Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Khi tự tin vào chính mình, chúng ta có được bí quyết đầu tiên của sự thành công. (When we believe in ourselves we have the first secret of success. )Norman Vincent Peale
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Quy luật của cuộc sống là luôn thay đổi. Những ai chỉ mãi nhìn về quá khứ hay bám víu vào hiện tại chắc chắn sẽ bỏ lỡ tương lai. (Change is the law of life. And those who look only to the past or present are certain to miss the future.)John F. Kennedy
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 27. Giải thích phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm »»
Xem Mục lục
KINH VĂN
Phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm
Giải thích tên phẩm
Nhân duyên sau đây lấy từ kinh khác.[1] Thuở xưa, khi giáo pháp của Phật đã đến thời suy mạt, có bốn vị tỳ-kheo đối với kinh Pháp hoa hết sức chân thành tôn trọng. Tuy thường suy ngẫm giáo pháp sâu kín này, nhưng vẫn chưa được thấm nhuần [pháp vị] cam lồ. [Do vậy mà] ngày đêm càng thêm chí thành, chẳng lúc nào quên bỏ.
Các vị thường [suy nghĩ] than thở rằng: “Hay là chúng ta không phải người thích hợp [với giáo pháp này]? Hay vùng đất này không phải nơi thích hợp [để tu tập]? Cõi thế gian này rối rắm hỗn loạn, [người tìm cầu] tĩnh lặng với [kẻ] tán loạn đối nghịch nhau. Nếu như muốn cầu tìm nơi vắng vẻ yên tĩnh còn phải chán bỏ xa lánh [thế gian], huống chi là muốn chú tâm hoàn toàn tu theo đạo pháp?”
Nghĩ vậy rồi, từ đó các vị gắn kết với núi rừng, lập chí hướng về trí tuệ Phật. Ẩn cư như vậy lâu ngày, cơm áo dần cạn kiệt. Mang thân hữu vi nên còn nhiều phiền toái, không lúc nào không bị thiếu thốn. Một bữa cơm không nuốt vào cũng chướng ngại đường dài muôn dặm;[2] mười ngày chỉ ăn chín bữa,[3] chí hướng cao vời cũng đành cùn nhụt. Than ôi! [Khó khăn] thật không sao nói hết.
[Khi ấy,] một vị trong nhóm nói rằng: “Chúng ta bốn người đều cùng quẫn, đến thân mạng này còn không giữ được thì chánh pháp biết gửi gắm vào đâu? Nay xin ba vị hãy đem thân mạng dành trọn cho việc phụng hành đạo pháp, đừng lo đến chuyện [áo cơm] sớm tối; riêng mình tôi nguyện xả bỏ thân này, quyết tâm cung cấp hết thảy mọi thứ cần dùng cho các vị.”
Nói như vậy rồi, liền chống tích trượng đi vào xóm làng [khất thực] để tiếp tục sự cung cấp, từ mùa xuân đến mùa đông, xoay vần mãi năm này sang năm khác, như tôi tớ phụng sự chủ nhân, ngọt bùi cay đắng đều không để tâm mừng giận.
Ba vị kia [nhờ vậy tu tập] được tiến triển thành tựu, công phu viên mãn, hoàn tất sự nghiệp tu tập, lợi ích một đời sánh bằng vô lượng đời sống khác. Chỉ riêng một vị này [tiếp tục] trải qua nhiều kiếp trong cõi người, thường xuyên tiếp cận với âm thanh, hình sắc, như món đồ gốm chưa nung qua lửa, thật khó giữ gìn [tâm chân chánh]. Một hôm tình cờ gặp đức vua ngự giá ra ngoài thành, [nhìn thấy] ngựa xe đông đảo, cờ xí rợp trời, bất chợt khởi tâm động niệm, ưa thích cảnh vinh hoa quyền quý. Do công đức tu tập đã tích tụ nên liền tùy theo ý niệm [ưa thích ấy] mà nhận quả báo, sinh ra trong hai cõi trời người đều thường được làm vua. Phước báo [của vị này] tuy lớn lao không thể suy lường nhưng vẫn là hữu hạn, [cũng có lúc cạn kiệt].
Ba vị đã chứng đạo liền họp lại bàn nhau rằng: “Chúng ta thoát cũi sổ lồng, [ra khỏi ràng buộc thế gian] là nhờ công đức của vị vua này. Nay ông ấy đam mê trong quả báo [tốt đẹp], càng tăng trưởng pháp hữu vi. Sau khi chết đi trong kiếp này thì không còn được trở lại làm vua nữa, sẽ đọa sâu trong hầm lửa, thật khó có thể cứu thoát. Cũng may là hiện nay ông ấy chưa rơi vào nạn khổ, chính là lúc có thể chỉ bày giáo hóa.”
Một vị đề nghị: “Vị vua này đắm say dục lạc lại thêm tà kiến, nếu không dùng đến lưỡi câu ái dục thì không cách nào có thể cứu vớt được. Nay một người [trong chúng ta] có thể sinh làm người vợ đoan chánh, hai người [còn lại] sinh làm hai đứa con thông minh. Lời của vợ con nói ra ắt là [vua] sẽ thuận nghe theo.”
Quả nhiên, việc thiết lập phương tiện giáo hóa thích hợp như vậy đã đạt được kết quả [giúp cho nhà vua] từ bỏ tà kiến. Người vợ khi ấy nay chính là Bồ Tát Diệu Âm. Hai người con thuở ấy nay là hai vị Bồ Tát, Dược Vương và Dược Thượng. Đức vua thuở xưa nay chính là Bồ Tát Hoa Đức.
Cho nên, [các phẩm trước nói việc] hào quang từ tướng bạch hào [của Thế Tôn] chiếu về hướng đông triệu vời, [Bồ Tát Diệu Âm] lên đài cao quý theo hướng tây tìm đến; [Bồ Tát Dược Vương] nói thần chú hộ trì kinh điển, khiến cho lưu thông [để chúng sanh] được lợi ích lớn lao. [Nay phẩm này] nói về nhân duyên đời trước của cả bốn vị thánh[4] nên gọi là phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm.
Lại nữa, Diệu Trang Nghiêm là công đức của diệu pháp trang nghiêm các căn. Vị vua này thuở xưa có duyên với diệu pháp. Đạo huân tập đến khi thuần thục thì các căn được thanh tịnh. Trong kiếp sống ấy tuy chưa đạt được [như vậy], nhưng theo lý nhất định sẽ được; [do vậy mà có] điềm lành cảm thông, danh hiệu được hình thành từ sớm. Cũng giống như ngài Thiện Cát khi chưa [thực sự] đạt được [tam-muội] Vô tránh mà đã có hiệu là Không Sanh. Cho nên kinh văn phần sau nói “đạt được pháp tam-muội Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm”. Do ý nghĩa đó mà có danh hiệu là vua Diệu Trang Nghiêm.
Phẩm trước nói việc thần chú hộ trì kinh điển. Phẩm này nói việc người hộ trì kinh điển. Người hộ trì còn được như vậy, thần chú hộ trì lại càng tốt đẹp hơn, đều rộng khuyên việc lưu thông kinh điển.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng: “Vào đời quá khứ, cách nay vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, có Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hý Kiến.
Kinh văn phẩm này chia ra làm 6 tổng đoạn. Thứ nhất là nêu nguồn gốc sự việc; thứ hai là cùng lúc nêu cả người giáo hóa và người được giáo hóa; thứ ba là nói về phương tiện giáo hóa; thứ tư là người được giáo hóa được lợi ích; thứ năm là nêu sự tương hợp thuở xưa với ngày nay; thứ sáu là nói việc [những người] nghe phẩm kinh này được ngộ đạo.
Tổng đoạn thứ nhất nêu nguồn gốc sự việc, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Trong phạm vi giáo hóa của Phật có vị vua[5] tên là Diệu Trang Nghiêm, hoàng hậu là Tịnh Đức, hai người con trai là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn.
“Hai người con trai này có sức thần thông lớn, có phước đức, trí tuệ, từ lâu đã theo con đường tu tập hạnh của hàng Bồ Tát như các pháp ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, bốn tâm vô lượng từ, bi, hỷ, xả, cho đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tất cả đều thông suốt sáng tỏ; lại đạt được các pháp tam-muội của Bồ Tát như tam-muội Tịnh, tam-muội Nhật tinh tú, Tịnh quang, Tịnh sắc, Tịnh chiếu minh, Trường trang nghiêm, Đại oai đức tạng... đối với các pháp tam-muội như vậy đều thấu đạt thông suốt.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Trong phạm vi giáo hóa của Phật…” trở đi cùng lúc nêu cả người giáo hóa và người được giáo hóa. Có ba người giáo hóa và một người được giáo hóa, đều được nêu tên trong phần này. Đặc biệt nêu rõ hai người con có đủ phước đức, trí tuệ, sáu ba-la-mật, bốn tâm vô lượng.[6] Các kinh khác gọi những pháp này là mười ba-la-mật, tức là các pháp môn phải tu tập đồng thời. 37 phẩm trợ đạo là các pháp môn tu tập tuần tự, được các kinh khác xem là các pháp tu chính, việc thực hành các công hạnh là phụ thêm. Nay kinh này cho rằng mười ba-la-mật là các pháp tu chính, nên gọi các pháp kia là trợ đạo.
Trong Thiền ba-la-mật có đầy đủ tam-muội, còn trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì mỗi phẩm cũng đều có một phần tam-muội, nêu thêm bảy pháp tam-muội nữa là để rộng bày pháp môn.
KINH VĂN
“Bấy giờ, đức Phật muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm cũng như thương xót nhớ nghĩ đến chúng sanh nên thuyết kinh Pháp hoa này.
Tổng đoạn thứ ba từ câu “Bấy giờ, đức Phật muốn dẫn dắt…” trở đi là nêu phương tiện giáo hóa. Kinh văn chia làm 3 đoạn. Thứ nhất là nói việc đã đến lúc thích hợp; thứ hai nêu việc bàn luận; thứ ba là thị hiện thần biến để giáo hóa.
Đoạn thứ nhất nói đã đến lúc thích hợp, là nói lúc đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí ra đời thường thuyết giảng chánh pháp. Đối với nhà vua thì duyên còn yếu ớt tức là chưa phải lúc thích hợp, còn nếu nói về việc thuyết giảng kinh Pháp hoa thì là lúc thích hợp. Kinh văn nói “đức Phật muốn dẫn dắt… …nên thuyết kinh Pháp hoa”, tức là ý nghĩa này.
KINH VĂN
“Khi ấy, hai hoàng tử là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn cùng đi đến chỗ mẹ, chắp tay thưa rằng: ‘Xin mẹ hãy đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng theo hầu, gần gũi, cúng dường, lễ bái. Vì sao vậy? Vị Phật này ở giữa hết thảy trời người mà thuyết giảng kinh Pháp hoa, nên đến nghe và thọ nhận.’
“Người mẹ bảo các con: ‘Cha con tin theo ngoại đạo, bám chấp sâu nơi pháp bà-la-môn, các con nên đến thưa cha xin người cùng đi.’
“Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn cùng chắp tay thưa mẹ: ‘Chúng con là đệ tử đấng Pháp vương, lại sinh vào nhà tà kiến.’[7]
“Người mẹ nói: ‘Các con nên nghĩ đến cha, hãy vì cha hiện các phép thần thông biến hóa; nếu nhìn thấy rồi tâm được thanh tịnh, biết đâu cha sẽ thuận theo các con cùng đến chỗ Phật.’
Đoạn thứ hai nói việc bàn luận [giữa mẹ con]. Trong kinh văn nêu việc con nói với mẹ là đã đến lúc thích hợp, mẹ dạy con nên giáo hóa cha; con than vãn việc sinh vào nhà tà kiến, mẹ mong con nên nghĩ thương [đến cha]. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Liền đó hai vị vương tử vì nghĩ thương đến cha liền nhảy vọt lên không trung, cao bảy cây đa-la, hiện đủ mọi phép thần thông biến hóa, ở giữa không trung đi đứng nằm ngồi, phía trên thân vọt ra nước, dưới thân tuôn ra lửa; hoặc trên thân tuôn lửa, dưới thân vọt nước; hoặc hiện thân to lớn choán đầy hư không, rồi hiện nhỏ lại; từ nhỏ lại hiện lớn; ở giữa không trung biến mất, hốt nhiên lại hiện ra trên mặt đất; đi vào lòng đất như lặn xuống nước, đi trên mặt nước như đi trên đất… Hiện đủ mọi phép thần thông biến hóa, khiến tâm vua cha trở nên thanh tịnh, tin hiểu.”
Đoạn thứ ba từ câu “Liền đó hai vị vương tử…” trở đi là thị hiện thần biến để giáo hóa. Việc thị hiện để giáo hóa có đủ 18 phép thần biến,[8] có thể giải thích đầy đủ.
KINH VĂN
“Khi ấy, vua cha nhìn thấy hai con có sức thần thông như vậy, trong lòng hết sức vui mừng, được việc chưa từng có, chắp tay hướng về hai con hỏi rằng: ‘Ai là thầy của các con, các con là đệ tử của ai?’
“Hai vị vương tử đáp: ‘Thưa phụ vương, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, hiện nay đang ngồi trên pháp tòa dưới cội cây bồ-đề bằng bảy báu, ở giữa đại chúng hết thảy trời người trong thế gian mà rộng thuyết kinh Pháp hoa, đó chính là thầy của chúng con; chúng con là đệ tử của Phật.’
“Đức vua bảo hai con: ‘Nay ta cũng muốn gặp thầy các con, chúng ta có thể cùng đi đến đó.’”
Tổng đoạn thứ tư từ câu “Khi ấy, vua cha nhìn thấy hai con…” trở đi, nêu việc người được giáo hóa được lợi ích. Kinh văn chia làm 10 đoạn.
Đoạn thứ nhất, đức vua từng thấy các phép biến hóa của tà đạo, hoặc một phép, hoặc hai phép, vừa hẹp hòi vừa thô lậu, nay nhìn thấy các phép biến hóa của các con thì ngợi khen là chưa từng có, liền tin tưởng vào các con và kính phục thầy, nên hỏi xem thầy của các con là ai, vua cũng mong muốn được gặp.
KINH VĂN
“Liền khi ấy, hai vị vương tử từ không trung hạ xuống, đến chỗ mẹ chắp tay thưa rằng: ‘Nay cha con đã tin hiểu, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng con vì cha đã làm Phật sự, xin mẹ cho phép chúng con xuất gia theo Phật tu tập đạo pháp.’
“Bấy giờ, hai vị vương tử muốn lặp lại ý nghĩa trên nên đọc kệ thưa với mẹ:
‘Nguyện cho phép chúng con,
Xuất gia làm sa-môn,
Chư Phật rất khó gặp,
Chúng con theo học Phật.
Như gặp hoa ưu-đàm,
Gặp Phật khó như vậy,
Thoát nạn khổ cũng khó,
Nguyện cho con xuất gia.’
“Người mẹ liền nói: ‘Mẹ cho phép các con xuất gia. Vì sao vậy? Vì rất khó được gặp Phật.’”
Đoạn thứ hai, khi đức vua đã khởi lòng tin rồi, tám mươi bốn ngàn người trong cung vua cũng đều thuần thục. Hai vị vương tử [liền đến] báo tin vui và thưa với mẹ xin được xuất gia. Người mẹ liền cho phép.
KINH VĂN
“Liền đó, hai vị vương tử thưa với cha mẹ: ‘Lành thay, thưa cha mẹ! Xin cùng đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, gần gũi cúng dường. Vì sao vậy? Vì rất khó được gặp Phật, cũng như hoa ưu-đàm-bát-la, lại cũng như con rùa chột mắt [ở giữa biển nổi lên] gặp được khúc cây có lỗ bộng trôi ngang qua.[9] Chúng ta nhờ phước đức sâu dày từ nhiều đời trước mà sinh ra được gặp Phật pháp, cha mẹ nên thuận theo ý chúng con, cho phép được xuất gia. Vì sao vậy? Chư Phật rất khó gặp, lại cũng rất khó có cơ hội gặp Phật.’
“Khi ấy, trong hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám mươi bốn ngàn người, tất cả đều có thể đủ sức thọ trì kinh Pháp hoa này.
“Bồ Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt đối với pháp tam-muội Pháp hoa.
“Bồ Tát Tịnh Tạng từ vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp đã thông đạt pháp tam-muội Ly Chư Ác Thú, vì muốn giúp cho hết thảy chúng sanh đều được lìa xa các đường ác.
“Phu nhân của vua đã đạt được pháp tam-muội Chư Phật Tập, có thể biết được kho tàng giáo pháp sâu kín của chư Phật.
“Hai vị vương tử dùng sức phương tiện như vậy, khéo léo hóa độ vua cha, khiến cho khởi tâm tin hiểu, ưa thích Phật pháp.”
Đoạn thứ ba từ câu “Liền đó, hai vị vương tử thưa với cha mẹ…” trở đi, hai vương tử lại thúc giục cha mẹ lần nữa, rằng nay chính là lúc thích hợp để [cúng dường Phật] và cho phép con xuất gia, vì rất khó được gặp Phật.
Đoạn thứ tư, công đức giáo hóa đã thành tựu, Phật ngợi khen công đức.
[Bồ Tát Tịnh Nhãn đạt được] pháp tam-muội Pháp hoa là thâu nhiếp hết thảy các pháp quy về một tướng thật như trước đã nói.
[Bồ Tát Tịnh Tạng đạt được] pháp tam-muội Ly chư ác thú. Có thuyết cho rằng ba đường ác [địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh] là ác thú, còn nói đầy đủ thì là cả 25 cảnh giới hiện hữu, đều trái nghịch pháp chân thật, sinh khởi pháp hư vọng nên đều là ác thú. Nay xa lìa hết các cảnh giới ấy, tức là 25 pháp tam-muội phá trừ 25 cảnh giới hiện hữu.
[Phu nhân của vua đạt được] pháp tam-muội Chư Phật Tập, tức là tạng giáo pháp sâu kín mà chư Phật hội tập trong đó, chỉ có riêng chư Phật, không có một hạng người nào khác.
KINH VĂN
“Liền đó, vua Diệu Trang Nghiêm dẫn theo quần thần, quyến thuộc; phu nhân Tịnh Đức dẫn theo các cung nữ trong hậu cung và quyến thuộc; hai vị vương tử dẫn theo bốn mươi hai ngàn người, tất cả cùng nhau đi đến chỗ đức Phật. Đến nơi, tất cả cùng cúi đầu áp mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi đứng sang một bên.
“Khi ấy, đức Phật vì vua mà thuyết pháp, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật.[10] Nhà vua hết sức hân hoan vui mừng.
“Lúc bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân liền cởi chuỗi ngọc chân châu giá trị trăm ngàn lượng vàng, tung rải lên để cúng dường Phật. Chuỗi ngọc được tung lên giữa không trung liền hóa thành một tòa đài báu có bốn cột, bên trong đài có giường báu lớn, trải bằng trăm ngàn muôn tấm vải cõi trời, bên trên có đức Phật ngồi kết già, phóng hào quang sáng chói. Khi ấy, vua Diệu Trang Nghiêm tự nghĩ: ‘Thân Phật thật hy hữu, đặc biệt lạ lùng đoan nghiêm, thành tựu hình sắc vi diệu bậc nhất.’”
Đoạn thứ năm từ câu “Liền đó, vua Diệu Trang Nghiêm dẫn theo…” kể việc mọi người cùng nhau đến chỗ Phật, được nghe pháp, cúng dường Phật, nhìn thấy điềm lành thảy đều hoan hỷ.
KINH VĂN
“Khi ấy, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với bốn chúng: ‘Mọi người nhìn thấy vua Diệu Trang Nghiêm đang chắp tay đứng trước ta đây chăng? Đức vua này sẽ làm tỳ-kheo trong giáo pháp của ta, tinh cần tu tập các pháp trợ đạo, rồi sẽ thành Phật hiệu là Sa-la Thụ Vương, ở cõi nước tên là Đại Quang, vào kiếp tên là Đại Cao Vương. Đức Phật Sa-la Thụ Vương có vô số chúng Bồ Tát cùng vô số Thanh văn. Cõi nước ấy bằng phẳng ngay ngắn… công đức như thế.’
“Khi ấy vua Diệu Trang Nghiêm liền đem việc nước giao cho người em, rồi cùng với phu nhân, hai vương tử và quyến thuộc xuất gia tu tập trong Phật pháp.
“Sau khi xuất gia, đức vua thường xuyên chuyên cần tinh tấn tu hành theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong suốt tám mươi bốn ngàn năm. Trải qua thời gian đó rồi, đạt được pháp tam-muội Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, liền bay lên không trung, cao bảy cây đa-la, rồi thưa với Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Hai người con của con, vì làm Phật sự nên đã dùng thần thông biến hóa, chuyển hóa tâm tà kiến của con, khiến con được trụ yên trong pháp Phật, được gặp đức Thế Tôn. Hai người con ấy là bậc thiện tri thức, vì muốn khơi dậy căn lành đời trước, muốn làm lợi ích cho con nên mới sinh vào gia đình con.’
“Khi ấy, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo vua Diệu Trang Nghiêm: ‘Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào gieo trồng căn lành thì đời đời sẽ được gặp thiện tri thức. Thiện tri thức ấy có thể làm Phật sự, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật, giúp cho thể nhập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Này Đại vương! Nên biết rằng thiện tri thức là nhân duyên lớn lao, là vì giáo hóa dẫn dắt khiến cho được gặp Phật, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Đại vương! Ông có nhìn thấy hai người con này chăng? Hai người này vốn đã từng cúng dường chư Phật nhiều như số cát của sáu mươi lăm trăm ngàn muôn ức na-do-tha sông Hằng, gần gũi cung kính, ở nơi chư Phật ấy thọ trì kinh Pháp hoa, thương xót những chúng sanh tà kiến nên khiến cho trụ vào chánh kiến.’
“Lúc bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm liền từ không trung hạ xuống rồi bạch Phật: ‘Thế Tôn! Như Lai thật là hy hữu, do trí tuệ và công đức nên tướng nhục kế trên đỉnh đầu hào quang sáng tỏa; mắt đẹp dài rộng với màu xanh biếc; tướng bạch hào giữa hai chân mày sáng màu tươi mát;[11] răng đều khít bằng phẳng, thường trắng sáng; môi đỏ tươi như màu trái tần-bà…’[12]
“Khi ấy, vua Diệu Trang Nghiêm ngợi khen xưng tán vô số trăm ngàn muôn ức công đức của Phật như vậy, rồi ở trước đức Như Lai một lòng chắp tay bạch Phật: ‘Thế Tôn! Thật chưa từng có! Chánh pháp của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, dạy bảo việc thiện, răn ngừa việc bất thiện[13] khiến cho được an ổn tốt đẹp. Kể từ hôm nay con sẽ không còn trở lại chạy theo các tâm hành,[14] không khởi sinh các tâm xấu ác như tà kiến, kiêu căng, ngạo mạn, sân hận.’ Nhà vua nói như vậy rồi lễ Phật, lui ra.”[15]
Đoạn thứ sáu, từ câu “Khi ấy, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với bốn chúng…” nêu việc đức Phật thụ ký.
Đoạn thứ bảy nói việc [vua] xuất gia tu hành.
Đoạn thứ tám, đức vua ngợi khen xưng tán hai người con.
Đoạn thứ chín, đức Phật thuật lại công hạnh cao cả [thuở trước của hai vị vương tử].
Đoạn thứ mười, [vua Diệu Trang Nghiêm] xưng tán Phật và tự phát thệ nguyện.
Đức Phật ngợi khen rằng, bậc thiện tri thức rất quan trọng, có những ý nghĩa lớn lao. Thiện tri thức thường làm Phật sự, tức là hàng thiện tri thức hộ trì, giúp đỡ [người tu tập]. [Thiện tri thức thường] tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu tức là bậc thiện tri thức giáo thọ. [Thiện tri thức] giáo hóa đạo pháp giúp cho được thấy Phật, tức là bậc thiện tri thức đồng hành. [Thiện tri thức] giúp cho thể nhập Bồ-đề tức là thật tướng, là thiện tri thức thật tế.
Kinh Tạp A-hàm nói “thiện tri thức giống như người vợ hiền thục chung thủy”, đây tức là ý nghĩa [thiện tri thức] hộ trì giúp đỡ [người tu tập]; lại nói “thiện tri thức như thân tộc, như tài sản”, tức là ý nghĩa [thiện tri thức] đồng hành; lại nói “thiện tri thức như vị thương chủ[16] dẫn đường”, tức là ý nghĩa [thiện tri thức] giáo thọ; lại nói “thiện tri thức như con nằm trong lòng cha”, tức là ý nghĩa [thiện tri thức] thật tế.
KINH VĂN
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng: “Các ông nghĩ sao? Vua Diệu Trang Nghiêm nào phải ai xa lạ, nay chính là Bồ Tát Hoa Đức. Phu nhân Tịnh Đức của vua, nay chính là Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng đang ở trước Phật, thuở xưa vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và quyến thuộc nên sinh ra ở đó. Còn hai vị vương tử, nay chính là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng.
“Hai vị Bồ Tát Dược Vương và Dược Thượng này đã thành tựu những công đức lớn lao như vậy, từng ở nơi vô số trăm ngàn muôn ức các đức Phật mà trồng sâu các gốc công đức, thành tựu những công đức hiền thiện không thể nghĩ bàn. Nếu có người biết đến danh hiệu của hai vị Bồ Tát này thì hết thảy chư thiên cùng nhân dân trong thế gian cũng nên lễ bái người ấy.”[17]
Tổng đoạn thứ năm từ câu “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng…” trở đi là nêu sự tương hợp thuở xưa với ngày nay, chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất kết lại, nêu sự tương hợp.
Đoạn thứ hai kết lại, khen ngợi xưng tán hai vị Bồ Tát.
KINH VĂN
Khi Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm, có tám mươi bốn ngàn người xa lìa phiền não cấu nhiễm, ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.[18]
Tổng đoạn thứ sáu từ câu “Khi Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện…” trở đi nêu việc những người nghe phẩm kinh này được đạo, y theo kinh văn có thể hiểu được.
_______________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Văn Cú ký giải thích chỗ này nói là “vị kiểm” (未檢), nghĩa là chưa kiểm chứng được, ý nói chưa biết ở trong kinh nào.
[2] Văn Cú nói “一餐喀喀廢萬里之行” (nhất xan khách khách phế vạn lý chi hành). Văn cú ký giải thích rằng, “khách khách” mô tả tiếng nôn ọe, ở đây để chỉ việc bữa ăn không nuốt vào được, tức là đói thiếu, có thể làm trở ngại hành trình muôn dặm, chỉ con đường tu tập dài lâu. Văn Cú nói “phế” là bỏ đi, Văn Cú ký giải thích rõ hơn là “長途妨於萬里” (trường đồ phương ư vạn lý), đường dài bị chướng ngại đến muôn dặm.
[3] Văn cú nói “thập tuần cửu phạn khuất vân tiêu chi chí” (十旬九飯屈雲霄之志), Văn cú ký giải thích “thập nhật vi tuần đãn duy cửu phạn” (十日為旬但唯九飯). Như vậy, thập tuần là chỉ một tuần 10 ngày chứ không phải 10 tuần.
[4] Bốn vị thánh: tức là Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng và Bồ Tát Hoa Đức.
[5] Nguyên tác Hán văn là “彼佛法中有王 - bỉ Phật pháp trung hữu vương”, nhưng theo nội dung thì lúc đó nhà vua chưa biết đến Phật pháp nên phải hiểu là “trong phạm vi giáo hóa của Phật”, bởi lúc đó ông vua này chưa vào trong Phật pháp.
[6] Văn cú dùng “tứ hoằng” (四弘) thường là chỉ tứ hoằng thệ nguyện (四弘誓願), nhưng trong kinh văn đoạn này không đề cập đến tứ hoằng thệ nguyện mà chỉ nói đến tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Do vậy có thể là Văn cú muốn dùng “tứ hoằng” với nghĩa bốn điều rộng lớn, chỉ bốn tâm vô lượng.
[7] Kinh Chánh Pháp hoa và bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt đoạn này tương đồng nhau và có phần hơi khác hơn so với bản dịch này. Theo đó, hai vị vương tử đến xin phép mẹ để đi gặp Phật, người mẹ bảo phải xin phép cha và sợ rằng ông tin theo ngoại đạo nên sẽ không cho phép. Hai vương tử biện hộ: “Chúng con tuy sinh vào nhà tà kiến nhưng thật là đệ tử đấng Pháp vương.” H. Kern: “Though born in a family that adheres to a false doctrine, we feel as sons to the king of the law.” - Kinh Chánh Pháp hoa: “我等薄相所生邪見無義之家, 又我等身本是法王子 - Ngã đẳng bạc tướng sở sinh tà kiến vô nghĩa chi gia, hựu ngã đẳng thân bản thị Pháp vương tử.” (ĐCT, T9, 263, tr.131a, d.25-26)
[8] Dựa theo kinh văn ở đây, Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết (止觀輔行傳弘決) quyển 10, phân chia 18 phép thần biến là như sau: 1. Hông bên phải ra nước, 2. hông bên trái ra lửa, 3. hông bên trái ra nước, 4. hông bên phải ra lửa, 5. trên thân ra nước, 6. dưới thân ra lửa, 7. dưới thân ra nước, 8. trên thân ra lửa, 9. đi trên nước như đi trên đất, 10. đi trên đất như đi trên nước, 11. ẩn trong hư không rồi hiện ở trên đất, 12. ẩn trên đất lại hiện trong hư không, 13. đi giữa hư không, 14. đứng giữa hư không, 15. ngồi giữa hư không, 16. nằm giữa hư không, 17. hiện thân to lớn đầy ắp hư không, 18. hiện thân lớn trở thành nhỏ. (ĐCT, T46, 1912, tr.442a, d.29 – tr.442b, d.6)
[9] Thí dụ này được sử dụng trong nhiều kinh luận khác, để nói về một điều rất khó xảy ra. Ví như có con rùa mù (hoặc chột mắt) dưới biển sâu, 100 năm mới nổi lên mặt biển một lần; lại có khúc cây khô có lỗ bộng, 100 năm mới trôi ngang qua chỗ con rùa mù một lần. Việc sinh ra đời được gặp Phật cũng khó khăn như con rùa nổi lên tình cờ gặp được khúc cây khô trôi ngang qua và chui được vào lỗ bộng.
[10] Nguyên tác kinh văn dùng “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, là 4 giai đoạn tuần tự trong sự giáo hóa như đã giải thích ở trước.
[11] Nguyên tác dùng “如珂月 - như kha nguyệt”, kha chỉ sắc trắng của ngọc, nguyệt chỉ ánh trăng; kha nguyệt được dùng để chỉ màu trắng tươi mát.
[12] Tần-bà (H. 頻婆, S. bimbajā), tên một loại cây thân gỗ mọc cao, trái nhỏ, có màu đỏ tươi.
[13] Nguyên tác là “教誡所行 - giáo giới sở hành” (dạy bảo, răn ngừa mọi hành vi), ở đây hàm ý dạy cho biết những điều thiện nên làm và răn ngừa, ngăn cản những điều bất thiện không nên làm. Kinh Chánh Pháp hoa diễn đạt dài hơn nhưng do đó cũng rõ nghĩa hơn: “敷演道義, 施設法禁令無罪釁,長塗之難皆得無患 - phu diễn đạo nghĩa, thi thiết pháp cấm linh vô tội hấn, trường đồ chi nan giai đắc vô hoạn” (giảng bày đạo nghĩa, thiết lập cấm giới khiến cho không phạm vào tội lỗi, nhờ đó mà trên đường dài khó khăn không gặp hoạn nạn). (ĐCT, T9, 263, tr.132b, d. 14-15)
[14] Nguyên tác là “不復自隨心行 - bất phục tự tùy tâm hành”. Tâm hành chỉ cho những trạng thái thay đổi liên tục của tâm, thường là do ngoại cảnh chi phối, làm khởi sinh những cảm xúc buồn, vui, hờn giận, ưa thích, ghét bỏ… Câu này hàm ý sẽ không trở lại như trước đây, luôn hành xử theo các tâm hành sinh khởi, mà sẽ làm theo lời dạy của Phật về những việc nên làm và những việc không nên làm, như câu “giáo giới sở hành” vừa giải thích ở trước. Bản Anh ngữ của H. Kern diễn đạt ý này là “will no more be slaves to our own mind” (…sẽ không còn làm nô lệ cho tâm ý của chính mình nữa).
[15] Trong bản tiếng Anh dịch từ Phạn ngữ của H. Kern thì đoạn nói về việc vua Diệu Trang Nghiêm tung chuỗi ngọc lên không trung được đưa vào vị trí này, nghĩa là sau khi nhà vua đã có sự tu tập thành tựu, không phải vào lúc mới lần đầu tiên gặp Phật.
[16] Thương chủ: những người đi buôn đường xa ngày xưa thường cử một người đứng đầu thông thạo đường đi và có nhiều kinh nghiệm hơn để dẫn dắt cả đoàn.
[17] Bản Anh ngữ của H. Kern diễn đạt tương tự: “Those that shall cherish the name of these two good men shall all become worthy of receiving homage from the world, including the gods.” (Những ai trân quý danh hiệu của hai vị Bồ Tát này thì cũng xứng đáng nhận được sự lễ bái của thế gian, kể cả chư thiên.)
[18] Nguyên tác dùng “遠塵離垢 - viễn trần ly cấu”, tương đương với “viễn ly trần cấu” (遠離塵垢). Trần cấu chỉ chung tất cả phiền não, nói cụ thể ở đây là chỉ 88 phiền não (八 十八使 - bát thập bát sử) hay 88 kiến hoặc (見惑), tức là những phiền não khởi sinh do thấy biết sai lầm. Vì thế, cách diễn đạt “viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh” (遠塵離垢,得法眼淨) thường được dùng để chỉ giai đoạn chứng đắc sơ quả Tu-đà-hoàn trong 4 thánh quả Tiểu thừa, vì hành giả đã đoạn trừ phiền não kiến hoặc nên đạt được pháp nhãn thanh tịnh.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.105 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập