Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 23. Giải thích phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương »»
Xem Mục lục
KINH VĂN
Phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương, thứ hai mươi ba
Giải thích tên phẩm
Quán kinh nói: “[Bồ Tát Dược Vương] thuở xưa có tên gọi là Tinh Quang, theo Tôn giả Nhật Tạng nghe thuyết dạy về trí tuệ Phật, dùng loại thuốc quý trên Tuyết sơn để cúng dường chúng tăng, phát nguyện rằng: ‘Trong đời tương lai, nguyện cho con có thể trị được cả thân bệnh và tâm bệnh của chúng sanh.’ Khắp thế gian đều vui mừng xưng tên ngài là Dược Vương.”
Kinh văn phẩm này nêu việc Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến tức thời xả bỏ thân mạng, lại tự thiêu hai cánh tay, xem nhẹ mạng sống mà quý trọng chánh pháp; mạng sống mất đi, đạo pháp vẫn tồn tại.
Nêu ra việc xưa là để làm rõ việc ngày nay, cho nên gọi tên là phẩm “Hạnh nguyện thuở xưa…”. Nếu suy theo ý nghĩa này thì chuyện Tinh Quang [trong Quán kinh] có lẽ là sau Bồ Tát Hỷ Kiến, vì từ khi cúng dường thuốc men, phát khởi thệ nguyện [trị bệnh chúng sanh] đến nay mới có tên gọi là Bồ Tát Dược Vương. Đại lược là như vậy.
Kinh văn 5 phẩm từ đây về sau đều thuộc về phần lưu thông, giáo hóa chúng sanh. Phẩm này nói về bậc thầy giáo hóa chúng sanh, nguyện cho giáo pháp Đại thừa được hoằng truyền hết sức rộng rãi, phát khởi đại nguyện hết thảy chúng sanh đều được lợi ích lớn lao. Do [tâm nguyện ấy] mà vận dụng cạn kiệt sức thần, hết cả hình hài thân mạng, thành khẩn tha thiết, kiên trì chí nguyện, tiếp nối không dừng. Tiếp theo nói việc dạy đệ tử noi theo tông chỉ giáo pháp như thầy: Ta truyền pháp sáng tỏ cho các ông, các ông cũng truyền lại pháp sáng tỏ [cho đời sau]. Pháp sáng tỏ nối nhau không dứt, đó là chí nguyện của bậc thầy. Cho nên biết rằng phẩm này khuyến khích bậc thầy hoằng pháp.
Hai phẩm tiếp theo là phẩm Bồ Tát Diệu Âm và phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm nêu việc các vị đại sĩ ở phương khác kính vâng lời Phật hoằng truyền kinh điển, sắc thân biến hiện khắp nơi, hình thể không nhất định, không thể dùng con mắt tầm thường[1] mà nhìn thấy, không thể dùng nhận thức phàm tục mà đo lường, nên đối với những chỗ được nghe chớ sinh ý tưởng khinh thường, nếu khinh thường thì pháp chẳng vào được trong tâm. Cho nên biết rằng các phẩm sau khuyến khích hàng đệ tử nhận lãnh pháp.
Có người nói, các phẩm trong phần trước nói việc chư Phật làm Phật sự, từ phẩm này về sau nói việc các Bồ Tát làm Phật sự. Đây chỉ là cách nhận hiểu phiến diện mà thôi, [vì xét kỹ] các phẩm trước cũng có Bồ Tát; các phẩm từ đây về sau cũng có chư Phật. Đại lược là như vậy.
Nay nói rõ, phẩm Phương tiện trừ bỏ ba thừa, hiển lộ Nhất thừa, nêu nhân viên mãn đã trọn vẹn. Phẩm Hạnh an vui nêu pháp nương theo thừa. Phẩm Tuổi thọ của Như Lai nêu quả của thừa đã rốt ráo. Từ phẩm này trở về sau nêu người nương theo thừa.
Cho nên, luận Thập nhị môn nói rằng: “Gọi là Đại thừa vì là chỗ nương theo của các bậc đại nhân như Văn-thù, Phổ Hiền...”[2] Phẩm Bồ Tát Dược Vương dùng sự khổ hạnh nương theo thừa, các phẩm Bồ Tát Diệu Âm và Bồ Tát Quán Thế Âm dùng pháp tam-muội để nương theo thừa, phẩm Đà-la-ni dùng pháp tổng trì để nương theo thừa, phẩm Diệu Trang Nghiêm dùng thệ nguyện để nương theo thừa, phẩm Phổ Hiền dùng thần thông để nương theo thừa. Giải thích như vậy thì phù hợp với ý nghĩa lưu thông, giáo hóa chúng sanh.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ Tát Dược Vương đến thế giới Ta-bà như thế nào? Thế Tôn! Vị Bồ Tát Dược Vương này có bao nhiêu ngàn muôn ức na-do-tha khổ hạnh khó làm? Lành thay, Thế Tôn! Xin giảng nói một phần,[3] hàng chư thiên, rồng, thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, cùng các Bồ Tát từ phương khác đến và chúng Thanh văn ở đây nếu được nghe đều sẽ vui mừng.”
Kinh văn phẩm này có 4 phần. Thứ nhất là thưa hỏi, thứ hai là giải đáp, thứ ba là nêu lợi ích và thứ tư là đức Phật Đa Bảo khen ngợi sự tốt đẹp.
Phần thứ nhất nêu việc thưa hỏi, chia làm 3 tổng đoạn. Thứ nhất là hỏi chung về việc du hành giáo hóa, thứ hai là hỏi riêng về khổ hạnh, thứ ba là thỉnh cầu giải đáp, ý nghĩa y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Phật bảo Bồ Tát Tú Hoa Vương: “Vào thời quá khứ, cách đây số kiếp nhiều như số cát của vô số con sông Hằng, có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy có tám mươi ức vị Đại Bồ Tát và chúng đại Thanh văn nhiều bằng số cát của bảy mươi hai con sông Hằng. Đức Phật ấy sống thọ bốn mươi hai ngàn kiếp, các Bồ Tát cũng có tuổi thọ bằng như vậy. Cõi nước ấy không có nữ nhân, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, cũng không có các nạn khổ; mặt đất bằng lưu ly, phẳng như lòng bàn tay, có cây báu trang nghiêm, màn báu che bên trên, có phướn bằng hoa báu rủ xuống, lò hương bằng bình báu ở khắp cả cõi nước; dùng bảy báu làm thành đài cao, cứ mỗi cây báu là một đài cao, cây và đài cách nhau khoảng một tầm bắn tên. Các vị Bồ Tát, Thanh văn ngồi dưới mỗi cây báu, trên mỗi đài báu có trăm ức chư thiên cúng dường bằng cách tấu nhạc trời, ca ngợi xưng tán Phật.”
Phần thứ hai nêu việc giải đáp, lại có hai tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất chỉ đáp riêng về khổ hạnh, phần du hành giáo hóa thì chỉ đến tam-muội sắc thân, hoặc chỉ đến hai phẩm sau đó. Tổng đoạn thứ hai xưng tán ngợi khen kinh [Pháp hoa] này.
Tổng đoạn thứ nhất giải đáp về khổ hạnh, [chia làm 2 đoạn]. Đoạn thứ nhất kể lại nguồn gốc sự việc thuở xưa. Đoạn thứ hai kể rõ sự việc thuở xưa.
Đoạn thứ nhất chia làm 3 tiểu đoạn. Thứ nhất nêu thời gian, thứ hai kể [danh hiệu] Phật và đại chúng Thanh văn, thứ ba nói về cõi nước v.v. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Lúc ấy, đức Phật vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cùng chúng Bồ Tát và chúng Thanh văn mà thuyết kinh Pháp hoa.”
Đoạn thứ hai kể rõ sự việc [khổ hạnh] thuở xưa, lại có 3 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất kể việc Phật thuyết pháp; tiểu đoạn thứ hai, kể việc [Bồ Tát tu khổ hạnh rồi nghĩ] nên cúng dường; tiểu đoạn thứ ba là kết lại và nói sự tương hợp [giữa việc thuở xưa với ngày nay]. Thế nhưng Phật [thuyết pháp] vì tất cả chúng sanh, sao chỉ nói riêng Bồ Tát [Nhất Thiết Chúng Sanh] Hỷ Kiến? Việc này là vì phải nêu lên sự đối đáp cần thiết để giao phó lưu thông [kinh điển], cũng như với ngài Xá-lợi-phất ngày nay, [tuy đức Phật chỉ] ký thác một người nhưng là nói với tất cả.
KINH VĂN
“Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến này ưa chuộng sự tu tập khổ hạnh, ở trong Phật pháp của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức mà tinh tấn kinh hành, một lòng cầu quả Phật, trải qua mười hai ngàn năm thì đạt được pháp tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Đạt được tam muội này rồi, trong tâm rất vui mừng, liền nghĩ rằng: ‘Ta được tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân là nhờ sức nghe kinh Pháp hoa. Nay ta nên cúng dường đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và kinh Pháp hoa.’
“Nghĩ rồi liền nhập pháp tam-muội ấy, hóa hiện giữa không trung mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa đại mạn-đà-la, bột chiên đàn kiên hắc[4] đầy khắp cả không trung, tụ lại như mây rồi rơi xuống; lại mưa xuống hương chiên đàn hải ngạn,[5] sáu thù[6] hương này có giá trị bằng cả thế giới Ta-bà, đều để cúng dường đức Phật.
“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường như vậy xong rồi, ra khỏi tam-muội lại tự nghĩ rằng: ‘Ta tuy đã dùng sức thần thông cúng dường đức Phật, nhưng không bằng lấy thân mình cúng dường.’
“Nghĩ rồi liền ăn vào các loại hương chiên đàn, huân lục,[7] đâu-lâu-bà,[8] tất-lực-ca,[9] trầm thủy, giao hương,[10] lại uống các loại dầu hương hoa như hoa chiêm bặc v.v. trải qua mười hai ngàn năm,[11] dùng dầu thơm thoa khắp trên thân, đến trước đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, dùng y báu cõi trời tự quấn quanh thân, rưới lên các loại dầu thơm, rồi dùng sức thần thông tự đốt cháy thân mình, ánh sáng soi chiếu khắp các thế giới nhiều như số cát của tám mươi ức con sông Hằng. Chư Phật trong các thế giới ấy đồng thời khen ngợi rằng: ‘Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, như vậy là thực sự tinh tấn, như vậy gọi là pháp chân thật cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương thoa, lụa trời, phướn lọng cùng hương chiên-đàn hải ngạn, những phẩm vật cúng dường như thế đều không thể sánh bằng; giả sử dùng cả thành ấp, đất nước, vợ con để cúng dường[12] cũng không thể sánh bằng. Này thiện nam tử! Đây gọi là bố thí bậc nhất, cao trổi nhất, đáng tôn trọng nhất trong các pháp bố thí, vì đã dùng pháp để cúng dường các đức Như Lai.’
“Sau khi khen ngợi như vậy rồi, các đức Phật đều an nhiên tịch lặng. Thân thể Bồ Tát tiếp tục cháy như vậy sau một ngàn hai trăm năm[13] mới hết.”
Tiểu đoạn thứ hai nói việc Bồ Tát tu khổ hạnh lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu việc khổ hạnh trong hiện tại, phân đoạn thứ hai nêu việc khổ hạnh trong tương lai.
Phân đoạn thứ nhất nói việc khổ hạnh trong hiện tại, chia ra làm 2 ý.
Ý thứ nhất kể việc [Bồ Tát] tu hành chứng đắc pháp [tam-muội]; ý thứ hai nói việc tự nghĩ nên báo ân.
Ý thứ hai nói việc muốn báo ân lại có 2 tiểu ý. Thứ nhất là dùng sức tam-muội; thứ hai là gắng sức dùng thân báo ân. Tiểu ý dùng thân báo ân lại có 3 điều. Thứ nhất là tự thiêu thân; thứ hai là được Phật ngợi khen xưng tán; thứ ba là nói về thời gian.
Nói về pháp cúng dường chân thật thì bên trong vận dụng trí tuệ quán sát nhân quả phiền não, tất cả đều dùng trí tuệ hiểu về tánh không để tẩy rửa sạch, cho nên gọi là pháp chân thật. Lại quán xét rằng dù là thân mình hay lửa đang cháy, dù người cúng dường hay thân là vật cúng dường cũng đều là tướng chân thật; ai là người thiêu, cái gì đốt cháy, người cúng dường, vật cúng dường, thảy đều không thể nắm bắt, cho nên gọi là pháp chân thật.
KINH VĂN
“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường theo pháp như vậy rồi, sau khi mạng chung lại tái sinh vào cõi nước có đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, nơi nhà của đức vua Tịnh Đức, bỗng dưng hóa sinh trong tư thế ngồi kết già, liền vì vua cha mà nói kệ rằng:
‘Nay phụ vương nên biết,
Đường tu tập con đi,
Là được pháp Tam-muội
Hiện Nhất Thiết Sắc Thân;
Rồi tinh tấn, chuyên cần,
Buông bỏ thân luyến ái,
Cúng dường lên Thế Tôn,
Cầu trí tuệ Vô thượng.’
“Nói kệ như vậy rồi lại thưa với vua cha: ‘Hiện nay có đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức đang ở đời, trước đây con cúng dường Phật ấy nên đạt được pháp đà-la-ni Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn,[14] lại được nghe tám trăm ngàn muôn ức na-do-tha chân-ca-la tần-bà-la a-súc-bà[15] bài kệ trong kinh Pháp hoa. Thưa phụ vương! Con nay sẽ quay lại cúng dường đức Phật ấy.”
“Sau khi thưa cha như vậy rồi, Bồ Tát liền ngồi trên đài bảy báu, bay lên hư không, cao bằng bảy cây đa-la, rồi bay đến chỗ đức Phật, đầu và mặt cúi lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính đọc kệ xưng tán Phật:
‘Tôn nhan rất diệu kỳ,
Hào quang chiếu mười phương,
Trước đây con cúng dường,
Nay lại được thân cận.’
“Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đọc kệ như vậy rồi liền bạch Phật: ‘Thế Tôn! Nay Thế Tôn vẫn còn ở đời!’
“Khi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: ‘Này thiện nam! Đã đến lúc ta nhập Niết-bàn, đến giờ diệt độ rồi. Ông nên sắp xếp chỗ giường nằm, trong đêm nay ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Đức Phật lại dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: ‘Này thiện nam! Nay ta đem Phật pháp giao phó lại cho ông và các đại đệ tử Bồ Tát, cùng với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại cũng đem tất cả cây báu, đài báu cùng chư thiên theo hầu cận trong thế giới đại thiên bằng bảy báu này, tất cả đều giao phó lại cho ông. Sau khi ta diệt độ rồi, xá-lợi của ta cũng giao phó cho ông, nên lưu truyền mọi nơi, tổ chức cúng dường rộng khắp; nên xây lên hàng ngàn tháp để thờ kính.’
“Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như vậy rồi, khoảng sau nửa đêm liền nhập Niết-bàn.
“Khi ấy, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật đã diệt độ rồi, trong lòng bi thương xúc động, buồn khổ lưu luyến, liền dùng chiên đàn hải ngạn dựng lên thành giàn, cúng dường thân Phật rồi đốt lửa để thiêu. Sau khi lửa tàn liền thu nhặt xá-lợi, đặt vào tám mươi bốn ngàn bình báu, lại dựng lên tám mươi bốn ngàn tháp thờ, cao đến cõi Phạm thiên,[16] có cột phướn trang nghiêm, treo cờ phướn, lọng che và nhiều chuông báu.
“Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ: ‘Ta tuy đã cúng dường như thế này nhưng trong lòng vẫn thấy còn chưa đủ. Nay ta nên cúng dường xá-lợi Phật thêm nữa.’
“Nghĩ rồi liền bảo các vị đại đệ tử Bồ Tát cùng chư thiên, rồng, dạ-xoa… và hết thảy đại chúng: ‘Các ông hãy một lòng chú tâm, nay chúng ta nên cúng dường xá-lợi của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức.’
“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói như vậy rồi liền ở trước tám mươi bốn ngàn tháp thờ xá-lợi Phật tự đốt hai cánh tay có đủ trăm phước tướng trang nghiêm trong suốt bảy mươi hai ngàn năm để cúng dường, khiến cho vô số chúng cầu quả Thanh văn, vô số a-tăng-kỳ người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhân đó đều được trụ nơi pháp tam-muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân.
“Khi ấy, các vị Bồ Tát, chư thiên, người cùng các loài a-tu-la… nhìn thấy Bồ Tát không còn cánh tay thì đau buồn sầu khổ, thương cảm than thở rằng: “Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là vị thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay thiêu cháy mất hai tay, trở thành người có thân thể bất toàn.”
“Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở giữa đại chúng lập thệ nguyện rằng: ‘Tôi xả bỏ hai cánh tay [đốt lên cúng dường xá-lợi Phật], quyết định rồi sẽ được thân sắc vàng của Phật. Nếu điều này là đúng thật không hư dối, nguyện cho hai tay của tôi trở lại như cũ.’ Vừa lập nguyện xong, hai cánh tay liền tự nhiên trở lại như cũ. Đó là do phước đức và trí tuệ trong sáng sâu dày của Bồ Tát mà thành. Ngay vào lúc ấy, khắp thế giới đại thiên mặt đất đều chấn động theo sáu cách, trời mưa xuống hoa báu, hết thảy chư thiên, nhân loại đều cho là việc chưa từng có.”
Phân đoạn thứ hai nói về khổ hạnh trong tương lai, từ câu “Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường theo pháp như vậy rồi” trở đi. Phần này lại chia ra làm 5 ý. Thứ nhất là sanh vào nhà đức vua, thứ hai là tự nói việc trước đây của mình; thứ ba là tìm đến chỗ Phật; thứ tư là đức Như Lai giao phó dặn dò; thứ năm là vâng lời Phật nhận lãnh giữ gìn. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phần nhận lãnh giữ gìn lại có 4 tiểu ý. Thứ nhất là xây dựng tháp, thứ hai là thiêu cánh tay cúng dường, thứ ba là được lợi ích, thứ tư là phước báo ngay trong hiện tại. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa: “Ý ông nghĩ sao? Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó nào phải ai xa lạ, nay chính là Bồ Tát Dược Vương. Bồ Tát xả thân bố thí như vậy đã nhiều đến vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha lần.
“Này Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thể đốt một ngón tay, cho đến một ngón chân cúng dường tháp thờ Phật thì hơn cả việc cúng dường thành ấp đất nước, vợ con cùng núi rừng sông hồ, các món báu vật khắp các cõi nước trong thế giới đại thiên.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa” trở đi, tóm kết và nêu sự tương hợp giữa việc thuở xưa với ngày nay, chia làm 2 phân đoạn. Thứ nhất là tóm kết nêu sự tương hợp; thứ hai là khuyến khích tu hành. Phần khuyến khích tu hành nói “có thể đốt một ngón tay” hơn cả việc xả bỏ tài vật ngoài thân, vì vật ngoài thân là nhẹ, trong thân là nặng, cho nên công đức và phước báu khác nhau. Kinh văn nói “vợ con” tức là ngoài thân, nói “thành ấp đất nước” là tài vật bên ngoài.
KINH VĂN
“Lại nếu như có người dùng bảy món báu đầy khắp thế giới đại thiên để cúng dường lên Phật cùng các vị Đại Bồ Tát, Duyên giác, A-la-hán thì công đức của người ấy không bằng thọ trì kinh Pháp hoa này, thậm chỉ chỉ một bài kệ bốn câu cũng được phước nhiều nhất.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Lại nếu như có người dùng bảy món báu” trở đi là tán thán kinh điển, chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất xưng tán người thọ trì kinh. Đoạn thứ hai xưng tán kinh điển là giáo pháp được thọ trì. Đoạn thứ ba nêu việc thọ trì kinh được phước đức sâu xa.
[Kinh văn nói] dùng bảy món báu cúng dường bốn bậc thánh[17] cũng không bằng thọ trì một bài kệ [trong kinh]. Vì pháp là thầy của bậc thánh, có thể sanh ra, có thể nuôi dưỡng, có thể thành tựu, có thể phát triển, không có gì hơn được pháp. Cho nên [so sánh] xem nhẹ người, xem trọng pháp.
KINH VĂN
“Này Tú Vương Hoa! Giống như trong tất cả những nơi có nước như sông ngòi, khe suối… thì biển là lớn nhất, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là sâu xa quan trọng nhất trong tất cả những kinh Như Lai đã thuyết dạy.
“Lại giống như Thổ sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi cùng mười ngọn núi báu, trong tất cả các loại núi thì núi Tu-di là cao hơn hết, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là cao thượng hơn hết trong tất cả các kinh.”
Đoạn thứ hai từ câu “Này Tú Vương Hoa” trở đi là tán thán giáo pháp được thọ trì, chia làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất xưng tán tánh thể của pháp; tiểu đoạn thứ hai xưng tán công năng hoạt dụng của pháp.
“Trong tất cả những nơi có nước như sông ngòi, khe suối… thì biển là lớn nhất.” Kinh Vô lượng nghĩa dùng bốn nguồn nước để ví với giáo pháp.[18] Trong phẩm Thí dụ cỏ thuốc dùng một đám mây có thể mưa xuống làm thí dụ để giảng thuyết. Nay [kinh này] nói “trong tất cả những nơi có nước” là nói chung hết thảy các giáo pháp, lại nêu riêng 4 loại [sông, ngòi, khe, suối] là ví cho 4 vị của giáo pháp như sữa (nhũ), sữa đặc (lạc), bơ sống (sinh tô), bơ chín (thục tô). Giáo pháp kinh Pháp hoa này ví như biển lớn là vị đề-hồ. Thuyết giảng đến tận cùng bản địa là sâu, biến hiện khắp thảy mọi nơi là lớn, chỉ toàn nêu Phật pháp là vị mặn, không nói các pháp khác. Sâu xa nhất, lớn lao nhất là ý nghĩa như vậy.
Tên gọi mười ngọn núi báu, xem trong kinh Hoa Nghiêm và các kinh khác. Đại lược là như vậy. “Thổ sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi” tất nhiên không phải núi báu. Mười ngọn núi báu, tuy là báu nhưng vẫn có một hai loài rồng, thần cư ngụ lẫn lộn. Riêng núi Tu-di được hình thành bằng bốn món báu, chỉ toàn là chư thiên cư ngụ. Đây là ví dụ các giáo pháp khác thuyết dạy nương theo Thập địa, bốn mươi tâm,[19] hoặc phàm hoặc hiền hoặc thánh; thuyết dạy chỗ nương theo thì hoặc tục, hoặc chân, hoặc trung. Như vậy đều là thấp hèn, so với kinh Pháp hoa này thuyết dạy các chân lý thường, lạc, ngã, tịnh, ví như bốn món báu hợp thành. Lấy “khai, thị, ngộ, nhập” làm chỗ nương theo, cho nên ý nghĩa này là cao thượng nhất.
KINH VĂN
“Giống như so với tất cả các ngôi sao, mặt trăng là sáng hơn hết, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là soi chiếu sáng suốt hơn hết trong ngàn muôn ức loại kinh điển giáo pháp.
“Lại cũng như mặt trời có thể xua tan bóng tối, kinh Pháp hoa này cũng vậy, có thể phá trừ hết thảy bóng tối của tất cả những sự bất thiện.
Mặt trăng và sao đều là thuần âm, hiện ra vào ban đêm. Sao không có lúc đầy lúc khuyết, không sánh bằng mặt trăng. Các kinh khác dạy rằng trí quyền thừa không được tự tại; kinh này nêu rõ quyền tức là thật, thật tức là quyền, đủ hai tướng đầy khuyết chỉ ra không phân hai mà là hai. Thuyết về quyền trí như vậy vượt hơn các giáo pháp khác.
Mặt trời là thuần dương, duy nhất có khả năng phá trừ sự tối tăm. Các kinh khác nêu trí chân thật phá trừ nghi hoặc, vẫn không bằng được nghĩa ngay nơi thật đó là quyền, huống chi gồm cả nghĩa ngay nơi quyền đó là thật. Cho nên biết rằng kinh này nêu trí chân thật vượt hơn tất cả.
KINH VĂN
“Giống như ở giữa các vị tiểu vương thì Chuyển luân Thánh vương là bậc nhất, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là tôn quý nhất trong tất cả các kinh.
“Giống như Đế thích là vua trong cõi trời Đao-lợi, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là vua trong tất cả các kinh.
“Giống như Đại phạm Thiên vương là cha trong cõi trời Đao-lợi, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là cha của hết thảy các bậc hiền thánh, hữu học, vô học cùng những người phát tâm Bồ Tát.
“Giống như trong tất cả phàm phu, các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác là bậc nhất, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả những kinh điển Như Lai thuyết dạy, hoặc Bồ Tát thuyết dạy, hoặc Thanh văn thuyết dạy; người có thể thọ trì kinh Pháp hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả chúng sanh.”
Hiệu lệnh của vị Luân vương chỉ dừng trong phạm vi bốn cõi thiên hạ. Lệnh của vị Đế thích có hiệu lực ngang cõi trời ba mươi ba. Lệnh của vị Phạm vương có uy lực bao trùm từ trên xuống dưới. Đây là để ví như các kinh khác thuyết dạy về tam đế, tam-muội, đều không thâu nhiếp lẫn nhau, không được tự tại. Chỗ thuyết dạy của kinh Pháp hoa này dùng thật tướng thể nhập chân thật, quyết định rõ ràng về pháp Thanh văn, là vua trong tất cả các kinh. Dùng thật tướng thể nhập thế tục thì hết thảy mọi sự mưu sinh hay xây dựng sự nghiệp đều không có sự mâu thuẫn trái nghịch. Dùng thật tướng thể nhập trung đạo thì hết thảy các pháp đều là Phật pháp. Kinh văn nói “kinh Pháp hoa này… là cha của hết thảy các bậc hiền thánh, hữu học, vô học cùng những người phát tâm Bồ Tát”, ý nghĩa là như vậy.
“Giống như trong tất cả phàm phu, các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác là bậc nhất.” Ở đây nói rõ sự thuận theo tự nhiên, không cần dụng công. Các kinh khác [thuyết dạy] phải nhờ vào sự dụng công mới thể nhập vào dòng thánh, như hàng tứ quả đều nhân nơi văn, tư, tu mới có thể giác ngộ. Kinh này nêu rõ Vô tác tứ đế, không xen lẫn phương tiện, tự nhiên chảy vào biển Nhất thiết trí, như “trâu trắng lớn có màu da thuần khiết, hình thể mập mạp xinh đẹp, gân cốt bắp thịt nở nang mạnh mẽ, bước đi ngay ngắn, lướt nhanh như gió”. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
“Giống như trong tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác thì Bồ Tát là bậc nhất, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả kinh điển, giáo pháp.
“Giống như Phật là vua trong các pháp, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là vua trong tất cả các kinh.
“Trong tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác thì Bồ Tát là bậc nhất.” Đây là nêu rõ nhân [tu hành] bậc nhất. Các kinh khác nói nhân tu hành là bảy hạng phương tiện, kinh này nói nhân tu hành vượt ngoài mọi phương tiện, cho nên nói là nhân tu hành bậc nhất.
“Phật là vua trong các pháp”, đây là nêu về quả vị [bậc nhất]. Các kinh khác nêu quả vị gần, [chứng đắc] nơi đạo tràng tịch diệt. Kinh này nêu quả vị xa, chỉ đến bản địa [từ xa xưa] nên là bậc nhất.
KINH VĂN
“Này Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu độ hết thảy chúng sanh; kinh này có thể khiến cho hết thảy chúng sanh xa lìa khổ não; kinh này có thể làm lợi ích lớn lao cho hết thảy chúng sanh; giúp chúng sanh thành tựu đầy đủ tâm nguyện của họ. Giống như hồ nước trong mát có thể thỏa mãn tất cả những người đang khát; như người đang rét lạnh gặp được lửa; như người lõa lồ gặp được y phục; như những người đi buôn xa gặp được trưởng đoàn; như con được gặp mẹ; như người qua sông gặp được con thuyền; như người bệnh gặp được thầy thuốc; như khi tối tăm gặp được ngọn đèn; như người nghèo gặp được của báu; như dân thường gặp được đức vua; như người đi buôn xa gặp được biển rộng;[20] như ngọn đuốc xua tan bóng tối; kinh Pháp hoa này cũng vậy, có thể giúp chúng sanh xa lìa tất cả khổ não, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể tháo mở tất cả những trói buộc của sinh tử.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu độ” trở đi, xưng tán công năng hoạt dụng của pháp, chia làm 3 phân đoạn. Thứ nhất là tán thán công dụng dứt trừ khổ não. Thứ hai là nêu 12 việc, tán thán công dụng mang lại an vui. Cuối cùng là tóm kết, tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Nếu ai được nghe kinh Pháp hoa này rồi tự mình sao chép hoặc bảo người khác sao chép, người ấy đạt được công đức mà dù có dùng trí tuệ Phật để suy lường nhiều ít cũng không thể đạt đến giới hạn.
“Nếu có người sao chép kinh Pháp hoa này rồi dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương thoa, phướn lọng, y phục, đủ mọi loại đèn như đèn bơ, đèn dầu, đèn thắp bằng dầu thơm, các loại dầu hoa chiêm-bặc, tu-mạn-na, ba-la-la, ba-lợi-sư-ca, na-bà-ma-lợi để cúng dường, thì công đức đạt được cũng không hạn lượng.
“Này Tú Vương Hoa! Nếu có người được nghe phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương này, cũng đạt được vô lượng vô biên công đức.
“Nếu có người nữ được nghe phẩm kinh này rồi có thể thọ trì, thì sau khi đã hết thân nữ này, về sau không sinh làm thân nữ nữa.
“Năm trăm năm sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nữ được nghe kinh Pháp hoa này, theo đúng lời dạy tu hành, khi người ấy mạng chung sẽ được vãng sinh về thế giới An Lạc, trụ xứ của đức Phật A-di-đà với chúng Đại Bồ Tát vây quanh. Người ấy sinh ra ngồi trên tòa báu ở giữa hoa sen, [không còn thân nữ,] không còn bị tham dục gây phiền não, cũng không bị sân hận, ngu si gây phiền não, cũng không bị những cấu nhiễm như kiêu mạn, tật đố gây phiền não, được pháp thần thông của Bồ Tát, đạt được pháp nhẫn vô sinh. Đạt pháp nhẫn này rồi, nhãn căn được thanh tịnh; nhờ nhãn căn thanh tịnh nên thấy được các đức Phật Như Lai nhiều như số cát của bảy trăm mười hai ngàn ức na-do-tha con sông Hằng.
“Khi ấy, chư Phật đều từ xa cùng khen ngợi: ‘Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp của đức Phật Thích-ca Mâu-ni mà thọ trì, tụng đọc, suy ngẫm kinh Pháp hoa này, vì người khác giảng nói, đạt được phước đức vô lượng vô biên, lửa không thể thiêu cháy, nước không thể cuốn trôi. Công đức của ông cho dù cả ngàn đức Phật cùng diễn nói cũng không nêu ra hết được. Nay ông có thể phá hết bọn giặc ma, trừ dứt quân sinh tử, những oán cừu thù địch khác cũng đều bị phá dẹp. Này thiện nam tử! Trăm ngàn đức Phật đều dùng sức thần thông để cùng che chở bảo vệ cho ông. Trong hàng trời, người ở khắp thế gian không ai được như ông. Trừ ra đức Như Lai, còn những hàng Thanh văn, Duyên giác cho đến hàng Bồ Tát đều không có trí tuệ thiền định sánh được như ông.’
“Này Tú Vương Hoa! Vị Bồ Tát [thọ trì kinh Pháp hoa] thành tựu được công đức, sức trí tuệ như vậy. Nếu có người được nghe phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương này, có thể tùy hỷ khen ngợi xưng tán, người ấy ngay trong đời này thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh từ miệng, thường tỏa hương thơm chiên-đàn Ngưu đầu từ các lỗ chân lông trên thân, và đạt được những công đức như trên đã nói.
“Vì thế, này Tú Vương Hoa, nay ta đem phẩm kinh này giao phó lại cho ông. Trong khoảng năm trăm năm sau khi ta diệt độ, hãy lưu truyền rộng khắp trong cõi Diêm-phù-đề, đừng để dứt mất khiến cho những kẻ xấu ác trong bọn ma, dân ma, trời, rồng, dạ-xoa, cưu-bàn-trà… được thuận tiện phát triển.
“Này Tú Vương Hoa! Ông nên dùng sức thần thông để giữ gìn, bảo vệ kinh Pháp hoa này. Vì sao vậy? Vì kinh này là liều thuốc hay chữa bệnh cho người trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu người có bệnh mà được nghe kinh này liền dứt bệnh, không già không chết.
“Này Tú Vương Hoa! Nếu ông gặp người thọ trì kinh này, nên dùng bột hương trầm ướp hoa sen xanh cung kính rải lên người ấy. Rải lên rồi liền khởi ý nghĩ rằng: ‘Người này không bao lâu nhất định sẽ trải cỏ ngồi nơi đạo trường, phá trừ quân ma, sẽ thổi tù và chánh pháp, đánh trống pháp lớn, đưa tất cả chúng sanh vượt thoát biển sinh già bệnh chết.’ Cho nên, người cầu đạo Phật gặp người thọ trì kinh điển nên sinh tâm cung kính như vậy.”
Đoạn thứ ba từ câu “Nếu ai được nghe kinh Pháp hoa này” trở đi, nêu rõ việc trì kinh được phước đức sâu xa, chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất, nêu phước đức của việc thọ trì toàn văn kinh. Thứ hai, nêu phước đức của việc thọ trì phẩm [Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương] này.
Kinh văn phần này có suy lường phúc đức, có giao phó [riêng phẩm kinh này và toàn bộ kinh], tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
“Thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh từ miệng” là phước báo ngay trong hiện tại. Các việc khác đều là phước báo đời sau.
“Được nghe kinh này liền dứt bệnh, không già không chết.” Câu này nên quán xét để hiểu. Không già là lạc, không chết là thường; được nghe kinh này thì hiểu rõ về [ý nghĩa] thường, lạc, trong lòng thanh thản an nhiên không còn gì lo sợ nữa.
KINH VĂN
Khi Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương, có tám mươi bốn ngàn Bồ Tát đạt được pháp đà-la-ni Nhận hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sanh.
Đức Như Lai Đa Bảo trong tháp báu khen ngợi Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng: “Lành thay, lành thay, Tú Vương Hoa! Ông đã thành tựu được công đức không thể nghĩ bàn, có thể thưa hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni việc như vậy, làm lợi ích cho vô số hết thảy chúng sanh.”[21]
Phần thứ ba từ câu “Khi Phật thuyết phẩm…” trở đi, nêu việc thính chúng nghe kinh được lợi ích, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phần thứ tư từ “Đức Như Lai Đa Bảo…” nêu việc đức Phật Đa Bảo xưng tán điều tốt đẹp, y theo kinh văn có thể hiểu được.
_________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Văn Cú dùng “牛羊眼” (ngưu dương nhãn), nghĩa đen là con mắt của loài trâu, dê, hàm ý để chỉ cách nhìn của người tầm thường, không có sự hiểu biết.
[2] Luận Thập nhị môn (十二門論). Văn Cú dẫn lược câu này theo ý chính, không theo nguyên tác, vì trong luận này tuy nói chung các vị Đại Bồ Tát nhưng không nêu tên Bồ Tát Phổ Hiền: “又觀世音, 得大勢, 文殊師利, 彌勒菩薩等, 是諸大士之所乘故, 故名為大。- Hựu Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế, Văn-thù-sư-lợi, Di-lặc Bồ Tát đẳng… thị chư Đại sĩ chi sở thừa cố, cố danh vi đại.” (Lại nữa, các vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế, Văn-thù-sư-lợi, Di-lặc… các bậc Đại sĩ này đều nương theo, cho nên gọi là đại.) (ĐCT, T30, 568, tr.159c, d.18-19)
[3] Bản Đại Chánh tạng kết lại lời thưa hỏi của Bồ Tát Tú Vương Hoa ở chỗ này và xem phần tiếp theo là mô tả của người chép kinh. (ĐCT, T9, 262, tr.53a, d.8) Điều này không hợp lý, vì khi Bồ Tát thưa hỏi, đức Phật chưa giải đáp gì thì đại chúng không có lý do để hoan hỷ. Phần sau này chính là ý của Bồ Tát, rằng nếu được Phật giải đáp, đại chúng sẽ hoan hỷ. Tham khảo bản Anh dịch của H. Kern đoạn này nói là: “Let the Lord, the Tathâgata, &c., deign to tell us any part of the course of duty of the BodhisattvaMahâsattva Bhaishajyaraja, that by hearing it the gods, Nâgas, goblins, Gandharvas, demons, Garudas, Kinnaras, great serpents, men, and beings not human, as well as the Bodhisattvas Mahâsattvas from other worlds here present, and these great disciples here may be content, delighted, overjoyed.” Do vậy biết rằng cách đặt dấu câu của Đại Chánh tạng đã sai lầm.
[4] Chiên đàn kiên hắc (H. 堅黑栴檀, S. kālānusārin), một loại chiên đàn rất thơm và quý.
[5] Nguyên tác dùng “海此岸栴檀 - hải thử ngạn chiên đàn”, cũng tức là chiên đàn hải ngạn, là một loại chiên đàn cực kỳ quý giá.
[6] Thù (銖), đơn vị cân nặng ngày xưa; 6 thù bằng 1 chuy (錙), 8 thù bằng một chùy (錘), 24 thù bằng 1 lượng (两), 16 lượng bằng 1 cân (斤). Như vậy, phải 384 thù mới được 1 cân, và mỗi cân thời xưa chỉ khoảng 250 gram; 6 thù có trọng lượng khoảng hơn 9 gram.
[7] Huân lục (H. 熏陸, S. kunduru), một loại cây có nhựa, dùng làm hương đốt rất thơm, cũng gọi là nhũ hương hay nhũ đầu hương.
[8] Đâu-lâu-bà (H. 兜樓婆, S. turuṣka), một loại cỏ thơm, cũng gọi là mao hương hay bạch mao hương.
[9] Tất-lực-ca (H. 畢力迦, S. pṛkkā), một loại hương thơm, cũng gọi là xúc hương hay mục túc hương.
[10] Giao hương, tức bạch giao hương (H. 白膠香, S. sarja-rasa), là loại hương thơm chế bằng nhựa cây sa-la.
[11] Trong kinh Chánh Pháp hoa và bản dịch Anh ngữ của H. Kern đều nói là 12 năm. Kinh Chánh Pháp hoa, đoạn tương đương là: “斷絕五穀專食眾香,眾香華汁而以飲之,日使身中內外皆香,如是服香竟十二 年。” - Đoạn tuyệt ngũ cốc chuyên thực chúng hương, chúng hương hoa hiệp nhi dĩ ẩm chi, nhật sử thân trung nội ngoại giai hương, như thị phục hương cánh thập nhị niên.” (Dứt tuyệt các món ngũ cốc, chỉ ăn toàn các loại hương thơm, lại hợp các loại hương hoa để uống, khiến cho thân thể trong ngoài đều là mùi thơm, như vậy ăn uống các loại hương qua 12 năm.) (ĐCT, T9, 263, tr.125b, d.13-15) Bản Anh ngữ của H. Kern: “Bodhisattva Mahasattva Sarvasattvapriyadarśana passed twelve years in always and constantly eating those fragrant substances and drinking oil of Kampaka.” (Đại Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến trải qua 12 năm luôn luôn và liên tục ăn các loại hương thơm và uống dầu hương hoa chiêm-bặc.) Như vậy, kinh Chánh Pháp hoa mô tả nhấn mạnh là Bồ Tát không ăn vật thực khác, chỉ ăn toàn các loại hương thơm.
[12] Nguyên tác ở đây dùng chữ “布施 - bố thí” nhưng với ý nghĩa chỉ việc cúng dường Phật như đang đề cập trong ngữ cảnh. Nghĩa rộng của pháp bố thí bao gồm cả việc cúng dường chư Phật.
[13] Kinh Chánh Pháp hoa cũng dịch là 1.200 năm: “於時菩薩自然其身,千二百歲火 故不滅,- ư thời Bồ Tát tự nhiên kỳ thân, thiên nhị bách tuế hỏa cố bất diệt” (khi ấy Bồ Tát tự thiêu thân mình, qua 1.200 năm lửa vẫn chưa tắt). (ĐCT, T9, 263, tr.125b, d.25) Bản Anh ngữ của H. Kern dịch là 12 ngàn năm: “The body of Sarvasattvapriyadarsana continued blazing for twelve thousand years without ceasing to burn” (Thân thể của Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến tiếp tục cháy liên tục qua 12.000 năm.)
[14] Đà-la-ni Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn (解一切眾生語言陀羅尼), là pháp đà-la-ni hiểu rõ được tất cả các ngôn ngữ của chúng sanh.
[15] Các tên gọi na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà đều là số đếm, chỉ những con số cực kỳ lớn, cũng giống như nói vô số, vô lượng…
[16] Nguyên tác nói “cao tam thế giới”, hàm ý là cao vượt qua ba thế giới. Kinh Chánh Pháp hoa nói là “高至梵天 - cao chí Phạm thiên”, phù hợp với cách diễn đạt trong nhiều phần trước. Bản Anh ngữ của H. Kern dịch là “reaching in height to the Brahma-world” (cao lên đến thế giới Phạm thiên).
[17] Văn Cú nói “tứ thánh” (四聖) để chỉ Phật, Bồ Tát, Duyên giác và A-la-hán.
[18] Kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa nói: “Dù là nước giếng, nước ao, nước sông, nước biển... thảy đều rửa sạch được sự dơ nhớp. Pháp cũng như vậy, có thể rửa sạch được sự dơ nhớp phiền não của chúng sanh.” (ĐCT, T9, 276, tr.386b, d.6-7) (Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2016)
[19] Văn Cú nói “tứ thập tâm” (四十心), được nói trong kinh Phạm võng, quyển thượng. Đây là các giai đoạn tu tiến từ thấp lên cao bao gồm: 10 tâm Phát thú, tức các tâm phát khởi thú hướng ban đầu: xả tâm, giới tâm, nhẫn tâm, tinh tấn tâm, định tâm, tuệ tâm, nguyện tâm, hộ tâm, hỷ tâm, đỉnh tâm; 10 tâm trưởng dưỡng, là các tâm tiếp tục tăng trưởng: từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, xả tâm, thí tâm, hảo ngữ tâm, ích tâm, đồng tâm, định tâm, tuệ tâm; 10 tâm kim cương, là các tâm đã kiên cố: tín tâm, niệm tâm, hồi hướng tâm, đạt tâm, trực tâm, bất thối tâm, Đại thừa tâm, vô tướng tâm, tuệ tâm, bất hoại tâm; 10 tâm ở hàng Thập địa, cũng gọi là 10 địa: thể tính bình đẳng địa, thể tính thiện tuệ địa, thể tính quang minh địa, thể tính nhĩ diệm địa, thể tính tuệ chiếu địa, thể tính hoa quang địa, thể tính mãn túc địa, thể tính Phật hống địa, thể tính Hoa nghiêm địa, thể tính nhập Phật giới địa. (Phạm Võng Kinh - 梵網經, quyển 1, ĐCT, T24, 1484, tr.997c, d17 – tr.998a, d.2)
[20] Nguyên tác là “như cổ khách đắc hải”, có vẻ hơi tối nghĩa. Bản Anh dịch của H. Kern dịch câu này là “like the ocean for the rivers” (như những dòng sông gặp được biển).
[21] Đức Như Lai Đa Bảo ở trong tháp báu, vào lúc này không còn hiện thân nhìn thấy được, vì cuối phẩm Giao phó về sau thì tháp Phật tuy còn ở lại Pháp hội nhưng đã đóng lại.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.105 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập