đông đảo quần chúng tôi không bao giờ tự nhận mình là một người Phật giáo. Nhất định không. Tất cả đều như nhau. Chúng ta chỉ là những con người thế thôi.
When I meet people or give teachings, I always emphasize that we are all the same as human beings. Perhaps I have had difficulties in my life, and so I may have some experience that could be useful to others. Otherwise, we are the same. When I give teachings I never emphasize that I’m something special, that I’m the Dalai Lama. When I give a public talk, I never consider that I’m a Buddhist. No. Same. We are same human being.
Điều đó sẽ tức khắc mang tất cả chúng ta đến gần với nhau hơn. Nếu tôi tỏ ra mình là một nhân vật nào đó - chẳng hạn như nói lên "Tôi là vị Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV" - thì tự động một sự cách biệt sẽ hiện ra. Nếu tôi tự cho mình là một nhân vật đặc biệt thì đấy cũng chỉ là cách tự lừa dối mình. Đôi khi người Tây Tạng tỏ bày sự quý mến đối với tôi với ít nhiều nghi thức. Quả thật tôi không thích điều đó tí nào.

Chấp nhận hay không một đức tin tôn giáo nào đó thì đấy là chuyện cá nhân. Thế nhưng một khi đã bước theo một tôn giáo nào thì phải nghiêm túc và thành thật.
So immediately that brings us closer. If I stress that I am a special person—I say, “I’m the Fourteenth Dalai Lama [laughs]—that automatically creates distance. If I pretend I am something very special, that is fooling myself. Sometimes among Tibetan people there is a little bit of formality toward me. That I don’t like.
Tôi liên tưởng đến trường hợp của Đức Phật và cảm thấy Ngài là một con người vô cùng bình dị. Ngài đi khất thực cùng với các đệ tử của mình, và tôi nghĩ rằng thường thì Ngài đi chân đất. Có một lần ở Thái Lan tôi được gặp một nhà sư và học giả lỗi lạc Buddhadasa. Tôi trông thấy vị này ngồi trên một tảng đá dưới bóng mát của một cây cổ thụ, đang thuyết giảng cho các đệ tử của mình. Vị Thầy lừng danh đó, cũng không khác gì như Đức Phật và nhà sư Nagarjuna (Long Thụ) trước kia, tất cả đã đưa ra những lời thuyết giảng vô cùng quý giá trong cùng một khung cảnh đơn sơ như thế. Các vị Lạt-ma Tây Tạng, trong đó có cả tôi, thì ngồi trên ngai cao, trang trí cầu kỳ, và thuyết giảng thì đôi khi vẫn còn lầm lẫn [Ngài bật cười].
I think of the Buddha himself. I feel he was a very ordinary person. When he went out with a group of monks to beg, I think in many cases he went without shoes. One time in Thailand, I met a great monk and scholar named Buddhadhasa. I saw a big tree with a rock under it—this was his seat where he gave teachings to his followers. These great teachers, like the Buddha or Nagarjuna, gave precious teachings in such an ordinary way. We Tibetan lamas, including myself, have high, decorated thrones, but maybe our teaching is sometimes mistaken. [Laughs]
MM: Vậy Thưa Ngài, trước khi chấm dứt Ngài có lời khuyên nào cho chúng tôi hay không?
Your Holiness, do you have a final message for us?
Đức ĐLLM: Tin vào tôn giáo hay không là chuyện cá nhân. Thế nhưng một khi đã bước theo một tôn giáo - dù là tôn giáo nào cũng vậy - thì phải nghiêm túc. Phải chân thật và không nên mong đợi quá nhiều (bước theo tôn giáo là một sự hy sinh, hy sinh thời giờ, sức khỏe và tiện nghi của mình cho kẻ khác. Mong chờ lợi lộc trong cuộc sống hiện tại, cũng như các sự "ưu đãi" và "tiện nghi" sau này nơi cõi thiên đường hay cực lạc là một sự ích kỷ và vô trách nhiệm).
Whether we accept a religious faith or not is up to the individual. But once we accept a spiritual tradition—any spiritual tradition—then we should be serious. We should be sincere and without too much expectation.
Chắc các bạn cũng hiểu, một khi đã bước theo con đường tâm linh thì phải hăng say và quyết tâm. Trên con đường đó dần dần các bạn sẽ đạt được các cảm nhận ngày càng sâu xa hơn (các cảm nhận sâu xa đó chính là niềm hạnh phúc tối hậu mà người tu tập đạt được trong kiếp sống này). Việc phát huy các khả năng tâm thần bao giờ cũng đòi hỏi nhiều thời gian - nào có phải là một bộ máy đâu (bấm nút hay bật lên là chạy ngay). Phải để ra hàng tuần, hàng tháng, hàng năm hay hàng chục năm.
You see, you should follow the spiritual path with will and determination. Then, gradually, you will have deeper and deeper experiences. Mental development takes time—it is not like a machine. It takes weeks, months, years, decades.
Vì thế tôi khuyên các anh, chị, em của tôi một khi đã bước theo một tôn giáo nào, thì phải nghiêm túc và thành thật (một lời khuyên vô cùng sâu sắc, vậy hãy nhìn vào chính mình và những người "chung quanh" mình thì sẽ hiểu rõ hơn về lời khuyên này).

Xin cám ơn tất cả.
So please, spiritual brothers and sisters, once you follow any tradition, then you should be serious and sincere. Thank you.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 1411 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tự lực và tha lực trong Phật giáo


Lược sử Phật giáo


Vì sao tôi khổ


Sống thiền

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 54.160.244.62 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Ngọc Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Thiện Diệu Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Văn Minh Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Thiền Khách Rộng Mở Tâm Hồn nước Rộng Mở Tâm Hồn Bui Tuyet Lan Rộng Mở Tâm Hồn Xuân Thôn Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Độ Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn Pháp Tâm Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Yduongvan Rộng Mở Tâm Hồn Trí Tuệ Từ Bi Rộng Mở Tâm Hồn Tiến Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Hoat Khong ... ...

Hoa Kỳ (410 lượt xem) - Việt Nam (128 lượt xem) - French Southern Territories (5 lượt xem) - Senegal (3 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Philippines (2 lượt xem) - Uzbekistan (1 lượt xem) - Kenya (1 lượt xem) - Anh quốc (1 lượt xem) - Hà Lan (1 lượt xem) - Mauritius (1 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - Algeria (1 lượt xem) - ... ...