Tự ban phép lành cho chính mình 
  Bằng cách buộc tâm ở ba nơi 
  Kinh lalana ở bên phải 
  Kinh rasana ở bên trái 
  Avadhuti ở ruột cùng 
  Để nắm bắt được chân lý 
  Kẻ trí giả cần quan tâm đến ba điều: 
  Chân sư - tâm - và hiện tượng 
  Truyền thuyết 
  Ghantapa vốn là tu sĩ của một đại tu viện  thuộc vùng Sri Nalanda. Ngài nổi tiếng là người giữ gìn giới luật  tinh nghiêm và thông thạo về Ngũ minh môn.
  Chẳng bao lâu, ngài rời Nalanda đi  vân du đây đó để hoằng dương chánh pháp, làm lợi lạc quần sanh và thực hành hạnh  vô ngã, cũng là để mở rộng tầm hiểu biết về mọi mặt.
  Vào thời đó, hoàng đế Devapala do  công đức đời trước nên cai trị một vương quốc giàu có và thịnh vượng gồm một  triệu tám trăm ngàn hộ dân, cùng với hai nước chư hầu khác là Kamapura và Bengal.
  Xứ Kamapura có chín trăm ngàn hộ,  xứ Bengal có bốn trăm ngàn hộ, tổng cộng ngài cai trị cả thảy ba triệu một  trăm ngàn hộ dân.
  Thủ phủ Pataliputra là nơi mà đạo  sư Ghantapa đến truyền bá đạo pháp. Thường ngày ngài đi khất thực và về  nghỉ ngơi dưới một bóng cây đại thụ.
  Một hôm, hoàng đế bàn với hoàng hậu rằng:  “Tất cả các pháp đều vô thường. Tất cả chúng sinh đều phải chịu khổ đau. Tất cả  những thấy biết, cảm thọ trong cuộc sống thật là vô nghĩa. Đối với công việc  triều chính, ta đã chu toàn trách nhiệm, ta đã trải rộng biên cương, lo cho dân  lành một cuộc sống bình yên, no đủ. Vậy chúng ta có nên cúng dường những thứ vật  thực cần thiết cho tăng chúng để tích lũy thêm công đức cho đời sau chăng?” 
  Hoàng hậu nghe qua bèn tâu: “Trong nhiều  đời thuộc quá khứ, bệ hạ đã từng cúng dường cho các thánh tăng, nên đời này mới  được hưởng phước báo. Cớ sao chúng ta lại không tiếp tục tạo dựng công đức cho  đời nay lẫn đời sau? Thần thiếp nghe nói rằng hôm nay có một du tăng từ phương  xa đến. Có lời đồn rằng ngài là một bậc đạo hạnh, trí huệ thông suốt như một bậc  thánh. Ngài chẳng có gì quí giá ngoài những vật dụng cần thiết và một tấm tọa cụ.  Thường ngày ngài đi khất thực loanh quanh. Vậy, ta nên thỉnh ngài đến hoàng  cung để dự đại tiệc. Chúng ta sẽ thết đãi ngài tám mươi bốn món ăn chính, mười  bốn loại thịt ngon, rượu bồ đào và năm loại thức uống khác. Chúng ta sẽ thay  chiếc đèn cũ kỹ của ngài bằng ánh sáng lấp lánh của những viên kim cương. Và rồi,  chúng ta sẽ dâng ngài tất cả những thứ giải trí mà vương quốc của chúng ta có  thể mang lại.”
  Nhà vua nghe qua những lời của hoàng hậu  liền hoan hỷ chuẩn y.
  Sáng hôm sau, vua sai quân hầu đến thỉnh  sư. Nhưng ngài từ chối, sứ giả đành phải quay về báo lại với đức vua.
  Hôm sau nữa, đức vua đích thân đi thỉnh  sư. Khi nhà vua đến nơi, ngài cúi mình đảnh lễ sư và muốn biết lý do vì sao sư  từ chối lời mời đến hoàng cung. Sư đáp: “Bệ hạ bất tất phải phiền luỵ đến thế.”
  “Quả nhân vì kính tín đại sư nên mới thân  hành đến đây. Mong đại sư quá bước đến hoàng cung.”
  “Vương quốc của bệ hạ đầy rẫy những điều  tác tệ. Ta không đến đâu.”
  “Cúi mong đại sư hoan hỷ lưu lại với  chúng tôi một năm thôi.”
  Mặc cho đức vua nài nỉ, Ghantapa vẫn  một mực từ chối không chịu đến viếng hoàng cung, dù chỉ một ngày. Sư bảo: “Nhà  vua đi, đứng, nằm, ngồi đều không tránh được tội lỗi. Thật bất tịnh, nên ta dứt  khoát không nhận lời mời.”
  Thế là, nhà vua đành phải quay về. Nhưng  rồi ngày nào ngài cũng đến vấn an sư, với hy vọng sư sẽ đổi ý. Và cứ như thế  trong suốt bốn mươi ngày nhưng không đem lại kết quả gì.
  Cuối cùng nhà vua và hoàng hậu cảm thấy bị  xúc phạm quá đáng. Ngọn lửa sân hận bùng cháy trong tâm thức họ.
  Vua hạ chiếu rao truyền khắp nơi rằng,  người nào có thể phá được phạm hạnh của sư Ghantapa sẽ được trao cho nửa  vương quốc và được thưởng một trăm cân vàng.
  Lúc bấy giờ ở kinh thành Hoa Thị (Pataliputra)  có một mụ điếm già tên là Darina luôn mong mỏi có một cuộc sống giàu sang.  Khi hay tin ấy bèn tìm đến hoàng cung để hiến kế.
  Mụ khẳng định với nhà vua rằng mụ có thể  thoả mãn yêu cầu của nhà vua và làm cho nhà sư kiêu mạn kia phải thân bại danh  liệt Thế là vua chấp thuận kế sách của mụ.
  Darina vốn có một thời oanh liệt ở chốn lầu  xanh, mụ biết đủ trăm phương nghìn kế để quyến rủ đàn ông, lại có một cô con  gái vô cùng xinh đẹp ở tuổi vừa mới cập kê.
  Nàng hãy còn rất trong trắng, chưa hề bị  nhiễm ô bởi cuộc đời. Nàng có một khuôn mặt tựa trăng rằm, dáng đi uyển chuyển,  lời nói dịu dàng, khôn ngoan, một thân hình khêu gợi và một khuôn ngực tròn đầy.  Mụ quyết định: “Ta sẽ khiến con gái ta đem ông tăng này trở lại với thế giới của  dục vọng và ta sẽ phá hủy đạo hạnh của y trong mười ngày liên tục.” 
  Thế là mụ già đi đến chỗ ở của Ghantapa để cúng dường. Mỗi lần đến như thế, mụ đều tỏ ra rất cung kính đảnh lễ trước  ngài. Đến ngày thứ mười, mụ tiến lại gần bên sư thưa: “Bạch thầy! Xin thầy cho  phép tôi được phục vụ trong suốt mùa an cư này.”
  Ghantapa không hề quan tâm đến mụ. Nhưng  từ ngày này sang ngày khác, mụ cứ theo nài nỉ xin được phục vụ ngài và cuối  cùng mụ cũng được sự đồng ý của sư.
  Darina lấy làm vui mừng liền bày ra một cuộc tiệc  để ăn mừng cái gọi là sự thành công bước đầu của mình. Mụ ngâm nga luôn miệng: 
  Mánh khoé của một cô gái 
  giúp nàng thực hiện ước mơ.
  Sức quyến rũ của nàng 
  là vũ khí vô cùng lợi hại.
  Mụ nhủ thầm: “Bằng mưu mẹo ta có thể lừa  phỉnh cả thế gian này, sá chi một nhà sư.”
  Thế là mụ điếm già cố tìm cách phô trương  năng lực của mình. Khi mùa an cư bắt đầu, Ghantapa bảo với mụ rằng chỉ  nên sai các người nam mang vật thực đến cúng dường. Tuy nhiên, sư không đề cập  với mụ việc không cho người nữ đến phục vụ. Darina bèn ưng thuận.
  Trong hai tuần lễ đầu, mụ sai toàn những  thanh niên mang vật thực gồm gạo và nước suối đến cúng dường.
  Nhưng đến ngày thứ mười lăm, mụ chuẩn bị  một bữa tiệc lớn. Mụ sửa sang, trang điểm cho cô con gái ăn vận lộng lẫy như một  nàng công chúa, đoạn sai nàng cùng năm mươi thanh niên mang thật nhiều vật thực  đến cúng dường sư.
  Mụ căn dặn con gái khi đến nơi phải đứng  từ xa quan sát vị trí túp lều của sư. Cô gái vâng theo lời mẹ và cố gắng ghi nhớ  những lời mẹ dặn.
  Sau khi đám thanh niên ra về, cô gái tìm  cách lén vào bên trong căn lều của Ghantapa.
  Khi nhà sư từ trong rừng trở về, ngài thấy  vắng đi những người hầu nam và ngài lấy làm ngạc nhiên khi thấy một thiếu nữ ăn  vận sang trọng như một công nương đang ở trong chỗ ở của ngài.
  Sư thắc mắc hỏi cô gái: “Chuyện gì đã xảy  ra với các chàng trai vậy?” 
  “Thưa thầy, họ không có thời gian lưu lại  nên tiện thiếp phải ở lại để phục vụ ngài.”
  Sư ăn xong bữa, nhưng cô gái vẫn cứ nán lại  không chịu ra về.
  Mãi đến khi sư nghiêm khắc xua nàng về,  cô gái liền đáp: “Trên trời có những đám mây ngũ sắc, thiếp e rằng trời sắp đổ  mưa, vì vậy thiếp phải nán lại.”
  Cô gái lưu lại cho đến khi mặt trời lặn  khuất chân trời. Cuối cùng cô nói: “Mặt trời đã tắt nắng mà tôi không có người  đi cùng để hộ vệ. E rằng đi một mình giữa đêm tăm tối sẽ bị cướp mất tư trang  và thiệt hại đến tính mạng.”
  Đến lúc này không thể từ chối được nên sư  đồng ý cho cô ngủ lại ở bên ngoài căn lều.
  Nhưng khi đêm đến, cô gái giả vờ hoảng sợ  kêu khóc ầm ĩ. Không biết làm sao hơn, sư đành để cho cô vào bên trong để ngủ.
  Túp lều lại quá nhỏ dành cho hai người  nên tất nhiên thân thể hai người phải chạm vào nhau.
  Cho đến nửa đêm, thân thể hai người quyện  vào nhau làm một và họ cùng nhau trải qua bốn từng lạc thú.
  Sáng hôm sau, Ghantapa yêu cầu cô  gái ở lại và họ trở thành một đôi vợ chồng. Một năm sau, đứa con của họ cất tiếng  khóc chào đời.
  Trong thời gian ấy, nhà vua càng trở nên  mất kiên nhẫn hơn. Ngài cứ luôn hỏi thăm mụ Darina về việc thực hiện quỷ  kế của mụ đã thành công đến đâu nhưng mụ cứ né tránh mãi.
  Cho tới ba năm sau, mụ mới đến báo cho  nhà vua biết kết quả của âm mưu làm hại nhà sư Ghantapa.
  Được tin, nhà vua lấy làm hài lòng phán:  “Hãy bảo với con gái nhà ngươi, trong ba ngày nữa ta sẽ đến viếng thăm nàng và  nhà sư.”
  Đúng ngày hẹn, vua tập trung dân chúng rồi  khởi hành đi đến chỗ sư Ghantapa.
  Khi ấy Ghantapa bàn với người vợ:  “Chúng ta nên ở đây hay nên đi sang một xứ khác?”
 
  Cô gái muốn ra đi, vì cô sợ mọi người sẽ  quở mắng và sỉ nhục cô. Vì vậy, Ghantapa dấu đứa bé trong tấm áo choàng,  kẹp theo một bình rượu ở nách rồi dẫn vợ ra đi.
  Rủi ro thay, trên đường đi họ gặp nhà vua  ngay ở giữa đường. Nhà vua ngồi trên mình voi cất giọng dè bỉu: “Cái gì dưới lớp  áo của thầy vậy? Và cô gái xinh đẹp này là ai?” 
  “Ta mang theo bình rượu và đứa bé trong tấm  áo choàng là con của ta.” Ghantapa đáp, mắt vẫn nhìn thẳng vào đức vua.
  “Khi ta mời thầy đến hoàng cung, thầy từ  chối, lại còn chê ta là kẻ tội lỗi. Bây giờ thầy hãy nhìn lại xem! Một thầy tu  lại có vợ, có con. Rõ ràng như năm với năm là mười. Thầy là một con người đầy tội  lỗi.”
  Sư thản nhiên đáp: “Ta vô tội. Ngươi chớ  sỉ nhục ta.”
  Khi nhà vua lập lại lời cáo buộc một lần  nữa, Ghantapa hất tung đứa bé và bình rượu xuống dưới đất. Nữ thần đất  lúc bấy giờ cả kinh vội dùng thần thông phụt một dòng nước cực mạnh lên cao hứng  lấy đứa bé và bình rượu, đặt lơ lửng giữa khối nước.
  Đứa bé trở thành sấm sét và bình rượu biến  thành một cái chuông (ghanta). Nhà sư Du-già và người vợ cùng biến  thành hai vị thần Samvara và Varahi trong tư thế âm dương giao  hoà.
  Cả hai bay lên trên không trung, còn nhà  vua và đoàn tùy tùng bị ngập trong làn nước.
  Đám người sắp bị chết đuối sợ hãi nhìn  đau đáu lên trời, gào khóc, van xin mong cứu giúp: “Chúng tôi xin quy y thầy.”
  Nhưng lúc ấy, Ghantapa đang ở  trong Phẫn nộ bất động đại định (Samadhi of immutable wrath) nên  ngài vẫn giữ im lặng.
  Khi mọi người sắp nguy khốn thì Bồ Tát  Quán Thế Âm hiện ra, dùng một bàn chân chèn nơi chỗ đất nứt và làm cho nước trở  về chỗ cũ. Thế là mọi người được cứu sống.
  Họ mừng rỡ cúi lạy cầu xin sư tha tội.
  Bấy giờ, có một tượng Quán Thế Âm bằng đá  bỗng hiện ra ngay chỗ ấy, và cho đến ngày nay ở vị trí nơi chân của bức tượng  này vẫn còn phun ra một tia nước nhỏ cao đến sáu thước.
  Sư xuất định, dạy rằng: 
  Mặc dù dược thảo và thuốc độc 
  tạo ra kết quả trái ngược nhau, 
  Nhưng trong bản chất rốt ráo của chúng, 
  cả hai đều như nhau. 
  Giống như những thuận duyên và nghịch duyên 
  trên con đường tu tập, 
  Chúng hữu ích như nhau. 
  Vì vậy chớ nên phân biệt 
  Bậc trí giả chẳng chối bỏ điều chi 
  Cớ sao đứa con tinh thần lại không thừa nhận? 
  Nếu ngươi bị đánh độc đến năm lần, 
  Thì cũng bị lạc lối trong luân hồi vậy.
  Qua lời giải thích của sư, nhà vua cùng mọi  người từ bỏ các kiến chấp và ý tưởng sai lầm. Họ thấy được niềm tin và đồng  lòng quy y pháp.
  Từ đó, Ghantapa được mệnh danh là  “Người giữ chuông”. Danh tiếng của ngài vang dội khắp nơi.
  Trong sáu kiếp thuộc đời quá khứ, cô gái  luôn là người khiến cho sư phải từ bỏ Phạm hạnh thanh tịnh. Nhưng trong đời  này, vì tâm phân biệt của sư không còn nữa; cấu trúc nhị phân trong tâm của  ngài đã tan biến trong cảnh giới vô tận của tánh không, nên dòng tâm thức của  ngài đã phát triển đến mức cùng tột.
  Ghantapa đặt tên cho con trai của ngài  là Vajrapani tức Kim Cương Thủ. Còn cô gái, vợ của ngài, do công  đức phục vụ ngài trong nhiều đời nên nay cô cũng thoát khỏi vô minh.
  Ghantapa có quyền năng và phẩm tính của  một vị Phật.
  Hành trì
  Một bản dịch khác liên quan đến đạo sư Ghantapa càng làm sáng tỏ những chỗ còn mơ hồ trong truyền thuyết vừa kể trên.
  Theo bản dịch này, Ghantapa vốn là  con trai của đức vua Nalanda. Ngài không chịu nối ngôi cha lại đi xuất  gia thọ giới cụ túc với hoà thượng Jayadeva Subhadra. Sau đó ngài trở  thành quốc sư của vua Nalanda.
  Ngài gặp Darikapa và được vị này  điểm đạo và truyền cho mạn-đà-la Samvara, rồi bảo ngài vào rừng tu tập.
  Cho đến một hôm ngài nghe một giọng nói vọng  xuống từ trên không trung bảo ngài phải đi đến Oddiyana.
  Vị nữ chân sư của ngài vốn làm nghề chăn  lợn. Ban đầu ngài tỏ ý từ chối vì bà này dung mạo cực kỳ xấu xí, nhưng sau đó  ngài nhận ra bà chính là một Dakini.
  Và một lần nữa, vị nữ chân sư này truyền  cho ngài mạn-đà-la Samvara .
  Tại cánh rừng già ở Oddiyana, ngài  đã xúc phạm đến đức vua khi ngài từ chối đi cùng với nhà vua vào kinh thành.
  Cô gái được sai đến để quyến rũ ngài  chính là yếu tố còn thiếu trong thiền định của ngài.
  Ghantapa đã điểm đạo cho cô và nhận cô  như là một Dakini của ngài.
  Mặc dù nhà vua tìm cách nhạo báng nhưng  chính thực là Ghantapa vốn vào thành để hoá độ dân chúng.
  Tương truyền ngài dùng thần thông hoá hiện  ra hai đứa bé, một trai và một gái. Đoạn dùng một cái muỗng lớn chiết rượu ra,  rồi sai chúng đi đổ đầy các bình rượu của mọi nhà trong kinh thành.
  Sau đó ngài vất cái muỗng xuống đất, khiến  nước phụt lên từ một khe nứt. Hai đứa bé biến thành sấm chớp và một cái chuông.
  Ngài cùng vợ biến thành hai vị thần Samvara.  Điều này giải thích lý do vì sao Omsa là nơi mà Kim cương thừa được  truyền bá rộng rãi.
  Truyền thuyết đưa ra một chủ đề lớn đề cập  đến sự mông muội của một hạng người tự cho rằng cách tư duy của mình là đúng.
  Họ chấp chặt vào những nguyên tắc luân lý  hữu hạn để kết tội người khác dám có một lối sống vượt thoát khỏi cái thường  tình của những quy ước xã hội.
  Cô gái Dakini trong tiền kiếp đã từng  quyến rũ, cám dỗ Ghantapa. Và trong những kiếp ấy, ngài đều bị trói buộc  bởi những mệnh lệnh của luân lý.
  Trong đời này, tâm ngài đã thuần thục nên  ngài chấp nhận giáo pháp của một Dakini, đồng thời đạt tới giải thoát  sau khi trải qua bốn trạng thái an lạc.
  Tâm thanh tịnh của ngài đã được ấn chứng  bởi Đại thủ ấn nên nhà vua đâu thể hiểu rằng “Tâm hoan hỷ không bao giờ  ô nhiễm”.
  Nhà vua tự cho mình có lý khi kết tội “một  người đàn ông và một người đàn bà sống trong tội lỗi” vì nhà vua không chấp nhận  các thanh tịnh khả hữu nơi người khác.
  Nếu truyền thuyết nêu rõ rằng thiền định Đại  thủ ấn ngăn không cho Ghantapa chấp nhận lời mời của nhà vua thì ở  đây thiếu vấn đề trả nghiệp khi nhà vua tìm mọi cách để làm nhục ngài.
  Trong giáo pháp sư dạy cho nhà vua và mọi  người, ngài đã truyền lại cái mà ngài đã chứng nghiệm: “Chớ ưa thích điều tốt,  chớ ghét bỏ điều xấu. Hãy chấp nhận mọi thứ như tự thân của chúng. Hãy thâm nhập  vào thực thể để nếm được vị chung của các pháp.”
  Nhưng chính điều này Ghantapa đã  không nhận ra trong sáu kiếp quá khứ. Ở đây có hai cặp phạm trù đạo đức. Cuộc sống  ban đầu của ngài là một bậc tu hành đầy đủ giới đức và sống phạm hạnh, và về  sau là cuộc sống của một nhà Du-già phóng khoáng. Hai phương tiện khác  nhau nhưng cùng một đích đến.
  Điều này hơi nguy hiểm khi các bậc thầy  rao giảng truyền thuyết này cho một người đang bám víu vào các tiêu chuẩn đạo đức  nhị phân để tu tập tìm sự thanh tịnh và tỉnh giác, vì y sẽ nhanh chóng cảm thấy  bị hụt hẩng, rơi vào hố thẳm của nghi ngờ và lầm lẫn.
  Tuy nhiên, không có một sự trùng lắp nào  cho thấy những con người bị xã hội ruồng rẫy vì phi đạo đức lại có thể được  khai tâm trong môn Tantra này.
  Những ý niệm luân lý đôi khi cũng là những  trở ngại khó vượt qua để thành tựu Bồ Tát nguyện, vì đôi khi những nguyên tắc  này có tính quyết đoán và không thoả hiệp với hành động từ bi
.
  Sử liệu
  Về mặt lịch sử, Ghantapa là người  đồng thời với đệ nhị hoàng đế Devapala (810-830) Nhưng hình như đây  không phải là vị vua mà Ghantapa đã xúc phạm.
  Devapala là một đại thí chủ rất hào  phóng của tu viện Nalanda. Vào thời ấy, xứ Bengal được gọi là Bengala.  Nó gồm cả đông và tây xứ Bengal hiện nay, không kể những phần đất của Bihar.
  Kamapara chính là thành phố tiếp giáp với  thung lũng Brahmaputra mà thủ phủ là Pataliputra, gồm cả đông và  nam Bihar.
  Ghantapa rất nổi tiếng ở Tây Tạng vì sự  nghiệp khai sáng dòng tu Samvara Pancakrama. Pancakrama bao gồm  các phương pháp luyện tập thân thể được Ghantapa đề cập trong mười tám  tác phẩm nổi tiếng của ngài và hầu hết những tác phẩm này điều liên quan đến Samvara Tantra.
  Ngài nhận được sự khải huyền về Samvara mạn-đà-la từ Kim Cương Thánh Nữ, mà có lẽ bà này chính là người phụ nữ  chăn lợn ở Oddiyana, nhưng cũng có thể là nữ Du-già Vilasyavajra,  đệ tử của sư Dombipa Heruka.
  Trong dòng Mật tông Tây Tạng,  đôi khi người ta gác bỏ tên của Dengipa qua một bên, nhưng lại đề cập đến Darikapa như là một chân sư của Samvara. Dòng Kalacakra cũng gồm Ghantapa. Điều này khiến ngài trở nên là một trong những người Ấn  Độ đầu tiên được truyền môn Tantra này.
  Do đó, có thể kết luận rằng môn Tantra này đã xuất hiện tại Đông Ấn vào khoảng thế kỷ 9.