Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 21. Giải thích phẩm Thần lực Như Lai »»
Xem Mục lục
KINH VĂN
Phẩm Thần lực Như Lai, thứ hai mươi mốt
Giải thích tên phẩm
[Về ý nghĩa] Như Lai, phần trước đã giải thích. Về thần lực, “thần” nghĩa là không thể đo lường, “lực” nghĩa là có tài năng công dụng. Không thể đo lường nên thể tánh tự nhiên thâm sâu; có tài năng công dụng nên sức chuyển biến lớn lao. Trong phẩm này, vì sự giao phó giáo pháp thâm sâu mà [đức Phật] hiện ra 10 loại thần lực lớn lao, cho nên gọi là phẩm Thần lực Như Lai.
Từ phẩm này về cuối có 8 phẩm, đều là để giao phó việc lưu thông kinh này. Phẩm này nêu việc Bồ Tát nhận lãnh sứ mệnh hoằng truyền kinh điển. Phẩm tiếp theo nói việc đức Như Lai xoa đầu giao phó về sau.
Kinh văn phẩm này có hai phần, trường hàng và kệ tụng. Phần trường hàng chia làm 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nêu việc Bồ Tát nhận lãnh sứ mệnh. Tổng đoạn thứ hai nói việc đức Phật hiện thần lực. Tổng đoạn thứ ba tóm kết ý nghĩa cốt yếu, khuyến khích thọ trì kinh này.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, những vị Đại Bồ Tát đã từ lòng đất phóng vọt lên, nhiều như số hạt bụi nhỏ trong ngàn thế giới, đều ở trước Phật một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan, rồi cung kính thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, chúng con ở những cõi nước mà phân thân của Thế Tôn đã diệt độ sẽ rộng thuyết kinh Pháp hoa này. Vì sao vậy? Vì chúng con tự mình cũng muốn có được giáo pháp Đại thừa chân thật thanh tịnh này để thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết, sao chép mà cúng dường.”
Tổng đoạn thứ nhất [có 2 đoạn].
Đoạn thứ nhất là lời người chép kinh, mô tả oai nghi cung kính [của đại chúng].
Đoạn thứ hai nêu việc phát lời thệ nguyện hoằng truyền kinh điển, chia làm 3 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu thời gian, là nói sau khi Phật diệt độ.
Tiểu đoạn thứ hai nói về nơi chốn, là nói những cõi nước có phân thân của Phật.
Tiểu đoạn thứ ba nêu thệ nguyện, không chỉ là vâng lời Phật dạy làm lợi ích chúng sanh, mà cũng tự mình mong muốn có được giáo pháp thanh tịnh chân thật lớn lao này, tức là giúp phần lợi ích tốt đẹp cho cả đôi bên.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trước vô số trăm ngàn muôn ức các vị Đại Bồ Tát từ lâu đã ở nơi cõi Ta-bà này như các vị Văn-thù-sư-lợi… cùng các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân..., trước tất cả đại chúng như vậy hiện sức thần thông lớn, hiển bày tướng lưỡi rộng dài[1] lên đến tận cõi trời Phạm thế; mỗi một lỗ chân lông trên thân Phật đều phóng ra vô lượng vô số các đạo hào quang có màu sắc, soi chiếu khắp các thế giới mười phương. Chư Phật [phân thân] ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu cũng đều hiện tướng lưỡi rộng dài và phóng vô lượng hào quang như vậy.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng chư Phật phân thân ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu hiện sức thần thông như vậy, trải qua thời gian đủ trăm ngàn năm rồi mới thu hồi tướng lưỡi rộng dài. Cùng lúc ấy, chư Phật đều hắng giọng và khảy móng tay, hai âm thanh ấy liền vang đến khắp các thế giới của chư Phật trong mười phương, các cõi đất đều chấn động theo sáu cách, hết thảy chúng sanh trong các thế giới ấy như trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân… nhờ oai thần của Phật nên đều nhìn thấy được thế giới Ta-bà này với vô lượng vô biên ngàn muôn ức chư Phật ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu, lại cũng thấy đức Phật Thích-ca Mâu-ni và đức Như Lai Đa Bảo trong tháp báu cùng ngồi trên tòa sư tử; lại thấy có vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức Đại Bồ Tát cùng bốn chúng cung kính vây quanh đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Chúng sanh được thấy như vậy rồi, tất cả đều hết sức vui mừng, cho là việc chưa từng có.
Ngay lúc đó, chư thiên giữa không trung [ở những thế giới ấy] cất tiếng nói lớn rằng: “Cách đây vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ thế giới, có thế giới tên là Ta-bà, ở đó có đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hiện nay đang vì các Đại Bồ Tát mà thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Các người nên phát tâm tùy hỷ sâu xa và cũng nên lễ bái, cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni.”
Những chúng sanh được nghe tiếng nói giữa không trung như vậy rồi, đều cung kính chắp tay hướng về thế giới Ta-bà, cùng niệm lớn: “Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật! Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật!” Rồi họ dùng đủ mọi loại hương, hoa, chuỗi ngọc, lọng che, cờ phướn cùng những thứ trang nghiêm trên thân, châu báu, vật quý đẹp, cùng nhau ở từ xa tung rải về thế giới Ta-bà. Những vật được tung rải từ khắp mười phương đó liền tụ lại như mây, hóa thành một tấm màn báu che trùm khắp không gian bên trên chư Phật. Bấy giờ, các thế giới trong mười phương liền trở nên thông suốt không ngăn ngại, giống như một cõi Phật.”
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy, đức Thế Tôn…” trở đi, [đức Phật] hiện ra mười thần lực. Phần này chia làm 2 đoạn. u Đoạn thứ nhất mô tả hội chúng đang ở trước Phật. Đoạn thứ hai nói việc chính thức hiện thần lực. “Như các vị Văn-thù-sư-lợi…” là nói chung về những vị được giáo hóa từ xa xưa. “Từ lâu đã ở nơi cõi Ta-bà này”, tức là các Bồ Tát ở phương dưới vốn đã được giáo hóa từ bản nguyên xa xưa. “Tất cả đại chúng như vậy” là chỉ chung những Bồ Tát từ các phương khác đến, cùng với những Bồ Tát đi theo chư Phật phân thân cùng đến.
Hỏi: Vì sao chỉ thấy các Bồ Tát ở phương dưới phát khởi thệ nguyện, không thấy các Bồ Tát như Văn-thù… phát nguyện?
Đáp: Kinh văn phần trước đã nói rằng: “Thế giới Ta-bà của ta đã sẵn có những Bồ Tát… …sẽ bảo vệ giữ gìn, tụng đọc, giảng rộng kinh này.” Tức là đã bao hàm ý nghĩa phát nguyện này rồi.
Đoạn thứ hai nêu mười thần lực như sau:
- Thứ nhất, “hiển bày tướng lưỡi rộng dài”. Sự giảng giải trong kinh Pháp hoa này là trừ bỏ ba thừa [phương tiện], hiển lộ Nhất thừa, [chỉ rõ việc chư Bồ Tát] trong giấu [hạnh Bồ Tát], ngoài hiện [tướng Thanh văn], bác bỏ [hình tích thị hiện thành đạo] gần đây để hiển lộ [bản nguyên chân thật đã thành đạo từ] xa xưa, nêu rõ lợi ích chúng sanh trong ba đời, tất cả đều chân thật không hư dối. Người thế gian có phước đức thì lưỡi thè ra chạm lên đến mũi. Đức Phật [thuyết giáo pháp] Tam tạng [thì hiện tướng] lưỡi chạm đến mép tóc, nay “lên đến tận cõi trời Phạm thế” là vượt ngoài các cõi phàm, thánh, đến tận đỉnh các cõi Tịnh thiên. Tướng này đã hết sức lạ thường nên lời [Phật sắp] nói ra càng thêm đáng tin nhận.
- Thứ hai, “mỗi một lỗ chân lông trên thân Phật đều phóng ra vô lượng vô số các đạo hào quang có màu sắc, soi chiếu khắp các thế giới mười phương”. Soi chiếu khắp mười phương, không nơi nào không sáng tỏ, tức là biểu thị cảnh giới trí tuệ đã rỗng rang cùng tột. Kinh văn phần trước nói hào quang từ tướng bạch hào [của Phật] vừa chiếu đến phương đông, biểu hiện cho bảy hạng phương tiện lần đầu tiên được gặp lý Nhất thừa. Nay [phần thuyết pháp] bản môn đã xong, nên phóng chiếu hết thảy hào quang, so chiếu hết thảy các cõi, có thể giúp cho chúng sanh từ hàng sơ tâm đến bậc Đẳng giác đều đạt đến trí tuệ Phật rốt ráo. Chư Phật phân thân lại cũng [hiện thần lực] giống như vậy.
- Thứ ba, “chư Phật đều hắng giọng” là tướng trạng chuẩn bị nói ra, cũng là biểu hiện của sự thông suốt. Hơn 40 năm ẩn kín sự chân thật, nay được mở bày ra trọn vẹn không còn gì giữ lại. Đây là lúc đại sự xuất thế của Như Lai đã được thông suốt, cho nên hắng giọng là muốn đem giáo pháp này giao phó cho các Bồ Tát, khiến cho dẫn dắt chúng sanh đời sau để được lợi ích. Sắp nói ra việc ấy cho nên hắng giọng. Hắng giọng có đủ 2 nghĩa. Thứ nhất là hắng giọng vì việc [giáo hóa] đã hoàn tất; thứ hai là hắng giọng để giao phó cho các Bồ Tát.
- Thứ tư, “khảy móng tay” tức là tùy hỷ. Tùy hỷ việc bảy hạng phương tiện đều được vào đạo viên mãn; tùy hỷ đạo viên mãn tăng trưởng trí tuệ, giảm trừ sinh tử; tùy hỷ các Bồ Tát giữ gìn giáo pháp Đại thừa chân thật thanh tịnh; tùy hỷ [chúng sanh] đời sau được [giáo pháp] quý báu không gì hơn. Một tiếng khảy móng tay này xuyên suốt ba đời, vang khắp mười phương.
- Thứ năm, “các cõi đất đều chấn động theo sáu cách”, biểu thị từ hàng sơ phát tâm đến tâm sau cùng trước khi thành đạo có sáu phen làm rúng động vô minh, nay nêu việc cũng rúng động sáu căn của hết thảy chúng sanh, khiến cho được thanh tịnh.
- Thứ sáu, [hết thảy chúng sanh] “nhờ oai thần của Phật nên đều nhìn thấy được” toàn bộ quang cảnh đại hội, biểu thị ý nghĩa đạo của chư Phật đều đồng như nhau, ngày nay ngày sau cũng đều như vậy. [Trong kinh văn] phần trước nói năm ngàn người bỏ đi, lại có ba lần Phật biến hiện di chuyển [người ngoài đại hội sang cõi khác,[2] đó là những người] đã để mất bản tâm, không thể được lợi ích trong hiện tại, nên [Phật vì họ] mà không diệt độ nhưng thị hiện diệt độ, khiến cho họ đi theo các Bồ Tát hoằng truyền kinh này mà được đạo, thể nhập trí tuệ Phật, cũng như trong pháp hội ngày nay không khác; lại cũng biểu thị trong tương lai sẽ có “cơ nhất”.[3]
- Thứ bảy, “chư thiên giữa không trung… cất tiếng nói lớn”, biểu thị trong tương lai sẽ có “giáo nhất”.[4]
- Thứ tám, [chúng sanh] đều niệm “Nam-mô”, có nghĩa là “quy mạng”, quay về nương tựa, làm đệ tử Phật, biểu thị trong tương lai sẽ có “nhân nhất”.[5]
- Thứ chín, “từ xa tung rải” các vật cúng dường, tất cả đều bay đến tụ lại như mây, biểu thị trong tương lai sẽ có “hành nhất”.[6]
- Thứ mười, “thế giới trong mười phương liền trở nên thông suốt không ngăn ngại, giống như một cõi Phật”, biểu thị “lý nhất”.[7]
Hỏi: Vì sao biết rằng mười tướng ấy biểu thị ý nghĩa trong hiện tại, lại cũng biểu thị ý nghĩa trong tương lai?
Đáp: Kinh văn nói: “Nếu ta vì sự giao phó ủy thác mà dùng sức thần thông như vậy trong vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp nói về công đức của kinh này, cũng không thể nói hết được.” Ý nghĩa biểu thị hiện tại và biểu thị tương lai là rất rõ ràng.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Phật bảo đại chúng các vị Bồ Tát cùng đi với ngài Thượng Hạnh:[8] “Sức thần thông của chư Phật là như vậy, vô lượng vô biên, không thể suy lường, nhưng nếu ta vì sự giao phó ủy thác mà dùng sức thần thông như vậy trong vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp nói về công đức của kinh này, cũng không thể nói hết được.
“Nói tóm lại, hết thảy mọi pháp của Như Lai, hết thảy mọi sức thần thông tự tại của Như Lai, hết thảy mọi kho tàng tinh yếu kín đáo của Như Lai, hết thảy những việc hết sức sâu xa của Như Lai, đều đã được trình bày rõ ràng sáng tỏ trong kinh Pháp hoa này.”
Tổng đoạn thứ ba từ câu “Khi ấy, đức Phật bảo đại chúng các vị Bồ Tát cùng đi với ngài Thượng Hạnh” trở đi, tóm kết ý nghĩa cốt yếu, giao phó [việc lưu truyền kinh điển] về sau. Kinh văn chia làm 4 đoạn. Thứ nhất là xưng tán việc giao phó giáo pháp, thứ hai là tóm kết ý nghĩa cốt yếu của sự giao phó; thứ ba là khuyến khích khen ngợi [người nhận] giao phó giáo pháp; thứ tư là giải thích về sự giao phó giáo pháp.
Đoạn thứ nhất xưng tán, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Đoạn thứ hai [từ câu “Nói tóm lại”] trở đi, tóm kết ý nghĩa cốt yếu gồm có bốn câu.
- Câu thứ nhất nói “hết thảy mọi pháp” tức là tất cả các pháp đều là Phật pháp. Câu này tóm kết nghĩa tất cả đều là diệu danh.
- Câu thứ hai nói “hết thảy mọi sức thần thông tự tại”, tức là [công năng] thông đạt không ngăn ngại, đầy đủ tám đức tự tại.[9] Câu này tóm kết về diệu dụng.
- Câu thứ ba nói “hết thảy mọi kho tàng tinh yếu kín đáo”, tức là khắp thảy mọi nơi đều là tướng chân thật. Câu này tóm kết về diệu thể.
- Câu thứ tư nói “hết thảy những việc hết sức sâu xa”, nhân quả tức là việc sâu xa. Câu này tóm kết về diệu tông.[10]
Tất cả đều được nêu ra, giảng rõ trong kinh này. Tổng kết trọn một bộ kinh chỉ có bốn điều này mà thôi, nay tóm kết chỗ then chốt cốt yếu mà trao cho [thính chúng].
KINH VĂN
“Cho nên, sau khi Như Lai diệt độ, các ông nên chuyên tâm thọ trì, tụng, đọc, giảng thuyết, sao chép, y theo lời dạy trong kinh để tu hành.
“Trong khắp cõi nước, nếu ở nơi nào có người tụng, đọc, giảng thuyết, sao chép, y theo kinh này tu hành, hoặc nơi nào có cất giữ kinh điển này, như ở giữa vườn, trong rừng, dưới gốc cây; hoặc trong tăng phòng, ở nhà cư sĩ hoặc điện thờ; hoặc giữa núi rừng hoang vắng, ở những nơi đó đều nên dựng tháp cúng dường.”
Đoạn thứ ba, từ câu “Cho nên, sau khi Như Lai diệt độ, các ông nên…” trở đi, khuyến khích và ngợi khen [những người nhận lãnh sự] giao phó lưu thông kinh điển. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Vì sao vậy? Nên biết rằng nơi đó chính là đạo trường; là nơi chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; là nơi chư Phật chuyển bánh xe pháp; là nơi chư Phật nhập Niết-bàn.”
Đoạn thứ tư từ câu “Vì sao vậy” trở đi, giải thích về ý nghĩa sự giao phó lưu thông kinh điển. Kinh văn phần trước nói nơi nào có quyển kinh này đều nên xây dựng tháp thờ. Trong kinh này thì những điều cốt yếu được thuyết dạy nằm ở bốn việc.
- Thứ nhất, “nơi đó chính là đạo trường” là giải thích phần trước nói “việc hết sức sâu xa”.
- Thứ hai, “nơi chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tức là giải thích phần trước nói “kho tàng tinh yếu kín đáo”.
- Thứ ba, “nơi chư Phật chuyển bánh xe pháp” là giải thích phần trước nói “hết thảy mọi pháp”.
- Thứ tư, “nơi chư Phật nhập Niết-bàn” là giải thích phần trước nói “sức thần thông tự tại”.
Đây là bốn việc cốt yếu, thâu nhiếp toàn bộ kinh văn, vì thế “đều nên dựng tháp cúng dường”.
Những điều này được cho là cốt yếu, vì “thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tức là pháp thân; “chuyển bánh xe pháp” tức là Bát-nhã; “nhập Niết-bàn” là giải thoát. Ba pháp này hợp thành “kho tàng tinh yếu kín đáo”, có Phật trụ yên trong đó, tức là ý nghĩa của dựng tháp cúng dường.
Kinh A-hàm nói rằng: “Đức Phật ra đời, chỉ có bốn nơi nên xây dựng tháp. Đó là nơi Phật đản sanh, nơi Phật thành đạo, nơi Phật chuyển bánh xe pháp và nơi Phật nhập Niết-bàn. Phật ngồi đạo tràng chính là nơi pháp thân sinh ra. Những phần khác y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Chư Phật, bậc cứu đời,
Trụ nơi đại thần thông,
Để làm vui chúng sanh,
Hiện vô lượng sức thần.
Tướng lưỡi đến Phạm thiên,
Thân tỏa muôn hào quang,
Vì người cầu đạo Phật,
Hiện việc hy hữu này.
Tiếng chư Phật hắng giọng,
Cùng tiếng khảy móng tay,
Vang khắp cõi mười phương,
Đất chấn động sáu cách.
Sau khi Phật diệt độ,
Có người trì kinh này,
Chư Phật đều hoan hỷ,
Hiện vô lượng sức thần.
Phần kệ tụng có 16 khổ kệ, chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ đầu tiên, tụng lại về mười thần lực.
KINH VĂN
Vì phó thác kinh này,
Ngợi khen người thọ trì,
Trong suốt vô lượng kiếp,
Cũng không thể cùng tận.
Công đức người trì kinh,
Vô biên, không cùng tận,
Như hư không mười phương,
Không thể biết giới hạn.
Đoạn thứ hai có 12 khổ kệ, tụng về nghĩa tóm kết ý nghĩa cốt yếu, [chia làm 2 tiểu đoạn].
Tiểu đoạn thứ nhất từ câu “Vì phó thác kinh này” trở đi 2 khổ kệ, tụng tổng quát về 4 pháp.
KINH VĂN
Người thọ trì kinh này,
Là đã thấy được Phật,
Cũng thấy Phật Đa Bảo,
Cùng các Phật phân thân.
Lại thấy Phật hôm nay,
Giáo hóa các Bồ Tát.
Người thọ trì kinh này,
Ta và các phân thân,
Phật diệt độ Đa Bảo,
Tất cả đều hoan hỷ;
Người ấy gặp, cúng dường,
Mười phương Phật hiện tại,
Cùng quá khứ, tương lai,
Đều khiến cho hoan hỷ.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Người thọ trì kinh này, là đã thấy được Phật”, tụng chi tiết 4 pháp, gồm 8 khổ rưỡi kệ. Một khổ rưỡi đầu tiên tụng nghĩa “hết thảy mọi pháp”. Người giữ gìn chánh pháp tức là giữ gìn thân Phật. Đại lược là như vậy.
Từ câu “Người thọ trì kinh này, ta và các phân thân” là tụng về thần lực; được thần lực khuyến khích, khiến chư Phật đều hoan hỷ.
KINH VĂN
Chư Phật ngồi đạo trường,
Đạt được pháp bí yếu;
Người thọ trì kinh này,
Không lâu cũng sẽ được.
Người thọ trì kinh này,
Đối với nghĩa các pháp,
Cùng danh tự, ngôn từ,
Vui thích giảng khôn cùng;
Như gió thổi không trung,
Không có gì ngăn ngại.
Sau khi Phật diệt độ,
Biết những kinh Phật thuyết,
Nhân duyên và trình tự,
Tùy nghĩa giảng đúng thật.
Như mặt trời, mặt trăng,
Xua tan đi bóng tối;
Người ấy sống giữa đời,
Trừ mê muội chúng sanh,
Dạy vô số Bồ Tát,
Rốt ráo đến Nhất thừa.
Từ câu “Chư Phật ngồi đạo trường” gồm một khổ kệ tụng về pháp bí yếu, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Từ câu “Người thọ trì kinh này, đối với nghĩa các pháp” gồm 4 khổ kệ là tụng về “những việc hết sức sâu xa”. Thuyết pháp phá trừ mê ám, đưa vào Nhất thừa, đó là việc rất sâu xa của chư Phật.
KINH VĂN
Cho nên người có trí,
Nghe lợi ích, công đức,
Sau khi Phật diệt độ,
Nên thọ trì kinh này.
Người ấy với Phật đạo,
Quyết định không còn nghi.
Sau cùng một khổ rưỡi kệ là tụng tổng quát tóm kết ý nghĩa cốt yếu.
________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Tướng lưỡi rộng dài, tức quảng trường thiệt tướng (H. 廣長舌相, S. prabhūta-jihvatā), là một trong 32 tướng tốt của Phật, do đã trải qua vô số kiếp chỉ nói lời chân thật. Vì thế, tướng này cũng là biểu hiện cho việc chư Phật không nói lời hư dối, chỉ nói ra những lời chân thật.
[2] Trong phẩm Hiện tháp báu, đức Phật ba lần hiện thần biến để mở rộng cõi Ta-bà cho đủ chỗ dung chứa, có nói “tất cả chư thiên và người bên ngoài đều di chuyển sang cõi khác”.
[3] Văn Cú dùng “cơ nhất” (機一), chỉ việc tất cả căn cơ đều chiêu cảm đến một quả duy nhất là quả Phật. Từ đây về sau tiếp tục nêu các phần giáo nhất, nhân nhất, hành nhất, lý nhất. Hầu hết các trường hợp giải thích của Văn Cú đều vận dụng tứ nhất theo hệ thống “giáo nhất, nhân nhất, hành nhất, lý nhất”, riêng ở đây thêm vào “cơ nhất”.
[4] Giáo nhất (教一): hết thảy giáo pháp đều thuyết dạy duy nhất một Phật thừa
[5] Nhân nhất (人一): hết thảy người tu tập đều là Bồ Tát, đều sẽ thành Phật.
[6] Hành nhất (行一): hết thảy pháp tu hành đều là công hạnh mầu nhiệm hướng đến quả Phật.
[7] Lý nhất (理一): người y pháp tu hành khai mở tri kiến Phật thấy được hết thảy tướng chân thật của các pháp chỉ có một lý thật.
[8] Nguyên văn kinh là “上行等菩薩大眾 - Thượng Hạnh đẳng Bồ Tát đại chúng”. Bồ Tát Thượng Hạnh là vị đạo sư thứ nhất đứng đầu trong số các vị Bồ Tát từ lòng đất phóng lên, do vậy có thể biết rằng ở đây đức Phật đang muốn nói với các vị Bồ Tát cùng đi trong nhóm này.
[9] Tám đức tự tại: đã có giải thích ở phẩm Tựa.
[10] Bốn câu được phân tích ở đây là nói về tứ diệu (四妙), bao gồm diệu danh (妙名), diệu dụng (妙用), diệu thể (妙體) và diệu tông (妙宗). Tên gọi tuy chỉ là giả tạm theo quy ước mà có, nhưng có thể dùng để chuyển tải, chỉ đến chân lý, gọi là diệu danh. Từ bản thể khởi lên công năng vi diệu, gọi là diệu dụng. Bản thể chân thật vốn không sinh diệt, gọi là diệu thể. Tông chỉ rốt ráo đưa đến giải thoát, gọi là diệu tông.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập