[1] Tức thiền sư Nan-in Zengu, tên phiên âm Hán Việt là 
Nam Ẩn Toàn Ngu, sinh năm 1834 và mất năm 1904, là một thiền sư thuộc tông Lâm 
Tế của Nhật. 
[2] Thiền sư Gudo: tức thiền sư Gudo Toshoku, tên phiên 
âm Hán Việt là Ngu Đường Đông Thật, sinh năm 1579 và mất năm 1661, thuộc tông 
Lâm Tế (Rinzai) của Nhật.
[3] Edo là tên cũ của Tokyo, thủ đô nước Nhật ngày nay. 
Kể từ năm 1868, cùng lúc với sự sụp đổ của chính quyền quân sự, nơi này bắt đầu 
được chọn làm thủ đô và đổi tên là Tokyo. 
[4] Giai đoạn xảy ra câu chuyện này là vào khoảng thời 
đại Giang Hồ (Epoque Edo), trong khoảng năm 1600 đến 1868. Vào thời ấy, thủ đô 
của chính quyền quân sự là Kyoto, đến năm 1868 mới dời sang Edo, tức là Tokyo 
ngày nay. Chính quyền quân sự thời ấy là vương triều Tokugawa.
[5] Tức thiền sư Shido Mu-nan, tên phiên âm Hán Việt là 
Chí Đạo Vô Nan , dịch nghĩa là Vô Quy (không bao giờ quay lại). Ngài sinh năm 
1603 và mất năm 1676, là một thiền sư thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[6] Tức thiền sư Hakuin Ekaku, phiên âm Hán Việt là Bạch 
Ẩn Huệ Hạc, sinh năm 1685 và mất năm 1768, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[7] Tức thiền sư Bankei Eitaku, phiên âm Hán Việt là Bàn 
Khuê Vĩnh Trác , sinh năm 1623 và mất năm 1693, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[8] Nichiren: tức tông Nhật Liên, do ngài Nichiren 
(1222-1282) sáng lập, còn gọi là tông Pháp Hoa, vì tông này lấy kinh Pháp Hoa 
làm tông chỉ.
[9] Eshun: từng được phiên âm là Huệ Xuân.
[10] Thiền sư Tanzan thuộc tông Tào Động của Nhật Bản, 
sinh năm 1819, mất năm 1892, tên phiên âm là Đàm Sơn.
[11] Tăng hành cước: vị tăng không có trú xứ nhất định 
mà thường xuyên đi khắp đó đây, hoặc để cầu thầy học đạo, hoặc để hoằng hóa 
chúng sinh.
[12] Tức thiền sư Daigu Ryokan, sinh năm 1758 và mất 
năm 1831, tên phiên âm là Đại Ngu Lương Giám.
[13]1 Tức thiền sư  Hosenji Hoshin.
[14] Shunkai: được phiên âm là Xuân Khai.
[15] Tức Chân tông , do ngài Chân Loan (1173–1262) sáng 
lập vào đầu thế kỷ 13 ở Nhật Bản.
[16] Thật ra hình tượng này bắt nguồn từ một nhân vật 
có thật trong lịch sử là Hòa thượng Bố Đại, sống vào đời Ngũ Đại, người huyện 
Phụng Hóa, Minh Châu (nay là tỉnh Triết Giang), cũng có người nói ngài ở huyện 
Tứ Minh. Không rõ ngài sinh năm nào nhưng thị tịch vào tháng 3 năm 916, niên 
hiệu Trinh Minh thứ 2 nhà Hậu Lương. Trong đời hành hóa của ngài có rất nhiều sự 
việc nhiệm mầu kỳ diệu được kể lại trong các sách Tống cao tăng truyện (quyển 
21),  Phật Tổ thống ký (quyển 43), Phật Tổ lịch đại thông tải (quyển 25) và 
Cảnh Đức truyền đăng lục (quyển 27). Qua đó, người đời sau tin chắc ngài là hóa 
thân của Phật Di-lặc, và cũng thường tôn xưng ngài là Hoan Hỷ Phật.
[17] Nguyên bản có nhầm lẫn, chính xác là ngài có sống 
một số năm vào cuối đời Đường, vì nhà Đường mất vào năm 907, còn ngài thị tịch 
năm 916, nhưng tiểu sử ngài được ghi lại trong các sách đều xếp ngài vào nhân 
vật của thời Ngũ Đại.
[18] Tức thiền sư Unsho Toman, tên phiên âm là Vân 
Chiếu, sinh năm 1792 và mất năm 1858, thuộc tông Tào Động của Nhật.
[19] Thiền sư Tanzan, tên phiên âm là Đàm Sơn, sinh năm 
1819, mất năm 1892, thuộc tông Tào Động của Nhật.
[20] Tức thiền sư  Gasan Jitou, sinh năm 1727 và 
mất năm 1797, thuộc tông Lâm Tế của Nhật, tên phiên âm là Nga Sơn Tự Trạo.
[21] Tức phần Tin mừng theo thánh Matthew (Mt), một 
trong bốn sách tin mừng thuộc Tân ước.
[22] Trích từ Mt 6, 28.
[23] Trích từ Mt 6, 34.
[24] Trích từ Mt 7, 7-8.
[25] Tức thiền sư Nan-in Zengu, sinh năm 1834 và mất 
năm 1904, thuộc tông Lâm Tế của Nhật, tên phiên âm Hán Việt là Nam Ẩn Toàn Ngu.
[26] Hòa thượng Triệu Châu, một thiền sư danh tiếng của 
Trung Hoa, tức Triệu Châu Tùng Thẩm, sinh năm 778 và mất năm 897.
[27] Vô môn quan: bộ thiền ngữ nổi tiếng của Trung Hoa, 
do thiền sư Vô Môn tuyển soạn, gồm cả thảy 48 tắc công án kèm theo lời niêm, 
tụng. Công án đầu tiên (Đệ nhất tắc) này có tên là “Con chó của ngài Triệu Châu" 
(Triệu Châu cẩu tử), toàn văn như sau: “Có vị tăng hỏi ngài Triệu Châu: Con chó 
có tánh Phật hay không? Ngài Triệu Châu đáp: Không." Vì thế, ở đây gọi là công 
án “chữ không của Triệu Châu".
[28] Ơbaku: ngôi chùa được đặt tên theo tông Hoàng Bá, 
một dòng thiền từ Trung Hoa được truyền sang Nhật, thành tông phái Ơbaku (Hoàng 
Bá) của Nhật.
[29] Tức thiền sư  Takuju Kosen, tên phiên âm 
Hán-Việt là Trác Châu Hồ Thiên , sinh năm 1760 và mất năm 1833, thuộc tông Lâm 
Tế của Nhật.
[30] Shingon: tức tông Chân ngôn của Nhật, được sáng 
lập bởi ngài Kobo Daishi, hay Kkai, Hán dịch là Không Hải , cũng gọi là Hoằng 
Pháp Đại Sư , sinh năm 774 và mất năm 835. Vị này đã sang Trung Hoa học đạo và 
nhận được chân truyền từ ngài Huệ Quả  ở Trung Hoa. 
[31] Tokugawa (thời đại Đức Xuyên): tức thời đại Giang 
Hồ (Epoque Edo), kéo dài trong khoảng từ năm 1603 đến 1867. Gọi tên như thế là 
vì thời đại này do vương triều Tokugawa nắm quyền.
[32] Thiền viện Kennin: một thiền viện lớn có nhiều 
thiền viện chi nhánh phụ thuộc. Xem lại Chuyện nàng Shunkai ở trang 46.
[33] Hình thức tham vấn riêng: sự trao đổi riêng giữa 
vị thầy với một đệ tử duy nhất, để có những chỉ dẫn phù hợp với căn cơ của người 
đệ tử đó. Trong tiếng Nhật gọi hình thức tham vấn này là sanzen.
[34] Chú bé Toyo ngỡ rằng tiếng nhạc vang lên bởi một 
bàn tay gẩy đàn nên có thể xem là âm thanh của một bàn tay.
[35] Tên vị này đôi khi cũng viết là Soen Shaku, phiên 
âm là Tào Sơn Bản Tịch, sinh năm 1859 và mất năm 1919, thuộc tông Lâm Tế của 
Nhật.
[36] Eshun, phiên âm là Huệ Xuân. Xem lại chuyện Hãy 
yêu công khai, trang 27.
[37] Phái Tendai: tức tông Thiên Thai của Nhật.
[38] Tức thiền sư Suiwo Genra, tên phiên âm là Túy Ông 
Nguyện Lư, sinh năm 1716 và mất năm 1789, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[39] Tức thiền sư Bankei Eitaku. Xem lại chuyện Người 
biết vâng lời, trang 23.
[40] Tức thiền sư Đại Châu Huệ Hải, họ Châu, người Việt 
Châu, ban đầu xuất gia tu học với Trí Hòa Thượng ở chùa Đại Vân, Việt Châu. Sau 
mới đến tham học Mã Tổ, được chứng ngộ. Đương thời tôn xưng là Đại Châu Hòa 
Thượng. Về sau ngài có soạn quyển Đốn ngộ nhập đạo yếu môn luận, được Mã Tổ khen 
ngợi. Hiện không biết được niên đại chính xác của ngài, nhưng căn cứ theo niên 
đại của Mã Tổ (709–788) thì ngài cũng sống vào khoảng thế kỷ 8.
[41] Tức thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất (709–788), đời Đường, 
người huyện Thập Phương, Hán Châu (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên) Trung Quốc. Ngài 
xuất gia với Đường Hoà thượng ở Tứ Châu, sau theo học với thiền sư Nam Nhạc Hoài 
Nhượng hơn 10 năm, được truyền tâm ấn.
[42] Chuyện này có ghi trong sách Ngũ Đăng Hội Nguyên 
(quyển 3) với nội dung đầy đủ hơn, xin trích lại như sau: Sơ tham Mã Tổ...  
...Tổ viết: “Lai thử nghĩ tu hà sự ? Viết: “Lai cầu Phật pháp. Tổ viết: “Ngã giá 
lý nhứt vật dã vô, cầu thậm ma Phật pháp? Tự gia bảo tạng bất cố, phao gia tán 
tẩu tác ma ." Viết: “A ná cá thị Huệ Hải bảo tạng? Tổ viết: “Tức kim vấn ngã 
giả, thị nhữ bảo tạng. Nhất thiết cụ túc, cánh vô khiếm thiểu, sử dụng tự tại, 
hà giả ngoại cầu?" Sư ư ngôn hạ, tự thức bổn tâm. Bất do tri giác, dũng dược lễ 
tạ.
[43] Tức ni sư Mugai Nyodai, tên phiên âm là Vô Nhai 
Như Đại, sinh năm 1223 và mất năm 1298, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[44] Tức thiền sư Keichu Bundo, sinh năm 1824 và mất 
năm 1905, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[45] Tức thiền sư Kumazawa Banzan, tên phiên âm là Bàn 
Sơn, sinh năm 1619 và mất năm 1691, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[46] Tức thiền sư Mokugen Genjaku, tên phiên âm là Mặc 
Huyền, sinh năm 1629 và mất năm 1680, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[47] Tức thiền sư Nan-in Zengu. Xem chuyện Tách trà, 
trang 9.
[48] Tu-bồ-đề (Phạn ngữ là Subhti), dịch nghĩa là: 
Thiện Hiện, Thiện Cát, Thiện Nghiệp, một trong mười vị đại đệ tử của Phật, được 
Phật nhận là Giải Không đệ nhất, vì ngài thấu hiểu sâu xa nhất về ý nghĩa tánh 
không.
[49] Tức thiền sư Tetsugen Doko, sinh năm 1630 và mất 
năm 1682, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[50] Là vị thiền sư đầu tiên đến hoằng hóa tại Hoa Kỳ. 
Xem chuyện Trái tim bốc lửa, trang 87.
[51] Xem lại những quy tắc sống do vị thiền sư này đặt 
ra, trong chuyện Trái tim bốc lửa.
[52] Đây có lẽ là giai đoạn cuối đời, khi vị thiền sư 
này đã trở nên già yếu.
[53] Tức thiền sư Trung Hoa Triệu Châu Tòng Thẩm, sinh 
năm 778 và mất năm 897, thọ đến gần 120 tuổi.
[54] Không biết nguyên tác dựa vào đâu để đưa ra thông 
tin này. Theo Phật Quang Đại từ điển thì ngài Triệu Châu xuất gia từ thuở nhỏ 
tại Viện Hỗ Thông ở Tào Châu (có sách nói là ở Viện Long Hưng ở Thanh Châu). Từ 
khi còn chưa thọ giới Cụ túc đã đến tham bái với ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện. Sau 
đến giới đàn Lưu Ly ở Tung Sơn thọ giới, rồi trở lại y chỉ với ngài Nam Tuyền 
đến 20 năm. Sau đó đi khắp đó đây tham học với nhiều bậc danh tăng thạc đức. Đến 
năm 80 tuổi, đồ chúng thỉnh ngài về trụ tại Viện Quán Âm ở Triệu Châu, giáo hóa 
tại đây đến 40 năm. Ngài thị tịch vào năm Càn Ninh thứ tư đời vua Chiêu Tông 
(897), thụy hiệu là Chân Tế Đại sư, có để lại bộ Chân Tế Đại sư ngữ lục gồm 3 
quyển.
[55] Tức thiền sư Tosui Unkei, tên phiên âm Hán-Việt là 
Đồng Thủy Vân Khê, sinh năm 1612, mất năm 1683, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[56] Tức thiền sư Bankei Eitaku. Xem chuyện Người biết 
vâng lời, trang 23.
[57] Tức thời đại Kamakura (1185-1333) của Nhật.
[58] Tức thiền sư Gessen Zenne, tên phiên âm là Nguyệt 
Thuyền Thiền Huệ, sinh năm 1702 và mất năm 1781, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[59] Trà sư: người thông thạo nghệ thuật uống trà theo 
Trà đạo của Nhật.
[60] Ryonen trong tiếng Nhật có nghĩa là “triệt ngộ" 
hay “liễu ngộ", nghĩa là sự giác ngộ hoàn toàn. Vị ni sư này viên tịch vào năm 
1863.
[61] Tức thiền sư Bankei Eitaku, phiên âm Hán Việt là 
Bàn Khuê Vĩnh Trác . Xem lại bài Người biết vâng lời ở trang 23.
[62] Tức thiền sư Gasan Jitou (Nga Sơn Tự Trạo). Xem 
lại chuyện Không xa quả Phật, trang 64. 
[63] Chùa Engaku, tức Engakuji, là một ngôi chùa quan 
trọng của tông Thiên Thai ở Nhật.
[64] Kamakura: một thành phố của Nhật nằm trên đảo 
Honshu, cách Tokyo 45 km về phía tây nam.
[65] Edo là tên cũ của Tokyo, thủ đô nước Nhật ngày 
nay.
[66] Tức thiền sư Ikkỷ Sơjun, tên phiên âm là Nhất Hưu 
Tông Thuần , sinh năm 1394 và mất năm 1481, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[67] Cũng gọi là thời đại Muromachi, hay thời đại Thất 
Điền, kéo dài từ năm 1338 đến năm 1573. 
[68] Tức hoàng đế Ashikaga Yoshimitsu, một hoàng đế nổi 
danh với nhiều công trình xây dựng cũng như văn hóa, nghệ thuật còn lưu lại đến 
ngày nay, như Palace of Flowers ở Muromachi (Kyoto), Golden Pavilion ở Kitayama 
(Kyoto)... 
[69] Đây chỉ là một con số tượng trưng, ý nói là rất 
nhiều.
[70] Tokugawa: tức thời đại Đức Xuyên, hay thời đại 
Giang Hồ (Epoque Edo), là giai đoạn từ năm 1603 đến 1867. 
[71] Trà đạo: nghệ thuật uống trà được phát triển tại 
Nhật như một nghi thức hoàn chỉnh đầy ý nghĩa. Hầu hết các vị trà sư cũng chính 
là các thiền sư, vì bản thân Trà đạo cũng là một nghệ thuật được sản sinh từ 
thiền.
[72] Một trong các bậc trà sư danh tiếng của Nhật, bao 
gồm Daio (1235–1308), Noami (1397–1471), Ikkyu (1394–1481), Shuku (1422–1502) và 
Rikyu (1521–1591). Trong số này, ngài Rikyu là người nổi bật nhất.
[73] Trong sự phân chia giai cấp của xã hội Nhật ngày 
xưa, các chiến binh không chỉ thuần túy là quân nhân, họ còn được gọi là các 
samurai, với nghĩa là võ sĩ, hiệp sĩ... Giai cấp của họ được tôn kính trong xã 
hội, chỉ đứng sau giai cấp quý tộc cầm quyền mà thôi. Một samurai thường phải 
xem trọng danh dự hơn cả mạng sống của mình. Vì thế, việc họ bị làm nhục là 
không thể chấp nhận được. Nếu không đủ sức chống lại kẻ làm nhục mình, họ phải 
chọn con đường tự sát.
[74] Tức thiền sư Hakuin Ekaku, phiên âm Hán Việt là 
Bạch Ẩn Huệ Hạc. Xem lại chuyện “Thật thế sao?", trang 20.
[75] Nguyên văn chữ Hán: Phù xuất gia giả, phát túc 
siêu phương, tâm hình dị tục. Thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân. Dụng 
báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang 
sơ, hư triêm tín thí. Bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Minh Tiến, NXB Tôn giáo - 
2004.
[76] Tức thiền sư Gudo Toshoku. Xem chuyện Hạt ngọc 
trong bùn, trang 14.
[77] Người Nhật khi tiếp khách thường ngồi dưới sàn 
nhà, thay vì ngồi trên ghế.
[78] Tức Oda Nobunaga, sinh năm 1534 và mất năm 1582. 
Ông xuất thân từ một gia đình tầm thường ở tỉnh Owari nhưng trong sự nghiệp quân 
sự của mình đã dần dần chiếm được cả một vùng rộng lớn và chiếm giữ thủ đô Kyoto 
vào năm 1568. Năm 1573, chính ông đã lật đổ nhà cai trị quân sự cuối cùng của 
dòng họ Ashikaga. Đến năm 1580 thì ông đã mở rộng tầm kiểm soát khắp miền trung 
nước Nhật. Tuy nhiên, trước khi ông kịp thực hiện tham vọng cai trị toàn nước 
Nhật thì đã bị ám sát bởi một trong những thuộc hạ của mình.
[79] Mặt ngửa của đồng tiền khi xin keo là mặt có hình 
người; mặt phía bên kia gọi là mặt sấp.
[80] Tức thiền sư Kasan Zenryo, sinh năm 1824 và mất 
năm 1893, Lâm Tế tông Nhật
[81] Tức thiền sư Shido Mu-nan. Xem lại chuyện Hạt ngọc 
trong bùn, trang 14. 
[82] Tức thiền sư  Shoju Rojin, còn có tên là 
Dokyo Etan, phiên âm Hán Việt là Đạo Cảnh Huệ Đoan, sinh năm 1603 và mất năm 
1676, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[83] Tức thiền sư Kakuan Shion, tên phiên âm là Khuếch 
Am Sư Viễn, sống vào khoảng năm 1150.
[84] Tức thiền sư  Sơ Sơn Quang Nhân , nối pháp 
ngài Động Sơn Lương Giới. Không rõ niên đại, nhưng ngài đến núi Sơ Sơn dựng chùa 
tu tập vào khoảng niên hiệu Trung Hòa đời Đường (881-884).
[85] Tức thiền sư Daigu Sochiku, thuộc tông Lâm Tế của 
Nhật, sống vào khoảng thế kỷ 16 – 17.
[86] Tức thiền sư Gudo Toshoku (1579 – 1661). Xem lại 
chuyện Hạt ngọc trong bùn, trang 14.
[87] Tức thiền sư Morotake Ekido, sinh năm 1805 và mất 
năm 1879, thuộc tông Tào Động của Nhật.
[88] Tức thiền sư Daigu Ryokan, sinh năm 1758 và mất 
năm 1831, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[89] Tức thiền sư Bankei Eitaku. Xem chuyện Người biết 
vâng lời, trang 23.
[90] Tức thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích của Trung Hoa, sinh 
năm 885 và mất năm 998, là khai tổ của tông Pháp Nhãn, có để lại bộ Pháp Nhãn 
Văn Ích Thiền sư ngữ lục.
[91] Tức thiền sư Thiền Nguyệt Quán Hưu, sinh năm 832, 
mất năm 912, tức khoảng cuối đời nhà Đường. Ngài có để lại Thiền Nguyệt tập gồm 
30 quyển và Toàn Đường thi gồm 12 quyển, được người sau xem là những áng thơ hay 
chất chứa đầy thiền vị.
[92] Tức thiền sư Sengai Gibon, sinh năm 1600 và mất 
năm 1868.
[93] Nagasaki là một thành phố nằm trên đảo Kyushu 
thuộc miền tây nước Nhật.
[94] Tức Chân tông hay Tịnh độ Chân tông, một tông phái 
được thành lập từ Tịnh độ tông, do ngài Shinran (Thân Loan)  sáng lập. Shinran 
sinh năm 1173 và mất năm 1262, có để lại khá nhiều trư?c tác bằng tiếng Nhật.
[95] Tức thiền sư Bách Trượng Hoài Hải , sinh năm 720 
và mất năm 814. Ngài là người có công lớn trong việc củng cố nề nếp sinh hoạt 
chốn thiền môn. Ngài còn để lại bộ Bách Trượng thanh quy rất phổ biến ở hầu hết 
các thiền viện.
[96] Nguyên văn chữ Hán: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật 
bất thực."
[97] Tức thiền sư Ikkỷ Sơjun. Xem lại chuyện Ý nguyện 
cuối cùng và di thư, trang 164.
[98] Vị thầy này của ngài Ikkyu là thiền sư Keno ở chùa 
Kenniji.
[99] Tức thiền sư Gettan Soko, sinh năm 1326 và mất năm 
1389, thuộc tông Lâm Tế của Nhật.
[100] Thời đại Tokugawa: từ năm 1603 đến năm 1867. Xem 
lại chuyện Lời khuyên của mẹ, trang 79.
[101] Phường giá áo túi cơm: thành ngữ chỉ chung những 
kẻ vô dụng, chẳng làm được gì có ích, nên thân thể họ chẳng khác nào cái giá để 
treo áo, cái túi để đựng cơm!
[102] Tức thiền sư Sengai Gibon (Tiên Nhai Nghĩa 
Phạm), sinh năm 1750 và mất năm 1837. Ngài đã từng trú trì chùa Shơfukuji, một 
trong các thiền viện lớn nhất ở Nhật Bản. Ngài cũng từng được Hoàng đế ban 
thưởng tử y (áo tía), một vinh dự rất lớn, nhưng ngài từ chối và chỉ dùng tấm áo 
cũ rách của mình.
[103] Tức thiền sư Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc). Xem 
chuyện Thật thế sao, trang 20.
[104] Tức thiền sư Tosui Unkei, sinh năm 1612 và mất 
năm 1683, thuộc tông Tào Động của Nhật.
[105] Những so sánh này nhằm chỉ ra tính chất nhỏ 
nhoi, vô giá trị của các khái niệm được đề cập, như hạt bụi, như gạch vụn, đá 
sỏi, như giẻ rách, như hạt cải, như giọt dầu, đều là những khái niệm nhỏ nhoi, 
không có giá trị gì đáng kể.
[106] Những sự so sánh này đều nhằm chỉ ra tính chất 
không thật có của các khái niệm được đề cập, như trò ảo thuật, như gấm thêu 
trong mộng, như hình hoa trong mắt, như cột trụ chống núi, như ác mộng ban ngày, 
đều là những khái niệm không thật có.
[107] Những sự so sánh này nhằm chỉ ra tính chất không 
cố định, liên tục thay đổi của các khái niệm được đề cập, như rồng uốn lượn, như 
bốn mùa trôi qua, đều là những hình ảnh liên tục thay đổi, không cố định.