Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bồ Đề Tư Lương Luận [菩提資糧論] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Bồ Đề Tư Lương Luận [菩提資糧論] »» Bản Việt dịch quyển số 3


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.36 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.43 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Bồ Đề Tư Lương

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@rongmotamhon.net
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 6 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 |
Việt dịch: Thích Như Điển

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Lại có ý Sư khác
Các tư lương Bồ-đề
Thật, Xả và Tịch, Trí
Được nhiếp vào bốn nơi.

Lại, có một Luận Sư nghĩ thế này: Tất cả tư lương Bồ-đề đều được nhiếp vào chỗ Thật, chỗ Xả, chỗ Tịch và chỗ Trí.

Thật là tướng không hư cuống thật tức là Giới, cho nên Thật là Thi-la ba-la-mật.

Xả tức là bố thí nên xả là Đàn-na ba-la-mật.

Tịch tức là tâm không trược. Nếu tâm không trược thời sự thọ hay không chẳng động được tâm. Cho nên chỗ Tịch là Sằn-đề ba-la-mật và Thiền-na Ba-la-mật.

Chỗ Trí hoàn là Bát-nhã Ba-la-mật.

Tỳ-lê-gia Ba-la-mật vào khắp các chỗ, vì nếu không có tinh tiến ắt chẳng chỗ nào thành tựu. Cho nên Tỳ-lê-gia Ba-la-mật thành tựu các sự.

Cho nên tất cả tư lương đều vào bốn chỗ.

Hỏi: Như Kinh nói, dùng tư lương Từ sẽ được tâm vô ngại, dùng tư lương Xả thời đoạn được yêu ghét. Trong đó, Từ và Bi có gì khác nhau?

Đáp:

Đại Bi thấu xương tủy
Là chỗ chúng sinh nương
Như cha với một con;
Từ ắt khắp tất cả.

Nếu ai vào đường sinh tử hiểm, đọa các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, mắc trong lưới tà kiến, bị rừng rậm ngu si che đậy, đi đường tà phi đạo giống như câm điếc; trong sự không xuất ly mà thấy là xuất ly, bị các giặc sinh, lão, bệnh, tử, ưu, bi nắm giữ, vào rừng rậm ý ma, bỏ xa ý của Phật, thời Bồ-tát đại bi xuyên tự thân mình: Da, thịt, máu, gân thấu đến xương tủy, vì các chúng sinh mà làm chỗ nương, khiến các chúng sinh này qua được đường ác hoang dã hiểm nạn, đặt ở cung thành Nhất thiết trí không sợ hãi. Ví như trưởng giả chỉ có một đứa con phúc đức mà bị bệnh khổ, yêu đến triệt thấu da thịt vào đến xương tủy, chỉ nghĩ khi nào con được khỏi bệnh. Bi cũng như thế, chỉ nơi chúng sinh khổ mà khởi.

Từ thì khắp trong tất cả chúng sinh mà khởi. Lại nữa, vì Từ nên nơi chúng sinh được tâm vô ngại, vì Bi nên trong sinh tử chẳng có chán mệt.

Lại, Từ thì trong người thiện mà sinh; Bi trong người bất thiện mà sinh.

Lại, Bồ-tát vì Từ tăng trưởng không tham trước vui của tự mình ắt sinh Đại từ, vì Bi tăng trưởng, xả các phần thân và mạng, ắt sinh Đại bi.

Nếu niệm công đức Phật
Nghe thần biến của Phật
Yêu thích, thanh tịnh thọ
Đây gọi là đại hỷ.

“Nếu niệm công đức Phật” thì thế nào là niệm công đức của Phật? Nghĩa là: Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng trăm nghìn kiếp, vì tích tập căn lành, vì không tiếc nghiệp thân, khẩu, ý, vì đoạn trừ nghi trong năm loại đáng biết, vì không lỗi trong bốn loại trả lời khó, vì truyền dạy ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề, vì giác ngộ nhân duyên trong mười hai phần duyên sinh, vì dạy chín giáo lý, vì đầy đủ bốn phần trụ trì, vì được bốn vô lượng, vì đầy đủ sáu Ba-la-mật, vì nói mười địa của Bồ-đề, vì thành mãn năm chúng xuất thế, vì đầy đủ bốn vô úy, mười lực, mười tám pháp bất cộng, vì cảnh giới vô biên, vì tự tại chuyển tự tâm, vì pháp vô yểm túc, vì được Tam-ma-địa kim cương, vì nói pháp không hư vọng, vì pháp không thể hoại, vì làm Tôn Sư của thế gian, vì đảnh không thể thấy, vì không gì sánh bằng, vì không ai hơn, vì pháp không thể nghĩ bàn, vì được đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vì tướng trăm phúc, vì vô lượng căn lành, vì công đức vô biên, vì công đức vô lượng, vì công đức vô số, vì công đức không thể phân biệt, vì công đức hiếm có, vì công đức bất cộng. Những điều như thế gọi là niệm công đức của Phật.

Vì hóa độ chúng sinh nên khởi thần thông biến hiện, tùy chúng sinh đáng được hóa độ, tùy thân chúng sinh, tùy hình lượng dài ngắn rộng hẹp, tùy theo đủ loại sắc tướng khác nhau, tùy âm thanh mà thanh tịnh phân biệt, chư Phật Thế Tôn dùng đủ loại thần thông hiếm có, như chỗ làm họ, như lòng tin và mong muốn của họ, dùng đủ loại phương tiện thần biến khác nhau mà giáo hóa. Nghe sự này rồi, yêu thích mà thanh tịnh thọ nhận- đây gọi là đại hỷ: Trong đó, mãnh liệt gọi là ái, tâm ái biến khắp thân gọi là hỷ, tâm hỷ giác biết lạc- gọi là thọ; khi thọ lạc niệm công đức đại thần thông của đấng Chánh Giác, tâm không trược- gọi là tịnh. Khi tâm tịnh, ý hỷ sung mãn gọi là đại hỷ. Người lên thừa ít phần kia, tuy cũng gọi là hỷ, vì đây bất cộng nên được gọi là đại hỷ.

Hỏi: Bồ-tát nên xả hay không xả chúng sinh?

Đáp:

Bồ-tát với chúng sinh
Không nên được xả bỏ,
Phải tùy sức kham được
Nhiếp thọ tất cả thời.

Bồ-tát ma-ha-tát thường nghĩ lợi lạc các chúng sinh. Nếu bị tham, sân, si làm não, lên đường xan tật, phá giới, sân hận, giải đãi, loạn tâm, ác trí, vào dị lộ- nơi những chúng sinh này không nên xả bỏ, tất cả thời nói thí, giới, tu, tùy sức có thể làm mà nên nhiếp thọ, không nên vứt bỏ.

Bồ-tát từ lúc đầu
Phải tùy sức kham được
Phương tiện dạy chúng sinh
Khiến vào trong Đại thừa.

Bồ-tát lên Đại thừa này, trong chúng sinh, ngay từ lúc đầu phải tùy sức mà làm, như phương tiện được nói trong Phương tiện ba-la-mật trước, phải nên tinh cần dùng các phương tiện giáo hóa chúng sinh, đặt vào Đại thừa này.

Hỏi: Vì cớ gì Bồ-tát chỉ dùng Đại thừa giáo hóa chúng sinh, không dùng thừa Thanh văn, Độc giác?

Đáp:

Độ Hằng sa chúng sinh
Khiến được quả La-hán,
Độ một vào Đại thừa
Phúc đức này cao hơn.

Nếu giáo hóa chúng sinh như số cát sông Hằng, khiến được quả A-la-hán; phúc của Đại thừa vượt hơn phúc giáo hóa thừa Thanh văn, vì chủng tử vô tận; có chủng tử này thời có thể vì các chúng sinh khác làm phương tiện tâm Bồ-đề. Vì cũng sinh ra Thanh văn, Độc giác nên phúc này cao hơn. Phúc này cao hơn, vì Đại thừa cao hơn Thanh văn và Độc giác. Lại, vì tâm Bồ-đề này có vô lượng vô biên phúc đức. Lại, do Đại thừa mà dòng Tam Bảo không đoạn tuyệt. Cho nên, muốn cầu phúc lớn, phải dùng Đại thừa giáo hóa chúng sinh, không dùng thừa khác.

Hỏi: Các Ma-ha-tát há chỉ dùng Đại thừa giáo hóa chúng sinh, không dùng thừa Thanh văn, Độc giác ư?

Đáp:

Giáo hóa dùng Thanh văn
Và cả thừa Độc giác
Vì họ ít lực nên
Chẳng kham Đại thừa hóa.

Nếu chúng sinh tâm bậc trung và hạ, bỏ sự lợi ích tha nhân, thiếu đại bi, không thể dùng Đại thừa giáo hóa, bèn dùng thừa Thanh văn và Độc giác mà giáo hóa họ.

Hỏi: Nếu có chúng sinh không thể dùng ba thừa giáo hóa, thì đối với họ nên xả bỏ hay không xả bỏ?

Đáp:

Thừa Thanh văn, Độc giác
Và cả trong Đại thừa
Không thể nhận giáo hóa
Nên đặt ở chỗ phúc.

Nếu có chúng sinh vui thích sinh tử, chán ghét giải thoát, không thể dùng thừa Thanh văn, Độc giác và Đại thừa giáo hóa, phải nên giáo hóa, đặt trong bốn Phạm hành của thừa Phạm. Nếu lại chẳng kham sự giáo hóa của thừa Phạm, phải nên giáo hóa, đặt ở mười đạo nghiệp thiện của Thiên thừa và các sự phúc thiện như bố thí..., không nên xả bỏ.

Hỏi: Nếu có chúng sinh vui thích sự vui của thế gian, với sự của ba phúc không có lực có thể hành, với loại người này phải làm thế nào?

Nếu người không thể nhận
Giáo hóa giải thoát, thiên
Bèn dùng lợi hiện thế
Như lực phải nên nhiếp.

Nếu có chúng sinh chuyên cầu dục lạc, không quán đời khác, thú hướng địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không thể giáo hóa khiến sinh cõi Trời hoặc giải thoát, cũng nên thương họ trí như trẻ nhỏ, theo như chỗ thích đáng mà nhiếp họ trong đời này. Tùy theo lực của mình có thể mà dùng bố thí...để nhiếp họ, thương mà chẳng xả bỏ.

Hỏi: Nếu Bồ-tát nơi các chúng sinh như trẻ nhỏ này, không có phương tiện có thể nhiếp hóa, với người ấy sẽ phải làm thế nào?

Đáp:

Bồ-tát với chúng sinh
Không có duyên giáo hóa
Phải khởi đại từ bi
Không nên liền vứt bỏ.

Nếu Bồ-tát với chúng sinh đáng thương vui thích tội ác, không có phương tiện có thể làm để nhiếp hóa, Bồ-tát với họ phải khởi tưởng như con, hưng khởi tâm đại bi, không có đạo lý nào mà được vứt bỏ.

Hỏi: Đã nói với chúng sinh phải nên nhiếp thọ, chưa biết phương tiện thế nào?

Đáp:

Thí nhiếp và nói pháp,
lại lắng nghe nói pháp,
Cũng làm việc lợi họ
Đây là phương tiện nhiếp.

Các Bồ-tát vì nhiếp thọ chúng sinh, hoặc dùng bố thí làm phương tiện nhiếp, hoặc nhận sự bố thí của họ, hoặc vì họ mà nói pháp, hoặc nghe họ nói pháp, hoặc làm lợi ích cho họ, hoặc dùng ái ngữ, hoặc dùng đồng sự, hoặc nói về các minh, hoặc thị hiện làm nghiệp, hoặc khiến người bệnh được khỏi, hoặc cứu khỏi các hiểm nạn - những điều như thế gọi là phương tiện nhiếp hóa chúng sinh, phải dùng các phương tiện này nhiếp thọ chúng sinh, không nên vứt bỏ.

Hỏi: Dùng những phương tiện nhiếp thọ như vậy, nhiếp chúng sinh rồi sẽ thành tựu lợi ích nào?

Đáp:

Làm lợi ích chúng sinh
Không mệt, không phóng dật
Khởi nguyện làm Bồ-đề
Lợi đời tức lợi mình.

Trong đó, Bồ-tát phát nguyện làm lợi ích thế gian, phát tâm như thế này: Phàm là sự lợi ích thế gian tôi đều nên làm. Lập thệ như vậy rồi, trong việc làm với chúng sinh không có mệt mỏi, không nên phóng dật. Lại phải nghĩ rằng: Nếu lợi thế gian tức là lợi mình. Cho nên Bồ-tát với nhân duyên làm lợi ích chúng sinh không nên vứt bỏ.

Hỏi: Đã nói Bồ-tát thường phải lợi ích chúng sinh, không nên bỏ. Trong các pháp thì nên bỏ hay không bỏ?

Đáp:

Vào pháp giới thậm thâm
Diệt, lìa các phân biệt,
Trọn không có công dụng
Mọi nơi tự nhiên xả.

Pháp giới tức là duyên sinh, cho nên trước đã nói: Như Lai hoặc xuất hiện, hoặc không xuất hiện, pháp tính của pháp giới này thường trụ. Cái gọi là duyên sinh, lại cũng như trước nói: A-Nan-Đà! Duyên sinh thậm thâm, chứng ngộ cũng thậm thâm, cho nên Bồ-tát vào pháp giới thậm thâm này, diệt tất cả nhị biên như: Có-không.

Nhiếp thọ trí phương tiện rồi liền diệt các động niệm phân biệt hí luận, lìa tướng nắm giữ, các chỗ hành của tâm ý thức đều không lại hành, cho đến hành Phật, hành Bồ-đề, hành Bồ-tát, hành Niết-bàn đều cũng không hành; ắt các pháp lại không công dụng, trong các pháp được tịch tĩnh. Lại, tâm tịch tĩnh, tâm không phân biệt- gọi là đệ nhất nghĩa xả. Đây tức là tâm vô phân biệt của Bồ-tát vậy.

Đã nói về xả xuất thế rồi, nay tôi sẽ nói về xả thế gian:

Lợi, danh, tán thán, lạc
Bốn nơi đều không mắc,
Ngược lại cũng chẳng ngại
Như thế gọi là xả.

Với lợi dưỡng, danh văn, tán thán, an lạc không bị dính mắc; ngược lại: Không lợi, không danh, hủy nhục, khổ cũng không gây trở ngại khiến thối lui. Xả lìa nơi yêu ghét mà trụ, lại chẳng phân biệt. Đây gọi là nói về xả thế gian thứ hai.

Hỏi: Nếu Bồ-tát trong các pháp thực hành xả ở nghĩa đệ nhất, vì Bồ-đề nên như áo cháy đầu, làm sao có thể động hành như thế được?

Đáp:

Bồ-tát vì Bồ-đề
Cho đến chưa bất thối
Ví như áo cháy đầu
Phải làm động hành này.

Tuy với các pháp phải xả như vậy, nhưng Bồ-tát quyết định tu hành như áo cháy đầu, cho đến Bồ-tát chưa được bất thối chuyển Bồ-đề phải nên động hành. Trong đó Bồ-tát có năm nhân duyên bất thối chuyển, nên biết.

Những gì là năm? Trong các kinh như Hoa Tụ nói: Nếu vì nghe đầy đủ đại nguyện của Bồ-tát và danh hiệu của chư Phật Thế tôn, hoặc vì nguyện sinh vào cõi của Phật Thế Tôn kia- đây là hai loại nhân duyên. Vì thọ trì và nói kinh thâm sâu, như Bát-Nhã Ba-La-Mật, đây là nhân duyên thứ ba. Vì tu tập hiện tiền các Tam-ma-đề và tùy hỷ người đắc được- là nhân duyên thứ tư. Bốn nhân duyên này gọi là Bồ-tát bất thối chuyển chưa đắc nhẫn.

Nếu Bồ-tát trụ Bồ-tát bất động địa và đã đắc vô sinh nhẫn- gọi là rốt ráo quyết định bất thối chuyển.

Hỏi: Nếu trong bốn loại nhân duyên, tùy một nhân duyên bất thối chuyển mà Bồ-tát được bất thối chuyển; trước đó nói rằng: Như áo cháy trên đầu, phải nên động hành thì, điều đó làm sao thành?

Đáp:

Nhưng các Bồ-tát kia
Khi vì cầu Bồ- đề
Tinh tiến không nên ngừng
Vì mang trọng trách vậy.

Tuy trong bốn nhân duyên, tùy một loại mà Bồ-tát được bất thối chuyển, nhưng tinh tiến không nên ngừng nghỉ. Do trước đã nói lời này: “Tôi sẽ khiến các chúng sinh đều được Niết-bàn”, vì mang trọng trách lớn như vậy, nên trong khoảng giữa phải tinh tiến không ngừng.

Hỏi: Vì cớ gì mà trong khoảng giữa phải tinh tiến không được ngừng nghỉ?

Đáp:

Chưa sinh đại bi, nhẫn
Tuy được bất thối chuyển
Bồ-tát còn có chết
Do vì khởi phóng dật.

Trong bốn nhân duyên, tùy nhân duyên nào được bất thối chuyển, Bồ-tát kia chưa sinh đại bi cho đến chưa được vô sinh nhẫn, trong khoảng giữa thọ sinh tử, do vì phóng dật. Do đó Bồ-tát phải nên động hành như áo cháy trên đầu. Vì để được vô sinh nhẫn nên trong khoảng giữa tinh tiến không nghỉ.

Hỏi: Bồ-tát lại có sự chết nào?

Đáp:

Địa Thanh văn, Độc giác
Nếu vào bèn là chết
Vì đoạn nơi Bồ-tát
Các căn hiểu biết được.

Như được nói ở trước, bốn loại nhân duyên, tùy nhân duyên nào đó được bất thối chuyển, vị Bồ-tát này chưa có đại bi, chưa đắc nhẫn, chưa vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác, hoặc sẽ vì lực của bạn ác mà sợ khổ sinh tử, vì thọ sinh trong khoảng trung gian, vì trong thời gian kiếp hoại (chúng sinh?) sân hiềm Bồ-tát, hủy báng chính pháp, nên mất tâm Bồ-đề. Khởi tâm Thanh văn, Độc giác rôì, hoặc sẽ ở giải thoát của Thanh văn, Độc giác mà chứng. Họ đoạn mất căn của Bồ-tát- nghĩa là đại bi. Do đó, các Bồ-tát và Phật Thế Tôn gọi là Nói và hiểu biết sự chết.

Hỏi: Điều này phải suy xét, Bồ-tát là sợ trụ địa ngục hay sợ rơi vào địa vị Thanh văn- Độc giác?

Đáp:

Giả sử đọa địa ngục
Bồ-tát không sinh sợ,
Địa Thanh văn, Độc giác
Bèn là kinh sợ lớn.

Giả sử Bồ-tát ở trong địa ngục cùng vô số trăm nghìn khổ cũng không bằng sợ rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác.

Hỏi: Tại sao như thế?

Đáp:

Không phải đọa địa ngục
Rốt ráo chướng Bồ-đề,
Địa Thanh văn, Độc giác
Ắt là chướng rốt ráo.

Giả sử vào địa ngục, với chánh giác đạo, không thể làm chướng ngại rốt ráo. Khi ở trong địa ngục, cho đến khi nghiệp ác hết thì tạm chướng ngại Bồ-đề. Bồ-tát nếu rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, ắt rốt ráo chẳng sinh, nên địa vị Thanh văn, Độc giác bèn là chướng ngại với đạo Chánh giác. Do nghĩa này, nên Bồ-tát vào địa ngục cũng không sợ bằng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác.

Hỏi: Sợ như thế nào?

Đáp:

Như nói: Người thích thọ
Sợ hãi bị chém đầu,
Địa Thanh văn, Độc giác
Phải sợ hãi như vậy.

Trong kinh Phật Thế tôn nói như thế. Như người thích thọ lâu sợ bị chém đầu, Bồ-tát muốn cầu Vô thượng Bồ-đề sợ hãi địa vị Thanh văn, Độc giác cũng phải như vậy. Cho nên Bồ-tát tuy vào địa ngục cũng không sợ bằng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác.

Hỏi: Đã nói rằng chưa được vô sinh nhẫn, Bồ-tát chướng ngại pháp. Bồ-tát này làm sao được vô sinh nhẫn?

Đáp:

Không sinh cũng không diệt
Chẳng không sinh không diệt,
Không cùng, chẳng không cùng
Không, chẳng không cũng vậy.

Trong đó Bồ-tát khi quán duyên sinh, nghĩ thế này: Có pháp duyên sinh chỉ là thi thiết, như trong vô sinh mà có sinh nên tự thể của sinh không thành. Tự thể không thành nên sinh ắt không có. Nếu tự thể của sinh không có, sự diệt của nó- là hai- cả hai cùng không có thể tính. Như sinh và diệt, thời chẳng sinh chẳng diệt- là hai- cả hai cũng không có thể tính. Trong hai loại sinh và diệt, sinh chẳng sinh, diệt cũng chẳng diệt; cũng không có ngược với nhau nên cũng không như vậy. Như cái Có là không có tự thể nên cái chẳng phải không và không chẳng không cũng như vậy.

Hỏi: Nếu nghĩ như thế này: Vì duyên sinh nên các pháp không có tự thể, thì vì cớ gì mà nghĩ thế này: Cũng không có pháp duyên sinh?

Đáp:

Tùy theo pháp có nào
Trong đó quán chẳng động
Đó là vô sinh nhẫn
Vì đoạn các phân biệt.

Như thế Bồ-tát như thật quán duyên sinh, lìa được cái thấy có tự thể pháp. Vì lìa cái thấy có tự thể pháp liền đoạn sự nắm giữ tự thể của pháp. Khi đoạn được tự thể pháp, nghĩ thế này: Chẳng phải không có pháp trong, ngoài, nhưng không có tự thể của pháp. Tuy có pháp duyên sinh, nhưng chỉ như bó lau, huyễn mộng. Nếu pháp từ duyên sinh, tự thể nó không sinh. Quán như thế rồi, các Sa-môn, Bà-la-môn không thể làm động. Nhưng không thủ chứng. Vị ấy vì vui thích quán pháp vô sinh, vì đoạn các phân biệt nên gọi là vô sinh nhẫn. Bồ-tát này liền sinh Bồ-tát bất động địa. Kệ rằng:

Đã được nhẫn này rồi
Ngay đó được thọ ký:
Ông ắt sẽ làm Phật.
Liền được bất thối chuyển.

Được vô sinh nhẫn này, nên liền khi đắc- không trước, không sau- chư Phật hiện tiền thọ ký làm Phật: Ông ở vị lai, trong thời kiếp nào, thế giới nào, sẽ làm vị Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri nào. Đây gọi là Bồ-tát bất thối chuyển.

Hỏi: Các Bồ-tát trụ Sơ địa đến Thất địa đều quyết định đến Tam-bồ-đề, vì cớ gì không nói là bất thối chuyển, chỉ nói Bồ-tát bất động địa là bất thối chuyển?

Đáp:

Các Bồ-tát đã trụ bất động
Được pháp như thị, trí bất thối
Trí này Nhị thừa chẳng thể chuyển,
Nên duy được tên bất thối chuyển.

Điều này nghĩa là có các căn lành xuất thế như Tín..., các Thanh văn, Độc giác cho đến Bồ-tát địa thứ bảy chẳng thể chướng ngại khiến họ thối chuyển, nên gọi là bất thối chuyển, chứ không phải mười loại Bồ-tát khác vì Tam-bồ-đề trong các pháp bất thối chuyển vậy.

Đã nói nhân duyên bất thối chuyển, trong đó lại được thọ ký thù thắng. Trong Đại thừa nói bốn loại thọ ký là: Thọ ký khi chưa phát tâm Bồ-đề, thọ ký cùng lúc phát tâm Bồ-đề, thọ ký ẩn che, thọ ký hiện tiền – là bốn loại thọ ký.

Trong đó, thọ ký khi chưa phát tâm Bồ-đề là: Người này căn khí sắc bén, đủ lòng tin tăng thượng; chư Phật Thế tôn dùng mắt vô ngại của Phật quán sát rồi mà vì thọ ký.

Thọ ký cùng lúc phát tâm Bồ-đề là: Thành tựu căn lành, trước đã tu tập gieo trồng giống Bồ-đề, căn lành ấy mãnh liệt, sắc bén, được sự tu hành tăng thượng, chỉ muốn giải thoát các chúng sinh, nên ngay khi phát tâm liền vào bất thối chuyển, không đọa lạc pháp, lìa bát bất nhàn (Tám nạn vậy).

Người này hoặc tự nghe thọ ký, với Lục độ ba-la-mật không phát tinh tiến; nếu như không nghe sẽ phát thêm tinh tiến, nên vì khiến không nghe, muốn khiến người khác nghe thọ ký kia, vì đoạn tâm nghi, Phật dùng uy thần ẩn che sự thọ ký.

Nếu Bồ-tát thành thục năm căn xuất thế, được vô sinh nhẫn, trụ Bồ-tát bất động địa, họ liền được hiện tiền thọ ký.

Đây là bốn loại thọ ký. Vì các Bồ-tát ấy đắc vô sinh nhẫn đã quyết định như vậy nên chư Phật Thế tôn hiện tiền thọ ký.

Lại, riêng có mật ý thọ ký- là loại thọ ký thứ năm. Như kinh Pháp Hoa nói:

Chúng ta đều tùy hỷ
Lời Đại Tiên mật ý,
Như thọ ký thánh giả
Vô Úy Xá-Lợi-Phất.
Chúng ta cũng sẽ được
Thành Phật thế vô thượng,
Lại dùng lời mật ý
Nói vô thượng chánh giác.

Vì nghĩa gì mà nói lời thọ ký riêng này? Có Luận sư nói: Vì khiến cho người chưa quyết định vào thừa Thanh văn phát tâm Bồ-đề.

Lại, đã phát tâm Bồ-đề, Bồ-tát bắt đầu nghiệp, sợ khổ lưu chuyển, muốn nơi Niết-bàn của Thanh văn mà thủ lấy diệt độ, vì muốn cho Bồ-đề tâm kia được kiên cố.

Lại, có Bồ-tát ở cõi Phật khác tụ tập ở đây, khi thọ ký thời lại, vì danh tương tợ, vì họ mà thọ ký.

Các Sư phân biệt về lời đặc biệt thọ ký như thế, trong đó, thật nghĩa chỉ có chư Phật Thế Tôn mới có thể biết.

Bồ-tát cho đến được
Chư Phật hiện ở trước,
Kiên cố Tam-ma-địa
Không nên khởi phóng dật.

Được Tam-ma-đề chư Phật hiện tiền rồi mà trụ, nghĩa là chư Phật hiện tại hiện ở trước người trụ Tam-ma-đề vậy.

Tam-ma-đề là trụ bình đẳng vậy. Bồ-tát cho đến khi chưa được Tam-ma-đề này, trong khoảng ấy không được phóng dật. Vì Bồ-tát chưa đắc Tam-ma-đề có thể đọa đường ác, vì chưa lìa “bất nhàn” vậy. Cho nên chưa được Tam-ma-đề này thời không được phóng dật. Nếu đắc được Tam-ma-đề thì đều giải thoát được khỏi các sợ hãi.

Tam-ma-đề này có ba loại: Sắc phan duyên, Pháp phan duyên, Vô phan duyên.

Trong đó, nếu phan duyên thân hình sắc tướng hảo trang nghiêm của Như Lai mà niệm Phật- là Sắc phan duyên tam-ma-đề.

Nếu lại phan duyên mười danh hiệu, thân mười lực, vô úy, bất cộng Phật pháp...vô lượng công đức của Phật mà niệm Phật- gọi là Pháp phan duyên tam-ma-đề.

Nếu lại không phan duyên sắc, không phan duyên pháp, cũng không tác ý niệm Phật, cũng không có cái được đắc, Tam-ma-đề Không- lìa xa các tướng- đây gọi là Vô phan duyên tam-ma-đề.

Trong đó, Bồ-tát sơ phát tâm được Sắc phan duyên tam-ma-đề rồi, đi vào thực hành duyên theo pháp, đắc vô sinh nhẫn- là không phan duyên. Những điều này được gọi là quyết định, vì tự tại vậy.

Chư Phật hiện ở trước
Kiên cố Tam-ma-đề
Đây là Cha Bồ-tát,
Đại bi, Nhẫn là Mẹ.

Tam-ma-đề được nói đó là: Ở Tam-ma-đề, Phật hiện tiền, vì nhiếp công đức của các Bồ-tát và công đức của chư Phật- nên gọi là Cha của Bồ-tát.

Đại bi là: Trong sinh tử lưu chuyển, vì không sinh mệt mỏi, lại, nơi vực hiểm của địa Thanh văn, Độc giác, bảo hộ khiến không theo- nên gọi là Mẹ.

Nhẫn là: Bồ-tát đắc nhẫn, trong sinh tử lưu chuyển khổ và chúng sinh ác, không chán ghét lưu chuyển, không xả bỏ chúng sinh và Bồ-đề, vì không sinh chán. Cho nên nhẫn này là Mẹ của các Bồ-tát.

Lại có kệ khác rằng:

Trí Độ là Mẹ
Phương tiện là Cha,
Đã sinh và giữ nên
Gọi Cha, Mẹ Bồ-tát.

Vì Bát-nhã Ba-la-mật sinh ra các pháp của Bồ-tát nên Phật nói Bát-nhã ba-la-mật là Mẹ của Bồ-tát. Các pháp của Bồ-tát từ Bát-nhã Ba-la-mật mà sinh rồi, được trì giữ bởi phương tiện khéo, khiến không hướng đến vực hiểm của địa Thanh văn, Độc giác. Vì sự trì giữ Bồ-đề này nên phương tiện là Cha của bồ-tát.

Hỏi: Bồ-tát dùng bao nhiêu phúc mà chấp nhận có thể được Bồ-đề?

Đáp:

Tích tụ chút ít phúc
Chẳng thể được Bồ-đề,
Lượng phúc trăm Tu-Di
Hơn thế mới đắc được.

Bồ-đề là Nhất thiết trí trí. Trí ấy với Không nên biết là bình đẳng, nên biết bình đẳng với hư không, vì hư không vô biên nên nên biết cũng vô biên. Dùng phúc có hạn không thể đắc được trí vô hạn. Cho nên tích tụ chút ít phúc chẳng thể được Bồ-đề. Làm sao được? Lượng phúc trăm núi Tu-Di tụ tập mới có thể được Bồ-đề.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 6 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.218.156.35 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập