Có người hỏi rằng: “Tự tánh Di-đà vốn sẵn đủ, chỉ một tâm 
					này chính là Tịnh độ hiện thành. Như vậy cần gì phải niệm 
					đức Phật kia để cầu sanh về cõi nước của ngài? Nếu niệm Phật 
					để cầu vãng sanh, hóa ra lại bỏ chỗ gần trong gang tấc mà 
					cầu về chốn xa xôi cách đây đến mười vạn ức cõi, chẳng phải 
					sai lầm lắm sao?
				  Nhất Nguyên này đáp: “Ông tuy nói ra lời duy tâm nhưng chưa 
					thấu đạt lẽ duy tâm. Thật là si mê lắm thay!
				  “Phải biết rằng: Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không 
					có tâm. Các quốc độ của chư Phật trong mười phương, từ hư 
					không cho đến vô số cảnh tượng, thảy đều là ở trong tự tánh 
					của chúng ta, há lại có pháp ở ngoài tâm hay sao?
				  “Kinh Lăng Nghiêm dạy rằng: ‘Hư không sanh trong tánh giác 
					chỉ như chút bọt nổi trên mặt biển.’ Lại dạy rằng: ‘Hết thảy 
					hư không mười phương sanh trong tâm, chỉ như một áng mây 
					điểm giữa bầu trời xanh bao la.’ Xét theo lẽ ấy thì mười vạn 
					ức cõi há gọi là xa xôi hay sao?
				  “Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: ‘Trong một câu gồm cả pháp giới 
					không cùng tận; trong một mảy lông chứa trọn cõi thế giới mà 
					không chật chội.’ Lý Trưởng giả nói: ‘Thế giới không cùng 
					tận, với ta cũng không cách một mảy lông. Xưa nay mười đời, 
					trước sau không lìa ý niệm hiện tại.’ Như vậy, cách nhau 
					mười vạn ức cõi há gọi là xa xôi hay sao? 
				  “Thuở xưa, đồng tử Thiện Tài đi một bước trong lỗ chân lông 
					của Bồ Tát Phổ Hiền mà vượt qua các cõi thế giới Phật nhiều 
					như số hạt bụi nhỏ, không thể nói hết. Lại đi tiếp nhiều 
					bước cũng vượt qua số thế giới như thế, trải qua vô số kiếp 
					cũng nhiều như thế, vẫn không biết được chỗ tận cùng của một 
					lỗ chân lông ấy! Thế thì mười vạn ức cõi có đáng gì! 
				  “Vậy phải biết rằng cái lý duy tâm vừa nói kia so với cái lý 
					duy tâm của ông có giống nhau chăng, hay là khác nhau?”
				  Người kia lại hỏi: “Đạo xưa nay không khác, lẽ nào có phân 
					hai sao?”
				  Đáp: “Đã biết như vậy, sao lại cố hạn cuộc cái lý duy tâm ấy 
					vào trong gang tấc? Cùng khắp pháp giới đâu chẳng là duy 
					tâm? 
				  “Xét lời ông nói đó chỉ là tùy theo lời nói của tôi, thật 
					chẳng có chỗ tri thức của riêng ông. Nếu ông thấu hiểu được 
					cái lý tâm nhiệm mầu sáng suốt, hẳn đã không rơi vào chỗ sai 
					lệch cạn kiệt, cũng chẳng cố chấp cho rằng pháp tham thiền 
					là đúng, cũng chẳng chê bỏ pháp niệm Phật mà cho là sai.
				  
				  “Nên biết rằng, tham thiền vốn do nơi tâm, niệm Phật cũng do 
					nơi tâm. Tham thiền là để thoát khỏi sanh tử; niệm Phật cũng 
					để thoát khỏi sanh tử. Tham thiền, niệm Phật cũng đồng một 
					lý. Nếu nói niệm Phật là không đúng, thì tham thiền cũng là 
					sai. Cái lý tham thiền, niệm Phật đã không rõ biết, mà lý 
					duy tâm cũng bế tắc, sao dám dối xưng là ngộ được lý duy 
					tâm?
				  “Chỗ duy tâm của Tịnh độ là thường vắng lặng sáng tỏ. Người 
					thật sự đạt đến chỗ vắng lặng sáng tỏ ấy thì không nắm giữ 
					bên này, cũng chẳng vướng mắc bên kia; nơi nào cũng là Tây 
					phương, chốn nào cũng là Tịnh độ; có thể hóa mặt đất thành 
					vàng ròng, biến dòng sông thành sữa ngọt; nói ra mỗi lời đều 
					trọn vẹn, thực hành mỗi việc đều là Phật sự. Đạt đến cảnh 
					giới ấy, chỉ riêng có Phật mới rõ biết mà thôi, ngoài ra 
					chẳng còn ai biết được. 
				  “Kinh Pháp Hoa dạy rằng: 
				  Hàng Bồ Tát bất thối.
				  Nhiều như cát sông Hằng.
				  Cùng hết lòng dốc sức.
				  Cũng không thể rõ biết. 
				  “Chỉ riêng Phật với Phật mới đủ sức rõ biết, huống chi bọn 
					chúng ta đây chỉ là những kẻ phàm phu thấp kém? 
				  “Nếu đạt đến cảnh giới vắng lặng sáng tỏ ấy thì không còn 
					một pháp nào có thể chứng đắc, làm gì có Tịnh độ để sanh về? 
					Chẳng những không có Tịnh độ, mà tự tâm cũng không thể chứng 
					đắc. Chỗ không chứng đắc này cũng không thể chứng đắc, huống 
					chi lại có thể chấp rằng tự tánh vốn Di-đà, ngay nơi tâm này 
					là Tịnh độ hay sao? 
				  “Vì thế, tuy mỗi người đều có tự tánh Di-đà, ngay nơi tâm 
					này là Tịnh độ, nhưng nếu chưa đạt đến cảnh giới ấy thì 
					không thể nói ra lời ấy.
				  “Nay tôi hỏi lại ông: Ông có nhìn thấy cõi thế giới Ta-bà 
					này là vàng ròng với hoa sen bằng bảy báu hay chăng? Hay là 
					một cõi toàn hầm hố, đá gạch, gai gốc? Thấy hết thảy những 
					cảnh giới Lục đạo, Tứ sanh, Tam đồ, Bát nạn đều là chỗ chư 
					Phật hưởng sự an vui hay chăng? Hay là những chốn chúng sanh 
					chịu khổ? 
				  “Cõi nước của đức Phật A-di-đà kia là không thể nghĩ bàn, 
					hào quang chiếu sáng không thể nghĩ bàn, thọ mạng dài lâu 
					không thể nghĩ bàn, đức từ bi không thể nghĩ bàn, nguyện lực 
					không thể nghĩ bàn, trí huệ không thể nghĩ bàn, Tam-muội 
					không thể nghĩ bàn, biện tài không thể nghĩ bàn, phân thân 
					không thể nghĩ bàn, thuyết pháp không thể nghĩ bàn, cứu độ 
					chúng sanh không thể nghĩ bàn; y báo và chánh báo đều trang 
					nghiêm, mọi sự đều đầy đủ. 
				  “Như các ông hiện nay có được đầy đủ như vậy hay chưa? Nếu 
					chưa thì hãy mau mau chí thành lễ Phật, niệm Phật cầu sanh 
					Tịnh độ. Vì sao vậy? Nếu ôm giữ sự mê muội sai lệch mà tu 
					hành thì khác nào người què đi bộ, mỗi ngày không quá một 
					hai dặm dường. Còn như lễ Phật, niệm Phật cầu vãng sanh, ví 
					như kẻ cưỡi thuyền xuôi theo dòng nước, lại thêm sức gió 
					thổi xuôi, chỉ trong giây lát vượt qua ngàn dặm. Lại như kẻ 
					hèn yếu đi theo vua Chuyển luân, chỉ trong một ngày đêm đi 
					khắp bốn cõi thiên hạ; đó chẳng phải nhờ sức mình, mà là nhờ 
					sức của vua Chuyển luân. Lại như người lâm nạn ở cửa quan, 
					nếu tự mình không đủ sức ra khỏi, ắt phải cậy người có thế 
					lực cứu giúp. Lại như kẻ khuân vác vật nặng, nếu tự mình 
					không làm nổi ắt phải mượn nhiều người giúp sức mới có thể 
					dời đi được. Lễ Phật, niệm Phật cầu sanh Tịnh độ cũng giống 
					như vậy.
				  “Thiền sư Vĩnh Minh Thọ có nói rằng: ‘Chỉ một pháp thiền 
					định là gốc của Bốn biện tài, Sáu thần thông, chính là nhân 
					duyên bỏ phàm theo thánh. Chỉ thâu nhiếp được tâm niệm một 
					đôi lúc cũng đáng gọi là việc lành cao cả, nhưng cần phải 
					sáng tỏ những lúc nặng nề u ám, rõ biết hơi thở ra vào.’
				  
				  “Cho nên kinh dạy rằng: ‘Như lúc ngồi thiền mà mê muội u ám, 
					cần phải đứng dậy đi quanh lễ Phật, niệm Phật, hoặc chí 
					thành sám hối để hóa trừ nghiệp chướng nặng nề. Cần phải 
					sách tấn thân tâm, chớ nên cố chấp riêng một pháp môn mà cho 
					đó là cứu cánh.
				  “Có kẻ niệm Phật tụng kinh mà được giải thoát; có người lễ 
					Phật sám hối mà được giải thoát. Có kẻ nhờ thấy hào quang 
					Phật mà được giải thoát; có người nhờ cúng dường Tam bảo mà 
					được giải thoát. Có kẻ chiêm ngưỡng hình dung Phật mà được 
					giải thoát; có người lại nhờ tô vẽ tượng Phật mà được giải 
					thoát. Có kẻ nhờ bố thí, làm lành mà được giải thoát; có 
					người khuyên người khác niệm Phật mà được giải thoát. Có kẻ 
					tránh việc giết hại, thường làm việc phóng sanh mà được giải 
					thoát; có người nhờ hết lòng nghe pháp mà được giải thoát.
				  
				  “Thế mới biết rằng, giáo pháp mênh mông như tấm lưới phủ 
					khắp không cùng tận, nhưng vừa khi thấu rõ liền quay về được 
					cội nguồn chân thật. Các pháp môn tu tập nhiều vô số như cát 
					bụi, nhưng dù theo pháp môn nào cũng đều được giải thoát. Ví 
					như kẻ đi đường xa, lấy sự đến nơi làm mục đích, chẳng cần 
					quan tâm đến những đoạn đường đi qua mà gượng phân khó dễ.
				  “Cho nên, kinh Pháp Hoa dạy rằng: ‘Cho đến kẻ dùng tâm tán 
					loạn mà niệm Phật, nhỏ giọng tán thán, hoặc dùng ngón tay mà 
					vẽ hình Phật, đùn cát làm tháp Phật, cũng lần hồi chất chứa 
					được công đức, cuối cùng đều thành Phật đạo.’ Huống chi 
					những người một lòng sáng suốt, tu tập đầy đủ muôn đức hạnh 
					lại chẳng thành Phật hay sao?
				  “Này các vị! Nếu muốn thấu rõ đạo lý tu hành trọn vẹn và 
					nhanh chóng, nên xem qua hai bộ kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. 
					Nếu không tu hành trọn vẹn, thật chỉ uổng xưng mình là Phật 
					tử! 
				  “Cho nên, ngài Từ Mẫn Tam Tạng có dạy rằng: ‘Theo lời Phật 
					dạy, người tu thiền định chân chánh là chế phục tâm ý vào 
					một nơi, niệm niệm nối nhau không dứt, lìa khỏi sự hôn muội 
					tán loạn, giữ tâm một cách bình đẳng. Như bị cơn buồn ngủ 
					che lấp, cần phải tự sách tấn chuyên cần niệm Phật tụng 
					kinh, lễ bái đi quanh tượng Phật, tụng kinh thuyết pháp, 
					giáo hóa chúng sanh, muôn hạnh đều làm đủ không bỏ sót. Hết 
					thảy những chỗ tu hành thiện nghiệp đều hồi hưỡng cầu được 
					vãng sanh Tây phương Tịnh độ. Nếu có thể tu tập thiền định 
					được như vậy thì đúng là pháp thiền định do Phật dạy, phù 
					hợp với chánh pháp, trở thành bậc nêu gương dẫn dắt chúng 
					sanh, được chư Phật ấn chứng.
				  “Hết thảy pháp Phật đều không có sự khác biệt, thảy đều 
					nương theo chỗ nhất như mà thành bậc giác ngộ chân chánh rốt 
					ráo. Tất cả các pháp đều dạy rằng: ‘Niệm Phật là nhân lành 
					chân chánh của Bồ-đề’, sao có thể mê lầm khởi sanh tà kiến?
				  “Đời nay có một hạng người si mê lầm lạc, kinh điển giáo 
					pháp không hiểu rõ, cửa huyền diệu chẳng thấu qua, nhân quả 
					không biết, tội phước chẳng sợ. Thế mà cũng ra vẻ người cao 
					cả, lên mặt thiện tri thức! Đạo lý tu hành trọn vẹn không 
					thông đạt, chỉ dạy người ngậm miệng không nói, khiến cho kẻ 
					hậu học như đui, như điếc, ai nấy đều sa vào chỗ vướng mắc 
					thức tình phân biệt.
				  “Những kẻ ấy thấy người khác lạy Phật, niệm Phật, tụng kinh, 
					giảng pháp, rộng làm đủ mọi điều lành thì phản bác chê bai, 
					bảo đó là tu hành chấp tướng, càng cầu lại càng xa, không 
					bằng giữ lấy một mối niệm, chẳng cần gắng sức mà tự thân 
					hiện thành Di-đà, cần chi phải cầu sanh về cõi Tịnh độ 
					phương khác?
				  “Hạng người như vậy thật đáng thương hại đau xót, cũng thật 
					đáng chê cười. Vì nghe nói thì rất hay, nhưng hiểu thì chưa 
					thật hiểu. Những kẻ phàm phu căn tánh chậm lụt mà tu pháp 
					tham thiền, nếu chẳng rơi vào mê muội chìm đắm thì cũng là 
					tán tâm rối loạn. Trong một ngày chẳng biết được bao nhiêu 
					là vọng tưởng, bao nhiêu là chỗ bế tắc mê muội. May ra được 
					đôi lúc mạnh mẽ, rồi cũng trở lại hiện khởi ý thức. Sau khi 
					ra khỏi thiền định, lại đeo bám phụ thuộc ngoại cảnh, nhiễm 
					trước trần lao như xưa. Miệng bàn những chuyện thị phi, 
					trong lòng chưa dứt sự yêu ghét. 
				  “Những người tham thiền như vậy, đừng nói là chờ đến khi đức 
					Di-lặc ra đời mới mong được sáng rõ, mà dầu cho một ngàn đức 
					Phật có ra đời cả rồi cũng chưa có ngày được hiểu thấu. Sao 
					có thể nói rằng tự thân hiện thành Di-đà, cần chi phải cầu 
					sanh về Tịnh độ? Những kẻ đui mù ấy, khác nào như dân thường 
					dám tự xưng là quốc vương, tự mình chuốc lấy họa tru diệt!
				  “Lại có một hạng ngu si, tuy đến thiền đường tham học nhưng 
					chẳng rõ biết đường lối cách thức, chẳng trừ bỏ ba độc tham, 
					sân, si; thấy kẻ khác hơn mình thì sanh lòng ganh ghét; tự 
					mình không làm được nhưng chẳng biết mừng thay cho kẻ khác; 
					không học hỏi trong phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện, cũng không 
					học sách Vạn thiện đồng quy, chẳng biết Tám cửa vào đạo giải 
					thoát của bậc thánh, trở lại ngăn cản người khác lễ Phật, 
					niệm Phật; ngăn cản người khác tụng kinh, giảng pháp; ngăn 
					cản người khác cúng Phật, trai Tăng; ngăn cản người khác xây 
					chùa, tạc tượng; ngăn cản người khác bố thí kết duyên; ngăn 
					cản người khác rộng tu các điều lành. Hạng người ngỗ nghịch 
					ấy, chỉ mượn áo Phật mà mặc, trộm cơm Phật mà ăn, thật là 
					bọn Ma vương, ngoại đạo, gieo hạt giống địa ngục.
				  “Kìa như Pháp sư Vân Quang, có tài thuyết pháp, thường nhập 
					thiền định, mỗi khi nhập định chẳng còn biết đến năm tháng, 
					trong đời thật ít có. Chỉ vì chưa dứt được tham sân mà phải 
					đọa làm con trâu chạy rông khắp chốn. Huống chi bọn chúng ta 
					đây, khi tham thiền còn mê muội chìm đắm, tán tâm rối loạn, 
					sao dám trở lại khinh chê người lạy Phật, niệm Phật?
				  “Lại như ông Uất-đầu-lam-phất, căn tánh lanh lợi thông minh, 
					chế phục được phiền não, thần trí đã lên đến cảnh trời Phi 
					phi tưởng, là người hiếm có trong chốn nhân gian. Chỉ vì 
					chưa dứt tình chướng ngại, sau phải đọa làm giống chồn bay. 
					Ngăn ngại với cảnh bên ngoài còn như vậy, huống chi là ngăn 
					cản người khác lạy Phật, niệm Phật?
				  “Xem như Tỳ-kheo Thiện Tinh, có tài thuyết giảng đủ Mười hai 
					bộ kinh, chứng quả Tứ thiền. Chỉ vì thân cận bạn tà, vướng 
					mắc cố chấp vào lẽ không, nói bậy là không có Phật, không có 
					Pháp, không có Niết-bàn, về sau phải sanh vào địa ngục A-tỳ. 
					Chúng ta nghe chuyện ấy há chẳng rùng mình khiếp sợ, mau mau 
					sám hối đi sao?
				  “Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói rằng:
				  Chấp vào lẽ không,
				  Bác lý nhân quả,
				  Trong chốn mịt mù tự chuốc họa.
				  Bỏ có lấy không chẳng khỏi bệnh,
				  Khác nào tránh nước sa vào lửa!
				  “Chính là nghĩa ấy vậy.
				  “Kinh dạy rằng:
				  Chư Phật thuyết pháp không,
				  Vì độ người chấp có.
				  Nếu lại chấp vào không,
				  Chư Phật chẳng độ được.
				  Lại dạy rằng:
				  Thà chấp vào pháp có,
				  Lớn như núi Tu-di.
				  Chẳng nên chấp pháp không,
				  Dù nhỏ như hạt cải.
				  “Vì sao vậy? Thuở xưa có tỳ-kheo Tịnh Mạng tu tập theo chánh 
					kiến. Nhờ dâng hoa cúng Phật liền được thọ ký. Lại có một 
					tỳ-kheo khác tên là Pháp Hạnh, tuy chứng đắc Tứ thiền nhưng 
					theo tà kiến, vướng mắc nghiêng lệch theo lẽ không, lại gièm 
					pha Pháp sư Tịnh Mạng rằng: “Tịnh Mạng nhận hoa, chẳng biết 
					mang đi cúng dường, chỉ tự mình thọ hưởng.” Vì một lời nói 
					ấy mà trải qua sáu vạn kiếp, mỗi khi sanh ra đều không có 
					lưỡi!
				  “Phật dạy: ‘Lấy mắt dữ nhìn người phát tâm Bồ-đề, sẽ bị quả 
					báo không có mắt. Dùng miệng dữ chê bai người phát tâm 
					Bồ-đề, sẽ bị quả báo không có lưỡi.’
				  “Như ai cố chấp nghiêng lệch theo lẽ không mà tự cho là 
					phải, chê bai người tu các hạnh lành mà cho là sai trái, kẻ 
					ấy sẽ đọa địa ngục nhiều đến trăm ngàn kiếp. Vì sao vậy? Vì 
					đoạn dứt hạt giống Phật.
				  “Kinh Pháp Hoa dạy rằng: 
				  Như người tâm tán loạn.
				  Dù mang một cành hoa.
				  Cúng dường trước tượng Phật.
				  Sau gặp vô số Phật. 
				  “Lẽ nào đó lại là lời hư dối hay sao? 
				  “Kinh Tượng pháp quyết nghi có đoạn dẫn lời Phật dạy: Như có 
					người thấy người khác tu phước và bố thí cho kẻ bần cùng, 
					lại chê bai rằng: Đó là kẻ tà mạng, tìm cầu lợi danh. Thật 
					người xuất gia cần gì bố thí? Chỉ tu nghiệp thiền định trí 
					huệ, cần chi những việc lộn xộn vô ích ấy? Kẻ nào có ý 
					tưởng, lời nói như vậy, ắt là quyến thuộc của ma. Khi mạng 
					chung phải đọa địa ngục, chịu nhiều khổ não. Sau khi ra khỏi 
					địa ngục lại đọa làm ngạ quỉ liên tiếp qua năm trăm kiếp, 
					rồi sanh ra làm kiếp chó. Hết kiếp làm chó lại trải qua năm 
					trăm kiếp phải làm kẻ nghèo hèn, chịu nhiều nỗi khổ. Vì sao 
					vậy? Vì đời trước thấy người khác bố thí chẳng sanh lòng tùy 
					hỷ.
				  “Lại trong kinh Hộ khẩu có kể chuyện một ngạ quỉ kia, hình 
					trạng xấu xa ghê gớm, ai trông thấy cũng phải khiếp sợ. Toàn 
					thân quỷ có lửa dữ bốc ra, giống như một đám lửa; trong 
					miệng lại có giòi bọ bò ra, nhiều không biết bao nhiêu mà 
					kể; máu mủ dầm dề, mùi tanh hôi bay thấu ra xa. Ngạ quỷ ấy 
					kêu la, khóc lóc thảm thiết, chạy qua chạy lại bên này bên 
					kia, chẳng lúc nào được đứng yên.
				  “Lúc ấy, ngài La-hán Mãn Túc nhìn thấy hỏi rằng: ‘Đời trước 
					ngươi phạm tội gì mà nay phải thọ khổ như vậy?’
				  “Ngạ quỉ đáp: ‘Thuở trước tôi làm sa-môn, nói một lời ác 
					ngăn trở người khác tu thiện, nên nay phải chịu cảnh khổ như 
					thế này, chẳng biết làm sao thoát ra! Từ nay về sau tôi thà 
					lấy dao cắt lưỡi mình đi chứ không dám ngăn trở người khác 
					làm việc lành nữa! Khi Tôn giả trở về cõi Diêm-phù-đề, nên 
					đem hình trạng của tôi mà răn nhắc các vị tỳ-kheo, dạy các 
					đệ tử: Nếu thấy người khác tu tập hạnh lành, dầu nhỏ như sợi 
					tóc mảy lông, cũng nên vui mừng tán trợ, đừng chê bai cản 
					trở. Từ khi tôi bị đọa làm thân quỉ tới nay, đã vài ngàn 
					muôn kiếp thọ khổ. Dẫu cho thoát khỏi thân quỉ, lại phải sa 
					vào địa ngục!’ Nói xong mấy lời ấy, ngạ quỉ lại khóc lóc, 
					gieo mình xuống đất.
				  “Ai nghe chuyện ấy mà chẳng thấy lạnh mình? Chỉ nói ra một 
					lời ác, bao kiếp phải làm thân ngạ quỉ chịu khổ! Chúng ta há 
					chẳng sợ tội hay sao mà dám làm chuyện quấy bậy? Đối với 
					việc lành, dầu nhỏ nhặt như sợi tóc mảy lông, cũng không 
					được chê bai bài bác, huống chi lại dám ngăn cản người khác 
					lạy Phật, niệm Phật hay sao? Phật dạy: ‘Ngăn cản người khác 
					tu thiện, tội ấy không thể tránh khỏi.’
				  Hàng Bồ Tát Đẳng giác ví như mặt trăng đêm mười bốn, nghĩa 
					là vẫn còn một phần vô minh chưa dứt hết, nhỏ yếu như làn 
					khói mỏng, cũng nhờ vào việc lễ Phật, sám hối để được trọn 
					vẹn quả Vô thượng Bồ-đề. Huống chi chúng ta đây, nghiệp nặng 
					phàm phu còn trói buộc, sao lại dám khinh chê việc lạy Phật, 
					niệm Phật hay sao? Cho đến đức Phật còn chẳng bỏ qua chút 
					phước xỏ kim, kẻ phàm phu há nên khinh chê việc lạy Phật, 
					niệm Phật?
				  “Thuở xưa, đức Thế Tôn Thích-ca miệng xưng tán đức Phật 
					Phất-sa, thân lễ bái đức Phật Phất-sa, như vậy trong suốt 
					bảy ngày bảy đêm, liền tức thời vượt qua chín kiếp tu tập. 
					Sao có thể nói đó là vướng mắc nơi hình tướng tìm cầu mà xa 
					đạo? Sao có thể nói rằng lạy Phật không thành Phật?
				  “Xưa có ba ngàn đức Phật khi còn là người phàm, kết bạn tu 
					học, một lúc cùng nhau xưng niệm, lễ bái năm mươi ba đức 
					Phật, nhờ đó mà cùng lúc thành đạo. Ba ngàn đức Phật xưa đã 
					như vậy, chư Phật trong mười phương cũng như vậy. Người đời 
					nay sao chẳng bắt chước đó mà tu hành, lại dám khinh chê 
					việc lạy Phật, niệm Phật?
				  “Vua A-xà-thế phạm vào Năm tội nghịch, sau nhờ biết lễ Phật 
					sám hối, liền được diệt tội, chứng quả. Ông Kiều-phạm-ba-đề 
					đời trước làm thân con bò, chỉ vì tìm theo chỗ có cỏ và nước 
					uống mà đi quanh về bên phải một ngôi tinh xá, nhân đó được 
					thấy thân tướng tốt đẹp của Phật, sáng rực như vàng ròng, 
					liền sanh ra một niệm hoan hỷ, nhờ đó về sau được chuyển 
					kiếp làm người và tu hành chứng đạo. Loài vật còn được vậy, 
					huống chi con người lạy Phật, niệm Phật lại chẳng thành Phật 
					hay sao?
				  “Thuở xưa có hai vị Thiên đế thọ mạng nơi cõi trời sắp dứt, 
					biết trước rằng một vị sẽ đầu thai làm lừa, một vị sẽ đầu 
					thai làm heo. Cả hai đều lo sợ chẳng yên, tìm đến lễ Phật 
					cầu cứu. Phật dạy hai vị qui y Tam bảo, liền được thoát khỏi 
					nạn khổ kia. Về sau, hai vị ấy tin kính Tam bảo, tinh cần tu 
					tập, chứng được đạo quả.
				  “Kinh Đại Bát Niết-bàn dạy rằng: ‘Ai nghe được hai tiếng 
					Thường trụ thì trong bảy kiếp khỏi đọa địa ngục.’ Huống chi 
					là công đức của việc lễ bái, niệm Phật? Như vậy, đối với Tam 
					bảo có thể nói là:
				  Nghe danh, thấy tướng, diệt vô số tội,
				  Lễ niệm, qui y, tăng vô lượng phước.
				  “Há chẳng nên vâng theo lời Phật Tổ hay sao? Há nên làm 
					những chuyện sai quấy hay sao?
				  “Kinh Nghiệp báo sai biệt dạy rằng: ‘Lễ Phật một lạy thì từ 
					gối cho chí đỉnh đầu, mỗi một hạt bụi là một ngôi vị Chuyển 
					luân vương. Lại còn được mười công đức: 
				  1. Được thân tướng tốt đẹp, tiếng nói trong trẻo; 
				  2. Lời nói ra được người khác tin cậy.
				  3. Sống giữa đại chúng không sanh tâm lo sợ.
				  4. Được chư Phật hộ niệm.
				  5. Có đủ oai nghi lớn.
				  6. Được mọi người thân cận, tùng phục; 
				  7. Được chư thiên yêu mến, kính trọng; 
				  8. Có đủ phước đức lớn; 
				  9. Sau khi mạng chung sẽ được vãng sanh; 
				  10. Mau chóng chứng đắc Niết-bàn. 
				  “Chỉ một lạy còn được công đức như vậy, huống chi là nhiều 
					lạy?
				  “Kinh Pháp Hoa dạy rằng: 
				  Như có người lễ bái.
				  Cúng dường trước tượng Phật 
				  Bằng cách chắp hai tay.
				  Hoặc đưa một tay lên 
				  Hoặc cúi đầu cung kính.
				  Sẽ gặp vô số Phật.
				  Rồi tự thành Phật đạo.
				  Rộng độ khắp chúng sanh. 
				  “Lẽ nào đó lại là lời hư dối hay sao?
				  “Trong kinh Thập lục quán có nói: ‘Chí thành niệm một tiếng 
					Nam-mô A-di-đà Phật diệt được tội nặng trong tám mươi ức 
					kiếp sanh tử... Những kẻ phạm vào Năm tội nghịch, Mười điều 
					ác, lúc lâm chung chỉ niệm được mười lần Nam-mô A-di-đà Phật 
					cũng được vãng sanh Tịnh độ.’ Huống chi những người ăn chay 
					niệm Phật lâu năm?
				  “Thuở xưa, Trương Thiện Hòa suốt đời giết bò, đến khi lâm 
					chung thấy tướng địa ngục hiện ra. Bỗng gặp một thầy tăng 
					dạy niệm Phật A-di-đà. Niệm chưa dứt mười lần, đã được thấy 
					Phật đến tiếp dẫn, vãng sanh Tịnh độ. Há chẳng phải là sức 
					Phật khó lường đó sao?
				  “Kinh Địa Tạng dạy rằng: ‘Nếu có người vào lúc mạng chung 
					được nghe danh hiệu một đức Phật, danh hiệu một đức Bồ Tát, 
					hoặc một câu kinh, một bài kệ, liền được sanh về cảnh giới 
					tốt đẹp, thoát mọi khổ não.’
				  “Này các vị! Chỉ được nghe thôi mà có nhiều lợi ích như thế, 
					huống chi là công đức của việc trì niệm?
				  “Kinh dạy rằng: ‘Như có người đem vật tứ sự rất tốt mà cúng 
					dường cho tất cả các vị A-la-hán và Phật Bích-chi trong khắp 
					cõi Tam thiên Đại thiên thế giới này, công đức ấy cũng không 
					bằng người chắp tay xưng danh Phật một lần. Công đức xưng 
					danh Phật nhiều hơn gấp trăm ngàn vạn ức lần, dầu cho có 
					dùng bao nhiêu cách tính toán, tỷ dụ cũng không nói hết.’
				  
				  “Công đức xưng danh Phật một lần còn vậy, huống chi là niệm 
					hoài chẳng dứt?
				  “Kinh Pháp Hoa dạy: ‘Những ai đã một lần xưng niệm Nam-mô 
					Phật, về sau đều sẽ thành Phật đạo.’ Lẽ nào lại là lời hư 
					dối hay sao?
				  “Kinh Nghiệp báo sai biệt dạy rằng: ‘Người lớn tiếng niệm 
					Phật tụng kinh sẽ được mười công đức: 
				  1. Trừ được sự buồn ngủ; 
				  2. Khiến thiên ma kinh sợ; 
				  3. Tiếng niệm vang khắp mười phương; 
				  4. Dứt mọi sự khổ trong Ba đường ác; 
				  5. Âm thanh từ ngoài chẳng vào được;
				  6. Lòng không tán loạn; 
				  7. Dũng mãnh, tinh tấn; 
				  8. Chư Phật hoan hỷ; 
				  9. Tức thời chứng đắc Tam-muội; 
				  10. Được vãng sanh Tịnh độ. 
				  “Nhờ niệm Phật tụng kinh mà được thành Phật, há nên cho đó 
					là vướng mắc nơi tướng mà tìm cầu hay sao? Há nên khinh chê 
					đó là việc nhỏ mọn hay sao?
				  “Vào thuở xa xưa, trong hàng cao tăng sáng suốt, có nhiều vị 
					chuyên trì kinh Hoa Nghiêm, hoặc chuyên trì kinh Pháp Hoa, 
					hoặc chuyên niệm Phật A-di-đà, thảy đều được vãng sanh Tịnh 
					độ, thẳng tới quả vị Phật. Há có thể cho rằng tụng kinh niệm 
					Phật là việc nhỏ nhặt, là vướng mắc nơi hình tướng hay sao?
				  “Xưa có người đàn bà muốn trì tụng kinh A-di-đà mà không 
					thuộc, chỉ niệm mãi bốn câu: 
				  Hoa sen xanh thơm.
				  Hoa sen trắng thơm.
				  Hoa trên cây thơm.
				  Quả trên cây thơm.
				  “Nhờ công đức niệm bốn câu lệch lạc ấy mà được vãng sanh 
					Tịnh độ, huống chi người tụng đọc thông suốt trọn bộ kinh mà 
					chẳng được vãng sanh hay sao?
				  “Pháp sư Đàm Dực vốn đời trước làm thân chim trĩ, nhờ nghe 
					một vị tăng tụng kinh Pháp Hoa, liền được chuyển kiếp làm 
					người, xuất gia tu hành chứng đạo. Huống chi tự mình tụng 
					kinh thuyết pháp lại chẳng thành Phật được sao?
				  “Xưa có một con vẹt và hai con sáo học nói, niệm câu Phật 
					hiệu A-di-đà, nhờ đó mà được vãng sanh Tịnh độ. Loài vật còn 
					như thế, huống chi con người niệm Phật lại chẳng được vãng 
					sanh hay sao?”
				  Người kia lại hỏi rằng: “Ngài nói việc vãng sanh đó, có gì 
					làm bằng cứ hay chăng?”
				  Nhất Nguyên này đáp rằng: “Ông không biết sao, trong bài kệ 
					phát nguyện của đức Phật A-di-đà có nói rằng:
				  Vào khi ta thành Phật,
				  Danh vang khắp mười phương.
				  Người, trời vui được nghe,
				  Đều sanh về cõi ta.
				  “Lại cũng nói rằng:
				  Địa ngục, quỷ, súc sanh,
				  Đều sanh về cõi ta.
				  “Lẽ nào đó lại là lời hư dối hay sao?
				  “Sách Kim cang khoa nghi dạy rằng: ‘Con chồn còn nghe pháp 
					nơi ngài Bách Trượng, loài ốc còn biết giữ gìn bảo vệ kinh 
					Kim cang, mười ngàn con cá nghe danh hiệu Phật sanh về cõi 
					trời; năm trăm con dơi được nghe pháp đều thành bậc thánh 
					hiền, con trăn nghe bài sám được sanh về cõi trời, con rồng 
					nghe pháp mà ngộ đạo. Loài vật kia còn có thể nhận hiểu, 
					giác ngộ, huống chi con người sao chẳng biết hồi tâm? 
				  “Có kẻ mê say việc ăn uống mà uổng phí một đời; có người tu 
					hành nhưng lầm lạc, không tỉnh ngộ ý đạo. Những người như 
					vậy, há có thể cho rằng giảng kinh thuyết pháp là việc nhỏ, 
					là vô ích hay sao? Chẳng thấy trong kinh Pháp Hoa có dạy 
					rằng: ‘Những ai nghe được dù chỉ một bài kệ trong kinh này, 
					đều chắc chắn sẽ được thành Phật. Những ai được nghe Chánh 
					pháp, đều đã thành tựu đạo Phật. Không có một người nào được 
					nghe Chánh pháp mà không thành Phật.’ Lẽ nào đó lại là lời 
					hư dối hay sao?
				  “Ôi! Loài vật nghe pháp còn được chứng quả, huống chi loài 
					người lễ Phật, tụng kinh, giảng pháp, rộng tu các việc lành 
					mà chẳng thành Phật hay sao?
				  “Nay tôi xin đơn cử một số trường hợp để trừ dứt sự nghi ngờ 
					của các ông. Ngài Phổ Am xem kinh Hoa Nghiêm mà ngộ đạo, 
					ngài Vĩnh Gia đọc kinh Niết-bàn được sáng rõ tâm ý; ngài 
					Khuê Phong xem kinh Viên Giác được khai thông tâm ý; ngài 
					Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa thấy hội Linh Sơn chưa dứt! Lợi 
					ích như thế, há có thể khinh chê giáo pháp được sao? 
				  “Kinh Pháp Hoa dạy rằng: ‘Như người bố thí cúng dường cho 
					tất cả chúng sanh trong bốn trăm ngàn a-tăng-kỳ thế giới, 
					mãi cho đến khi những chúng sanh ấy đều được chứng đắc quả 
					A-la-hán, dứt hết phiền não, vào sâu trong thiền định, thảy 
					đều được thần thông tự tại, đầy đủ tám môn giải thoát. Như 
					thế cũng không bằng công đức của người thứ năm mươi được 
					nghe lặp lại một bài kệ trong kinh Pháp Hoa mà khởi lòng vui 
					theo. Công đức của người này nhiều hơn gấp trăm ngàn vạn ức 
					lần. Được nghe một câu kệ, khởi lòng vui theo mà công đức 
					còn không thể nghĩ bàn, huống chi là trì tụng trọn bộ kinh?
				  “Trong bài phú Hoa nghiêm cảm ứng có đoạn: ‘Người nào được 
					nghe bảy tiếng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh thì 
					không còn đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la.’ 
					Huống chi là công đức trì niệm kinh?
				  “Thuở xưa, có một vị tăng chuyên trì kinh Hoa Nghiêm. Một 
					hôm, Thiên đế đặc biệt tìm đến thỉnh trai. Pháp sư được mời 
					lên Thiên cung, ngồi nhập định. Giây lát, có năm trăm vị 
					La-hán từ trên không bay đến, tụ tập trước điện. Sư muốn 
					xuống tòa nghênh tiếp, nhưng Thiên đế thưa rằng: Dụng ý trai 
					tăng hôm nay chỉ một mình ngài thôi, chỉ là tiện dịp nên 
					thỉnh cả năm trăm vị La-hán. Ngài trì kinh Hoa Nghiêm là 
					cảnh giới của Phật, lẽ đâu vì hàng tiểu thánh mà xuống tòa 
					hay sao? Vị tăng ấy thọ trai xong liền bay được lên không 
					trung, ngay lúc ấy được thoát phàm, chứng thánh.
				  “Lại có một vị tăng khác cũng thọ trì kinh Hoa Nghiêm. Thiên 
					đế đang đánh nhau với A-tu-la, đặc biệt thỉnh ngài lên tòa 
					tụng kinh. Ngài bay lên không trung mà đến, liền khiến cho 
					Thiên đế chiến thắng, A-tu-la hoảng sợ chạy trốn vào một lỗ 
					trống bên trong ngó sen. Thiên đế mừng vui, muốn dâng lên 
					ngài món thuốc trường sanh. Sư quở trách rằng: ‘Phật đạo vô 
					thượng chẳng chịu tu, dùng thuốc trường sanh há lại khỏi 
					chết hay sao?’ 
				  “Như vậy, lẽ nào có thể cho rằng tụng kinh là việc nhỏ nhặt 
					hay sao?
				  “Sách Tây vực ký có chép rằng: ‘Một vị tăng người Thiên Trúc 
					cầm quyển kinh Hoa Nghiêm trên tay, sau đó xối nước rửa tay, 
					nước ấy chảy trôi một con kiến. Con kiến chết, liền được 
					sanh lên cõi trời.
				  “Vào thời đức Phật còn tại thế, trong ao Ca-la có một con 
					hến, nghe Phật thuyết pháp rồi cũng được sanh lên cõi trời.
				  
				  “Như vậy, lẽ nào có thể cho rằng đọc kinh giảng pháp là vô 
					ích hay sao? Niệm Phật lại chẳng sanh về Tịnh độ hay sao?
				  “Nay xin dẫn thêm mấy câu để làm bằng chứng, dứt hẳn sự nghi 
					ngờ. Kinh dạy rằng chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở 
					khắp các cõi trong mười phương, mỗi vị đều ở nơi thế giới 
					của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả thế giới Tam 
					thiên Đại thiên, nói ra lời chân thật, cùng nhau xưng tán 
					đức công đức không thể nghĩ bàn của đức Phật A-di-đà, cũng 
					như cõi nước trang nghiêm thù thắng của ngài.
				  “Các vị Đại Bồ Tát trong mười phương còn niệm danh hiệu đức 
					Phật A-di-đà, nguyện được sanh về thế giới của ngài, huống 
					chi là hạng phàm phu ngu muội như chúng ta?
				  “Vào thời đức Phật còn tại thế, có các ngài Văn-thù, Phổ 
					Hiền. Sau khi Phật diệt độ, có các ngài Mã Minh, Long Thọ. 
					Trên hội Hoa Nghiêm có Tỳ-kheo Đức Vân, trên hội Lăng Nghiêm 
					có Bồ Tát Thế Chí. Tại Đông độ này có các vị tổ sư như Viễn 
					Công, Pháp Trí... các vị pháp sư như Từ Ân, Thiếu Khương, 
					Hoài Cảm, Thảo Đường, Cô Sơn, Tông Thán, Nghĩa Uyên, Viên 
					Biện Thâm... các vị đại sư như Tỉnh Thường, Trung Quốc... 
					các vị thiền sư như Hoài Ngọc, Đạo Xước, Nguyên Tín, Vạn 
					Niên Nhất, Trương Lô Trạch, Thiên Y Hoài, Viên Chiếu Bổn, 
					Vĩnh Minh Thọ... các vị hòa thượng như Đạo An, Thiên Như Duy 
					Tắc, Thiện Đạo... các vị luật sư như Đại Trí, Trung Phong... 
					Lại còn có Quốc sư Phổ Ứng, Tông chủ Phổ Độ Ưu Đàm, Sám chủ 
					Từ Vân và mười tám vị đại hiền núi Lư Sơn. 
				  “Các vị Phật, Tổ và tri thức kể trên đều tu hành pháp môn 
					này, lại còn đem ra giáo hóa muôn người. Chúng ta sao chẳng 
					học theo cách tu trì ấy, nguyện sanh về Thế giới Cực Lạc? 
					Các vị Phật, Tổ và tri thức ấy lẽ nào chẳng thấu rõ pháp môn 
					thiền định hay sao? Lẽ nào là hạng phàm phu căn tánh chậm 
					lụt hay sao? Lẽ nào là hạng vướng chấp nơi hình tướng mà tìm 
					cầu hay sao?
				  “Xưa nay có biết bao bậc tôn túc, bao nhiêu vị danh hiền, 
					thảy đều niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà, cầu sanh Tịnh độ! 
					Huống chi chúng ta chỉ là hạng phàm ngu thấp kém?
				  “Than ôi! Nay sanh vào thời xấu ác có đủ năm sự uế trược, tu 
					học các pháp môn khác đều khó thành tựu, duy có pháp môn 
					niệm Phật cầu vãng sanh là con đường thẳng tắt nhất mà thôi! 
					Những kẻ không biết đến pháp môn này, thật đáng thương thay! 
					Nếu đã biết mà chẳng tu theo, lại càng đáng thương hơn nữa!
				  “Ôi! Tôi nay nhọc lòng nói mãi, chẳng mong gì khác hơn là 
					cầu cho mọi người đều biết đau đớn xét nghĩ đến cuộc sanh 
					tử, mau mau niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. 
				  “Nếu có thể tu tập cả pháp môn thiền định kèm theo, khai ngộ 
					về bổn tánh, khác nào như gấm thêm hoa, cũng không đi ngoài 
					mục đích. Còn như không đủ sức sáng tỏ, hãy nương theo 
					nguyện lực của Phật, cũng được vãng sanh. Đã vãng sanh về 
					cõi Phật rồi, còn lo gì không ngộ đạo? 
				  “Sau khi được gặp Phật A-di-đà, mới biết rằng cả ba pháp tu 
					thiền, niệm Phật và tu tâm đều giống như nhau; các pháp quán 
					về lẽ không, về sự hư dối và pháp trung quán đều dung thông 
					không ngăn ngại.
				  “Đã đạt thấu lý viên dung, mới biết rằng niệm mà không niệm, 
					sanh mà không sanh, tu mà không tu, chứng mà không chứng, 
					thuyết mà không thuyết, không thuyết mà thuyết, sự tức lý, 
					lý tức sự, tướng là không tướng, không tướng là tướng, vô 
					lượng là một, một là vô lượng, Phật tức là ta, ta tức là 
					Phật, Phật thuyết pháp tức là ta thuyết pháp, ta thuyết pháp 
					tức là Phật thuyết pháp. 
				  “Như vậy, mũi ta cũng là mũi Phật, mặc tình thở ra hít vào. 
					Quả như đạt đến cảnh giới ấy, mới tin rằng lời của Nhất 
					Nguyên này hôm nay chẳng phải là dối trá.”