Các kinh dạy về Tịnh độ nhiều như số cát sông Hằng, nay chỉ 
					lược nói ra đây một số để phá bỏ lòng nghi.
				  Trong kinh Đại Vô Lượng Thọ, đức Phật bảo ngài Di-lặc rằng: 
					Ở thế giới Ta-bà có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát ở địa vị 
					không còn thối chuyển sanh về thế giới Cực Lạc. Số Bồ Tát ở 
					địa vị thấp hơn thì nhiều không kể xiết, cũng đều được vãng 
					sanh. Không riêng gì thế giới Ta-bà này, cho đến các thế 
					giới trong khắp mười phương cũng có vô số các vị Đại Bồ Tát 
					đều niệm Phật A-di-đà, phát nguyện vãng sanh về cõi Phật ấy.
				  Kinh A-di-đà dạy rằng, nếu những kẻ nam, người nữ có lòng 
					lành, nghe giảng nói về Phật A-di-đà, bèn chuyên tâm niệm 
					danh hiệu ngài. Nhờ niệm danh hiệu Phật nên các tội nghiệp 
					đều diệt hết. Người ấy khi lâm chung liền được sanh về cõi 
					Cực Lạc của đức Phật A-di-đà.
				  Cũng trong kinh A-di-đà, đức Phật Thích-ca dạy rằng: Hết 
					thảy các ông đều nên tin theo lời dạy của ta và chư Phật. 
					Những chúng sanh nào được nghe pháp này, nên phát nguyện 
					sanh về thế giới của đức Phật A-di-đà.
				  Kinh Thập lục quán dạy rằng: Nếu kẻ nam, người nữ có lòng 
					lành, chỉ cần nghe danh hiệu Phật và hai vị Bồ Tát đã có thể 
					trừ dứt được tội nghiệp trong vô số kiếp sanh tử, huống chi 
					là nhớ tưởng, thường niệm. Niệm một câu Nam mô A-di-đà Phật 
					có thể trừ được những tội nặng trong tám mươi ức kiếp sanh 
					tử. Nếu có người niệm Phật thì nên biết rằng người ấy là đóa 
					hoa phân-đà-lỵ trong cõi người, là bạn tốt của các vị Bồ Tát 
					Quán Thế Âm và Đại Thế Chí.
				  Kinh Diệu pháp Liên hoa, phẩm Dược vương Bồ Tát Bổn sự dạy 
					rằng: Người nào nghe được kinh này, theo như lời dạy mà tu 
					hành, đến khi mạng chung liền đến cõi thế giới An Lạc của 
					Phật A-di-đà, hóa sanh trong hoa sen, ngồi trên tòa báu, có 
					các vị Đại Bồ Tát vây quanh. Người ấy chẳng còn bị các tâm 
					tham lam, sân hận, ngu si làm cho khổ não, cũng không còn bị 
					những sự xấu xa của lòng tự cao, ngã mạn, ganh ghét, đố kỵ 
					làm cho khổ não, đạt được các phép thần thông của hàng Bồ 
					Tát và chứng đắc Vô sanh Pháp nhẫn.
				  Luận Đại trí độ dạy rằng: Đức Phật là bậc Pháp vương cao cả 
					nhất, chư Đại Bồ Tát là những bề tôi trong Chánh pháp của 
					ngài. Những bề tôi này chỉ tôn trọng duy nhất bậc Pháp vương 
					là đức Phật mà thôi. Có những vị Bồ Tát tự nhớ lại thuở xưa, 
					vì chê bai pháp Bát-nhã nên đọa vào các đường ác, chịu vô số 
					nỗi khổ. Lại trải qua vô số kiếp tu tập các hạnh khác nhưng 
					cũng không thể thoát khỏi biển khổ. Sau nhờ gặp bậc thiện 
					tri thức dạy cho pháp niệm Phật A-di-đà, liền được dứt trừ 
					tội chướng, sanh về Tịnh độ. 
				  Nay ta nên lễ tạ đức Phật A-di-đà. Vì sao vậy? Vì tất cả cha 
					mẹ, thân quyến, bạn bè, cho đến các bậc vua chúa trong cõi 
					trời, người cũng không ai có thể cứu độ ta thoát khỏi biển 
					khổ. Chỉ có đức Phật A-di-đà dùng nguyện lực mà tiếp nhận, 
					nhờ đó ta mới được thoát khỏi biển khổ.
				  Nên có kệ rằng:
				  Nếu ai muốn thành Phật,
				  Hãy niệm A-di-đà,
				  Ngay đời này toại nguyện,
				  Nên cúi đầu kính lễ.
				  Lại cũng dạy rằng: “Thời Phật còn tại thế, có một ông già 
					xin xuất gia, ngài Xá-lỵ-phất không thuận cho. Đức Phật quán 
					xét thấy người ấy trong kiếp trước khi đi kiếm củi trên rừng 
					bị cọp đuổi, chạy leo lên cây, sợ quá nên niệm Nam-mô Phật 
					không thành tiếng. Nhờ việc lành nhỏ nhoi ấy mà sau được gặp 
					Phật, được cứu độ và đắc quả A-la-hán. Ôi! Chỉ một lần xưng 
					danh hiệu Phật mà còn được giải thoát, huống chi là trọn đời 
					niệm Phật?
				  Sách Liên tông bảo giám chép rằng: Trong vô số đức Như Lai 
					nhiều như cát sông Hằng, đức A-di-đà là bậc nhất; trong vô 
					số cõi Phật mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ, cõi Cực 
					Lạc là nơi hướng về. Vững tin vào cõi Cực Lạc là pháp môn 
					giải thoát chân chánh, nhiệm mầu; xét kỹ về đức A-di-đà thật 
					là bậc cha lành của tất cả chúng sanh. Vì thế, một niệm khởi 
					lên mà thần linh đều biết, lòng tin sanh ra mà chư Phật đều 
					hiện. Vừa xưng niệm danh hiệu Phật là đã gieo hạt giống vào 
					thai trong hoa sen; một khi phát tâm Bồ-đề là đã nêu tên nơi 
					cõi đất vàng. 
				  Nhờ có duyên lành mới được gặp, tự mình hiểu ra, tự mình tu 
					tập. Những ai lòng tin cạn cợt không thể tin nhận pháp này, 
					thật rất ngu si, lầm lạc; chỉ biết than vãn rằng gặp thời 
					mạt pháp, quá nhiều những cách hiểu sai lầm, tà vạy, chê bỏ 
					pháp Tịnh nghiệp, cho đó là phép quyền biến tạm dùng, khinh 
					rẻ sự trì tụng, cho đó là việc làm thô thiển. Như vậy há 
					chẳng phải là chìm đắm trong căn nhà đang bốc cháy, tự mình 
					cam chịu mãi mãi trôi lăn; làm trái lời Phật dạy, phải chịu 
					khổ đau mà uổng phí mất một đời đó sao? 
				  Hãy tin rằng: nếu không nương nhờ sức Phật, không thể dứt 
					trừ nghiệp lực; không gặp được pháp môn này, không có đường 
					nào vượt thoát khỏi sanh tử. Cho nên những kẻ khinh rẻ, chê 
					bỏ pháp môn này là tự khinh rẻ, chê bỏ chính bản thân mình. 
					Những việc sai lầm rất dễ huân tập, giáo pháp chân chánh rất 
					khó được nghe. Vì thế phải trôi lăn mãi mãi trong ba đường 
					ác, nhiều kiếp không thể thoát ra!
				  Sách Tịnh độ cảnh quán yếu môn dạy rằng: Pháp môn Tịnh độ 
					chính là con đường thoát ra khỏi sanh tử của chúng sanh thời 
					mạt pháp, là con thuyền vững vàng để vượt qua biển khổ. Một 
					khi được sanh về Cực Lạc thì mãi mãi không còn thối chuyển, 
					được thân màu vàng ròng, bay đi tự tại, việc ăn mặc tự nhiên 
					có đủ, được thấy Phật, nghe pháp, mau chóng chứng đắc Thánh 
					quả. 
				  Ở đó không có bị quấy rối bởi cọp, sói, sư tử, muỗi, ruồi, 
					sâu bọ; không bị khổ vì sấm sét, gió mưa, lạnh, nóng, đói, 
					khát. Hóa sanh từ hoa sen, tuổi thọ vô lượng. Không có mọi 
					nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết, nên gọi là thế giới Cực lạc.
				  
				  Cho nên, đức Thích-ca Như Lai vì muốn chúng sanh mê muội ở 
					cõi này được thoát khổ mới chỉ bày pháp môn đối trị. Đức cha 
					lành A-di-đà lại chỉ cho con đường tiếp dẫn. Vì thế mới khổ 
					công mỏi miệng ngợi khen nghiêng về Tịnh độ, rộng khuyên mọi 
					người phát nguyện vãng sanh, nguyên do là như thế. 
				  Vì thế, các bậc hiền thánh, kẻ tăng người tục, nhờ niệm Phật 
					mà được vãng sanh số nhiều không kể xiết. Chỉ vì kẻ phàm phu 
					hèn kém, đắm say vướng mắc nơi trần tục, chẳng cầu ra khỏi, 
					cam chịu trôi giạt trong sanh tử, thật đáng thương lắm thay!
				  Sách An Lạc tập dạy rằng: Nếu có thể niệm Phật A-di-đà thì 
					dứt hết nghiệp chướng, sanh về Tịnh độ. Vì sao vậy? Ví như 
					có người dùng gân con sư tử làm dây đàn, tiếng đàn ấy vừa 
					khảy lên thì âm thanh của những cây đàn khác đều phải dứt. 
					Nếu người phát tâm Bồ-đề, thường niệm Phật A-di-đà thì hết 
					thảy nghiệp chướng phiền não nặng nề đều phải dứt. 
				  Lại cũng như có người dùng các loại sữa bò, sữa dê, sữa lừa, 
					sữa ngựa cho vào trong một cái chén. Nếu lại cho vào đó chỉ 
					một giọt sữa sư tử thì các loại sữa kia đều hóa thành nước 
					lã. 
				  Nếu có ai phát tâm Bồ-đề, thường niệm Phật A-di-đà thì hết 
					thảy những ma chướng xấu ác đều tự nhiên tiêu diệt, được 
					sanh về Tịnh độ.
				  Trong luận Quyết nghi dạy rằng: Thân người khó được, Tịnh độ 
					dễ sanh về. Vì sao vậy? Nếu không giữ được năm giới thì 
					không thể sanh trong hai cõi trời, người. Năm giới có giữ 
					gìn trong sạch mới được sanh ra làm người. Nhưng năm giới 
					thật khó giữ trọn, lại không có nguyện lực dắt dẫn, cho nên 
					nói rằng thân người khó được.
				  Người tu pháp Tịnh độ, chưa nói đến việc giữ giới có được 
					trọn vẹn hay không, chỉ cần niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà 
					thì dù đang mang tội nghiệp cũng có thể sám hối. Đến khi lâm 
					chung, đức Phật A-di-đà cùng các vị Quán Âm, Thế Chí và vô 
					số thánh chúng đều có nguyện lực nên cùng hiện đến tiếp độ, 
					dẫn dắt, cho nên nói rằng Tịnh độ dễ sanh về.
				  Trong Tịnh hạnh Pháp môn dạy rằng: Sám hối cũng giống như 
					siêng lau chùi tấm gương cũ, dần dần làm sạch đi những bụi 
					bặm bám từ lâu ngày. Niệm Phật cũng giống như may mắn gặp 
					được bậc vua hiền, tức thời được ra tay cứu vớt. Suốt bốn 
					mùa xuân, hạ, thu, đông, trong những lúc đi, đứng, nằm, 
					ngồi, thường nghĩ về cảnh Tịnh độ trang nghiêm, thường nhớ 
					tưởng đức Phật A-di-đà. Niệm Phật được như vậy thì tức thời 
					được pháp Tam-muội, việc sanh về Tịnh độ chẳng cần phải nghi 
					ngờ gì nữa.
				  Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng dạy rằng: Thời mạt pháp, vô số 
					chúng sanh thực hành tu tập, chưa chắc đã có được một người 
					thành tựu. Đó đều do nơi cõi đời xấu ác có đủ năm sự uế 
					trược, việc học hỏi lẫn lộn khó thành. Chỉ riêng một pháp 
					niệm Phật là có thể khai thông đường vào. Nên biết rằng, 
					việc tự mình làm thật khó trọn vẹn, nhờ sức hỗ trợ bên ngoài 
					thì dễ thành tựu. Ví như kẻ hèn kém nhưng nhờ sức của bậc 
					Luân vương mà có thể bay lên chơi ở bốn cõi trời, như kẻ 
					phàm tục nhờ có liều thuốc tiên mà đến được miền Tam đảo. 
					Như vậy thật là đạo dễ thực hành mà mau chóng được thành 
					tựu. Lời lành đã chỉ bày tỏ rõ, nên hết lòng khắc sâu trong 
					xương thịt.
				  Luận Bảo vương dạy rằng: Người tắm trong biển cả là đã dùng 
					nước của trăm sông; người trì niệm danh hiệu Phật ắt phải 
					thành tựu Tam-muội. Ví như hạt châu quý có thể làm nước lắng 
					trong, khi thả vào trong nước đục, nước ấy không thể không 
					lắng trong. Cũng vậy, tiếng niệm Phật gieo vào tâm tán loạn, 
					tâm ấy không thể không có Phật.
				  Kinh Đại phẩm dạy rằng: Nếu người niệm Phật mà tâm tán loạn 
					cũng được thoát khổ, được phước không cùng. Huống chi là 
					những người niệm Phật với tâm an định, trên đạt mức nhất tâm 
					bất loạn, dưới cũng được thập niệm thành công.
				  Kinh Pháp hoa dạy rằng: 
				  Dù cho tâm tán loạn.
				  Bước vào nơi tháp miếu.
				  Xưng niệm một hiệu Phật.
				  Đều đã thành Phật đạo.
				  Lại cũng dạy rằng:
				  Phật hiệu vang mười phương.
				  Lợi ích khắp chúng sanh. 
				  Trọn đủ mọi căn lành.
				  Tâm bồ-đề thêm lớn.
				  Kinh Hoa nghiêm dạy rằng: 
				  Trong tất cả oai nghi, 
				  Thường niệm công đức Phật.
				  Ngày đêm không tạm dứt.
				  Việc như thế nên làm.
				  Lại cũng dạy rằng:
				  Thà chịu khổ địa ngục.
				  Được nghe danh hiệu Phật; 
				  Còn hơn muôn cảnh vui.
				  Không nghe danh hiệu Phật.
				  Kinh Bảo Tích dạy rằng: Chúng sanh ở các phương khác được 
					nghe danh hiệu đức Phật A-di-đà, chỉ cần có thể sanh khởi 
					một niềm tin trong sạch, vui vẻ, ưa muốn, có bao nhiêu việc 
					lành đã làm đều hồi hướng phát nguyện sanh về cõi Phật 
					A-di-đà, liền được theo đúng ý nguyện mà vãng sanh, đạt địa 
					vị không còn thối chuyển, thẳng dần lên quả vị Phật.
				  Trong kinh Đại A-di-đà, phần Văn pháp nhân duyên, Phật dạy 
					rằng: Người thế gian được nghe danh hiệu đức Phật A-di-đà, 
					nếu khởi lòng từ mà vui mừng, cho đến tâm ý được thanh tịnh, 
					xúc động rơi lệ, đều là những người đã trải nhiều kiếp tu 
					hành đạo Phật, hoặc đã từng tu hành đạo Bồ Tát ở các cõi 
					Phật nơi phương khác, nên chẳng phải hạng người phàm.
				  Nếu có người không tin lời Phật, không tin việc niệm Phật, 
					không tin vào việc vãng sanh, đó đều là những kẻ từ nơi các 
					đường ác sanh về, nghiệp ác cũ vẫn chưa dứt sạch, vì ngu si 
					không hiểu nên chưa thể được giải thoát.
				  Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh này mà chẳng được nghe. 
					Nếu được nghe rồi thì đối với đạo Vô thượng mãi mãi không 
					còn thối chuyển. Cho nên phải tin nhận mà trì niệm, theo như 
					lời dạy mà tu hành. 
				  Nay ta vì các ông mà thuyết giảng pháp này, khiến các ông 
					được thấy đức Phật A-di-đà và cõi nước của ngài. Ta vì 
					thương xót chúng sanh nên mới đặc biệt truyền lại pháp này.
				  Phần Chánh pháp nan văn có kệ rằng:
				  Nếu chẳng nhiều đời tu phước huệ,
				  Không thể được nghe chánh pháp này.
				  Đã từng cúng dường các đức Phật,
				  Nên đủ nhân duyên hiểu nghĩa sâu.
				  Cõi Phật Di-đà vui vô hạn,
				  Chỉ riêng chư Phật mới rõ biết.
				  Thanh văn, Duyên giác khắp thế gian,
				  Dù cố hết sức không thể hiểu. 
				  Pháp mầu của bậc Đại Pháp vương,
				  Cứu độ muôn loài thoát bể khổ.
				  Nếu ai thường xưng tán, thọ trì,
				  Ấy thật bạn tốt trên đường đạo.
				  Phật thuyết kinh này rồi, các vị Bồ Tát, Thanh văn, và tám 
					bộ chúng thảy đều vui mừng, tin nhận vâng làm theo.