Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bồ Đề Tư Lương Luận [菩提資糧論] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Bồ Đề Tư Lương Luận [菩提資糧論] »» Bản Việt dịch quyển số 2


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.4 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.49 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Bồ Đề Tư Lương

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@rongmotamhon.net
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 6 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 |
Việt dịch: Thích Như Điển

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Hỏi: Đã giải thích về Nhẫn Ba-la-mật, nay nên nói về Tinh tiến Ba-la-mật.

Đáp: Thể tướng mạnh mẽ, mạnh mẽ làm nghiệp chính là tinh tiến. Trong đó các Bồ-tát từ Sơ phát tâm cho đến Bồ-đề tràng rốt ráo, kiến lập tất cả thiện nghiệp của thân, khẩu, ý tương ưng với phần Bồ-đề, đây gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.

Lại nữa, nếu với các phàm phu và Thanh văn hữu học vô học và Độc giác, không chung sự tinh tiến- đây gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.

Tinh tiến có ba loại là: Thân, khẩu, ý. Sự tinh tiến của thân và khẩu lấy tâm tinh tiến làm tiền hành. Nói lược có ba loại sự phúc:

Nếu thân tương ưng với sự phúc- là thân tinh tiến;

Nếu Khẩu tương ưng với sự phúc- là khẩu tinh tiến;

Nếu ý tương ưng với sự phúc- là ý tinh tiến.

Lại, nếu trong thiện hành hoặc tự lợi hay lợi tha mà thân hành mạnh mẽ- là thân tinh tiến; khẩu hành mạnh mẽ- là khẩu tinh tiến; ý hành mạnh mẽ- là ý tinh tiến.

Lại, có ba mươi hai loại tinh tiến của Bồ-tát: Tinh tiến không đoạn chủng tử Tam Bảo; tinh tiến thành thục vô lượng loài chúng sinh; tinh tiến nhiếp thọ vô lượng lưu chuyển; tinh tiến vô lượng cúng dường hầu hạ; tinh tiến tích tập vô lượng căn lành; tinh tiến sinh ra vô lượng tinh tiến; tinh tiến khéo nói khiến chúng sinh hoan hỉ; tinh tiến an ổn tất cả chúng sinh; tinh tiến tùy thuận chỗ làm của tất cả chúng sinh; tinh tiến hành xả trong chúng sinh; tinh tiến thọ các học giới; tinh tiến nhẫn lực điều nhu; tinh tiến sinh ra các Thiền-na, Tam-ma-đề, Tam-ma-bát-đế; tinh tiến làm đầy đủ trí tuệ vô trước; tinh tiến thành tựu bốn Phạm hành; tinh tiến sinh ra năm thần thông; tinh tiến lấy công đức tất cả cõi Phật thành cõi Phật của tự mình; tinh tiến hàng phục các ma; tinh tiến hàng phục luận thuyết các ngoại đạo; tinh tiến làm đầy đủ Phật pháp: Mười lực, bốn vô úy...; tinh tiến trang nghiêm thân, khẩu, ý; tinh tiến độ được các điều được làm; tinh tiến phá hoại các phiền não; tinh tiến: Người chưa được độ khiến được độ; tinh tiến: Người chưa giải thoát khiến được giải thoát; tinh tiến: Người chưa tỉnh thức khiến tỉnh thức; Tinh tiến: Người chưa Niết-bàn khiến được Niết-bàn; tinh tiến tích tập tướng trăm phúc; tinh tiến nhiếp thọ tất cả Phật pháp; tinh tiến thấy tất cả chư Phật; tinh tiến đến vô lượng cõi Phật. Các tinh tiến này ra từ đại bi, vì lìa thân khẩu ý, vì không thủ không xả, vì được không cao không thấp, vì nhiếp bất sinh bất khởi. Biết ba mươi hai tinh tiến này rồi, tinh tiến Ba-la-mật sẽ được đầy đủ thanh tịnh. Trong đây cũng có Thánh tụng:

Các Ba-la-mật như Thí này
Được thành tựu bởi lực tinh tiến,
Cho nên tinh tiến là căn bản,
Khiến chư Bồ-tát được thân Phật.
Phương tiện tinh tiến cầu Bồ-đề
Con niệm tinh tiến thắng phương tiện,
Vì kia lìa bỏ tinh tiến rồi
Không thể phương tiện làm việc làm;
Nếu như chỉ có một phương tiện
Ắt chẳng sách tấn làm sự nghiệp,
Việc làm đều do tinh tiến làm
Nên tinh tiến là thắng phương tiện.
Tâm có lực khéo làm phương tiện
Tâm ấy do tinh tiến mà sinh,
Cho nên các sự việc được làm
Đều do tinh tiến làm căn bản.
Các luận cho đến các nghề nghiệp
Vì tinh tiến đủ đến bờ kia,
Cho nên trong các việc được làm
Tinh tiến chính là người thành tựu.
Có được tự tại, các tài vật
Người mà tinh tiến ắt sẽ được,
Cho nên có được sự an lạc
Đều do tinh tiến kia làm nhân.
Do vì có tinh tiến thù thắng
Phật là thượng thủ các Thanh văn,
Cho nên lực của tinh tiến này
Là nhân tối thắng, không hành khác.
Người tinh tiến dũng kiện cao nhất
Trong các địa, tuy là cùng địa
Nhưng họ luôn được cao hơn hết,
Cho nên phải thường khởi tinh tiến.
Khi Phật ở dưới cội Bồ-đề
Vì tinh tiến nên giác Bồ-đề
Cho nên tinh tiến là căn bản
Nhân được thân Phật, trước đã nói.

Hỏi: Đã giải thích lược Tinh tiến ba-la-mật, nay nên nói về Thiền-na ba-la-mật.

Đáp: Thiền-na có bốn loại là: Có giác có quán ly sinh hỷ lạc, đi vào Sơ thiền; không giác không quán định sinh hỷ lạc, vào Thiền thứ hai; lìa hỷ, hành xả, niệm tuệ, thọ lạc, vào Thiền thứ ba; diệt khổ, lạc xả niệm thanh tịnh, không khổ không lạc, vào Thiền thứ tư. Trong bốn loại Thiền-na này, lìa sự chứng địa Thanh văn, Độc giác, hồi hướng về địa vị Phật thời được gọi là Thiền-na ba-la-mật.

Các Bồ-tát có mười sáu loại Thiền-na ba-la-mật mà các Thanh văn, Độc giác không có được. Mười sáu loại nào? Nghĩa là: Không lấy thật thiền, không dính mắc vị thiền, Đại bi theo duyên thiền, Tam-ma-địa hồi chuyển thiền, khởi tác thần thông thiền, tâm kham năng thiền, các Tam-ma-bát-đế thiền, tịch tĩnh lại tịch tĩnh thiền, không thể động thiền, lìa ác đối thiền, vào trí tuệ thiền, thuận chúng sinh tâm hành thiền, dòng Tam Bảo không đoạn thiền, không lui sụt thiền, tất cả pháp tự tại thiền, phá tán thiền. Mười sáu loại thiền như thế chính là Thiền-na ba-la-mật.

Không giữ lấy thật thiền là vì đầy đủ Như Lai thiền; không dính mắc vị thiền vì chẳng tham vui của chính mình; Đại bi theo duyên thiền vì thị hiện phương tiện đoạn phiền não chúng sinh; Tam-ma-địa hồi chuyển thiền là vì phan duyên cõi Dục làm duyên; khởi tác thần thông thiền là vì muốn biết tâm hành của tất cả chúng sinh; tâm kham năng thiền là vì thành tựu tâm tự tại trí; chư Tam-ma-bát-đế thiền là vì vượt hơn cõi Sắc, cõi Vô sắc; tịch tĩnh lại tịch tĩnh thiền là vì muốn vượt khỏi các Tam-ma-bát-đế của Thanh văn, Độc giác; không thể động thiền là vì rốt ráo cuối cùng; lìa ác đối thiền là vì muốn ra khỏi các thế gian; thuận chúng sinh tâm hành thiền là vì độ các chúng sinh; dòng Tam Bảo không đoạn thiền là vì thiền vô tận của Như Lai; không lui sụt thiền là vì thường nhập định; tất cả pháp tự tại thiền là vì đầy đủ các nghiệp. (Thiền thứ mười sáu Phá tán, vì bản thiếu nên không giải thích).

Lại, niệm tịnh, tuệ tịnh, thú tịnh, tàm tịnh, giữ tâm hi vọng tịnh, không lấy thật tịnh, khởi tác thần thông tịnh, tâm kham năng tịnh, thân viễn ly tịnh, nội tịch tĩnh tịnh, ngoại bất hành tịnh, hữu sở đắc kiến tịnh, không chúng sinh không mạng không nhân tịnh, trong ba cõi không trụ tịnh, môn giác phần tịnh, lìa che chướng được quang minh tịnh, mở trí tướng bảo tạng tướng tịnh, nhiếp phương tiện tiền xảo tịnh, bồ-đề trường chướng ngại tịnh, không dính mắc Thanh văn, Độc giác tịnh, an trụ thiền-na sinh ra quang minh tịnh, Phật tam-ma-địa không tán loạn tịnh, quán tự tâm hành tịnh, biết căn cơ chúng sinh như chỗ thích đáng mà pháp tịnh(Bản thiếu hai tịnh)- mười sáu loại Thiền-na ba-la-mật. Do vì ba mươi hai loại tịnh nên được thanh tịnh, vào được Như Lai địa. Trong đây có Thâu-lô-già:

Nếu mười sáu loại kia
Và ba mươi hai tịnh
Tương ưng với Thiền Độ
Chính là cầu Bồ-đề.
Đến bờ kia Thiền-na
Khéo biết nghiệp Thiền-na
Người trí năm thần thông
Sinh ra không lui sụt.
Các sắc không cùng tận
Đều thông đạt thật tính
Cũng dùng thắng thiên nhãn
Thấy khắp các sắc tướng,
Tuy dùng tịnh thiên nhĩ
Nghe các âm thanh xa,
Người trí thông đạt biết
Âm thanh không thể bàn.
Có bao tâm chúng sinh
Quán mỗi mỗi tướng chúng,
Các tâm giống như huyễn
Biết rõ tự tính chúng.
Chúng sinh ở kiếp xưa
Như thật đều niệm biết,
Các pháp không quá khứ
Cũng như tự tính kia.
Đi đến đều biết cõi,
Thấy cõi đủ trang nghiêm
Tướng cõi như hư không
Biết rõ thật tính chúng.
Các phiền não chúng sinh
Đều vì loạn tâm sinh,
Cho nên bậc thắng trí
Khắp tu các thiền định.

Hỏi: Thiền-na ba-la-mật được giải thích đã lược nói xong, nay nên lần lượt nói Bát-nhã ba-la-mật.

Đáp: Bát-nhã ba-la-mật, như giải thích ở trước, là tư lương đầu, nay tôi lại giải thích thêm tướng của nó, như kệ trước rằng:

Thí, giới, nhẫn, tiến, định
Và ngoài năm loại này
Các Ba-la-mật ấy
Được nhiếp bởi trí độ.

Ngoài các loại này ra, có bốn Ba-la-mật khác là: Xảo phương tiện ba-la-mật, Nguyện ba-la-mật, Lực ba-la-mật, Trí ba-la-mật. Bốn ba-la-mật này đều được thu bởi Bát-nhã ba-la-mật.

Bát-nhã ba-la-mật là: Như Phật Thế Tôn dưới cây Bồ-đề, dùng một niệm tương ưng với trí, giác rõ các pháp- là Bát-nhã ba-la-mật.

Lại, là tướng vô ngại vì không có thân; tướng vô biên vì bình đẳng hư không; tướng vô đẳng đẳng vì các pháp không có chỗ đắc; tướng viễn ly vì rốt ráo không; tướng không thể hàng phục vì vô khả đắc; tướng không có câu cú vì không có danh thân; tướng không tụ hợp vì lìa đến đi; tướng không có nhân vì lìa tác giả; tướng không sinh vì sinh không có; tướng không đi đến vì lìa lưu chuyển; tướng không tán hoại vì lìa giới hạn trước sau; tướng không nhiễm vì không thể nắm giữ; tướng không hí luận vì lìa các hí luận; tướng không động vì tự thể của pháp giới; tướng không khởi vì không phân biệt; tướng vô lượng vì lìa lượng; tướng không có y chỉ vì y chỉ không có; tướng không ô nhiễm vì không sinh ra; tướng không thể đo lường vì không có giới hạn; tướng tự nhiên vì biết tự tính các pháp.

Lại, Bát-nhã ba-la-mật là tướng Văn tuệ và vào chính tư duy. Tướng của Văn tuệ ấy có tám mươi loại là: Lạc dục...; Chính tư nhập có ba mươi hai loại, nghĩa là: An trụ Xa-ma-tha....

Lại, Bát-nhã ba-la-mật không cùng với mười sáu loại vô minh như: Túc trụ...

Các tướng như thế của Bát-nhã ba-la-mật tùy lượng đã nói, nếu nói cho đủ bèn là có vô tận.

Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật được nhiếp trong Bát-nhã ba-la-mật này có tám loại thiện xảo là: Chúng thiện xảo, Giới thiện xảo, Nhập thiện xảo, Đế thiện xảo, Duyên sinh thiện xảo, Tam thế thiện xảo, Chư thừa thiện xảo, Chư pháp thiện xảo. Trong đó thiện xảo Ba-la-mật không có giới hạn.

Lại nữa, Tùy theo những đường sinh nào, dùng những hành tướng nào, vì thực hành Bồ-đề nên được tự tăng trưởng căn lành và điều phục chúng sinh, hành các hạnh trong các đường sinh. Nơi tất cả chỗ này, phàm những điều đáng làm, đủ loại phương tiện, đã được phân biệt mà nói bởi các Đại nhân, tôi nay chỉ nói phần như một giọt nhỏ trong các kinh.

Nếu đã làm, hiện nay làm các thiện nhỏ nhiệm có thể khiến thành nhiều, nhiều thời khiến thành vô lượng –đây là phương tiện. Không vì tự mình, chỉ vì chúng sinh- đây là phương tiện. Chỉ dùng Đàn-na khiến các Ba-la-mật đầy đủ- đây là phương tiện. Như thế, lấy Thi-la nhiếp các chỗ sinh, lấy Sằn-đề trang nghiêm thân, khẩu, ý vì Bồ-đề, lấy Tì-lê-gia an trụ tinh tiến, lấy Thiền-na không thối chuyển nơi thiền, lấy Bát-nhã xả ly vô vi, lấy Từ làm y chỉ bảo hộ, lấy Bi để không vứt bỏ lưu chuyển, lấy Hỷ có thể nhẫn được sự không vui, lấy Xả để phát khởi các thiện, lấy thiên nhãn nhiếp thủ Phật nhãn, lấy thiên nhĩ làm đầy đủ Phật nhĩ, lấy Tha tâm trí để biết mọi căn cơ, lấy Túc trụ niệm biết ba đời không ngại, lấy thông suốt tự tại của tự mình để được thông tự tại của Phật, lấy sự vào tâm dục của chúng sinh để biết các hành tướng; Đã độ thoát mà trở vào lại, không có ô nhiễm mà nhiễm, đã xả gánh vác mà lại gánh vác, vô lượng mà hiện có lượng, tối thắng mà hiện yếu kém, vì phương tiện nên dù tương ưng niết-bàn mà tùy ở trong lưu chuyển, tuy hành niết-bàn mà chẳng rốt ráo tịch diệt, hiện làm các ma mà siêu việt các ma, đạt trí Bốn Đế và quán vô sinh mà không vào chính vị, tuy hành nơi náo loạn mà không thuận theo phiền não thùy miên, tuy hành viễn ly mà không y theo sự dứt hết thân tâm, tuy hành ba cõi mà trong ba cõi không hành Thế đế, tuy hành nơi không mà tất cả thời thường cầu Phật pháp, tuy hành vô vi mà chẳng tác chứng vô vi, tuy hành Sáu thông mà chẳng hết lậu, tuy hiện oai nghi Thanh văn, Độc giác mà không bỏ vui mong cầu Phật pháp.

Trong các phương tiện thiện xảo Ba-la-mật như vậy, có bao nhiêu phương tiện giáo hóa chúng sinh thời các phương tiện ấy là phương tiện trụ xứ giáo hóa của Bồ-tát, nên biết. Trong đây có Thâu-lô-già:

Các khổ não trong đường súc sinh
Địa ngục, ngạ quỷ sinh cũng thế,
Trong lưu chuyển mà thọ tương ưng
Đủ loại lỗi ác của chúng sinh,
Khổ tụ như vậy không thể chướng
Ở chỗ chúng sinh khởi xót thương.
Chư Phật bèn nói Bồ-tát ấy
Tất cả thế gian, bi vô ngại.
Trong luận nếu có khéo bao quát
Nghiệp được tạo của nhiều người khác
Các minh: Công xảo và sự khác
Đều dùng ái ngữ mà truyền trao.
Các giới, tài, văn, tu, tịch, điều
Dùng công đức này nhiếp hóa người,
Nhiếp rồi, lại khiến thường liên tục
Thắng Tiên nói là trụ đường lành.
Hoặc hiện thân nữ độ người nam
Khiến kia điều phục mà thọ giáo.
Hoặc không chán cảnh vui ô nhiễm,
Thương họ vô đạo, khiến vào đạo.
Tùy loại chúng sinh, đủ loại hóa,
Chỗ bức não nhất cũng chẳng bỏ.
Hoặc người tin, hiểu nơi vô ngã,
Và biết các pháp lìa tự tính,
Người này chưa lìa pháp thế gian
Chỉ quán sát như vậy mà chuyển
Với nghiệp và quả sinh tin, thuận,
Nhưng có vô biên các sự khổ,
Sẽ khi chịu quả báo khổ kia
Không vui, bị các khổ bức não:
Hoặc nơi Thanh văn mà xuất gia
Bèn xắp chỗ an ổn tịch tĩnh,
Hoặc lại đặt nơi đạo Duyên giác,
Hoặc đặt vào thừa mười lực diệu,
Khiến họ sẽ được thừa Chính Giác,
Hoặc được tịch tĩnh và cõi trời;
Nếu đáng quán sát hiện thấy quả
Như chỗ họ làm chính an trí.
Như thế từ đầu đến sau cùng
Trượng phu việc khó đều làm được,
Nương đủ loại phương tiện khéo kia
Lìa bỏ tất cả ái, không ái,
Thừa này được chư Phật tán thán
Trăm nghìn công đức mà trang nghiêm,
Sinh được thế gian cực tịnh tín
Vì nói đạo lành rất thắng diệu.
Với thừa Thanh văn, thừa Duyên giác
Và các thừa thế gian: Thiên, Nhân
Đều dùng thập thiện mà thành thục,
Cũng với nhân thừa thành thục người.

Đã giải thích Phương tiện khéo Ba-la-mật, nay tôi sẽ nói Nguyện ba-la-mật. Chư Bồ-tát đầu tiên hết có mười nguyện lớn, là: Cúng dường hầu hạ chư Phật không sót- là nguyện lớn thứ nhất.

Ở nơi chư Phật giữ chánh pháp lớn, nhiếp thọ chánh giác, bảo hộ khắp chánh giáo- là nguyện lớn thứ hai. Trong các thế giới mà chư Phật xuất hiện và hưng, ban đầu từ cung Đâu-Suất cho đến xuống trần, vào thai, sơ sinh, xuất gia, chứng chánh giác, thỉnh chuyển pháp luân, vào Niết-bàn, đều đến nơi cúng dường đầu tiên không lìa bỏ- là nguyện lớn thứ ba.

Hành của chư Bồ-tát rộng lớn vô lượng, các thiện được nhiếp bởi các Ba-la-mật không tạp loạn, tịnh các địa, sinh ra phần chung, phần riêng, tướng chung, tướng riêng, cùng chuyển, không cùng chuyển ....các hành của Bồ-tát, như thật như địa mà nói, Tu trị ba-la-mật rồi dạy bảo trao truyền, thọ rồi trụ trì, phát khởi sinh ra các tâm như thật- đây là nguyện lớn thứ tư.

Chúng sinh giới không sót: Có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, ba cõi cùng vào, sáu đường cùng ở, thuận đi theo các đường sinh, các sắc được nhiếp, chúng sinh giới không sót trọn đều thành tựu khiến vào Phật pháp; đoạn trừ các thú, an lập Nhất thiết trí trí – là nguyện lớn thứ năm.

Các thế giới rộng lớn vô lượng không sót: Hoặc tế, hoặc thô, hoặc ngang, hoặc đảo, hoặc đẳng trụ thời cùng vào ở, thuận đi; mười phương các phần giống như lưới võng, đều vào trong các phần dùng trí mà thuận hành- là nguyện lớn thứ sáu.

Tất cả các cõi tức một cõi, một cõi tức tất cả các cõi, các cõi nước thanh tịnh bình đẳng, đều trang nghiêm khắp, lìa các phiền não, tịnh đạo đầy đủ vô lượng trí tướng; chúng sinh khắp đầy đều khiến vào cảnh giới thượng diệu của Phật, tùy tâm chúng sinh mà thị hiện khiến họ hoan hỉ- là nguyện lớn thứ bảy.

Vì cùng một tâm với chư Phật, Bồ-tát, vì tụ tập căn lành Bất cộng, vì với các Bồ-tát cùng một phan duyên, không lìa Bồ-tát bình đẳng, vì phát khởi tự tâm nhập vào uy thần của Như Lai, vì để được thần thông bất thối hành, vì du hành các thế giới, vì tự thân tùy thuận vào chỗ của tất cả chúng sinh, vì đầy đủ Đại thừa không thể nghĩ bàn, vì hành Bồ-tát hạnh- là nguyện lớn thứ tám.

Vì lên bất thối chuyển hành Bồ-tát hạnh, vì nghiệp thân, khẩu, ý chẳng phải không, vì ngay khi thấy bèn khiến quyết định Phật pháp, vì ngay khi phát ra một âm thanh khiến vào trí huệ, vì ngay khi tin liền khiến phiền não chuyển, vì được thân như Đại Lạc Vương, vì hành các hạnh Bồ-tát- là nguyện lớn thứ chín.

Vì trong các thế giới chân chính giác ngộ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vì trong một lỗ chân lông và tất cả lỗ chân lông khác đều hiện sinh ra, ngồi Đạo tràng, chuyển pháp luân, Đại bát niết-bàn, vì dùng trí huệ vào đại cảnh giới uy thần của Phật, vì nơi tất cả chúng sinh, như lòng tin thâm sâu của họ, khi Phật đáng xuất hiện, khai ngộ khiến được tịch tĩnh mà thị hiện, vì chân chính giác ngộ tất cả pháp đều là tướng Niết-bàn, vì phát một âm thanh khiến tâm chúng sinh đều hoan hỉ, vì hiện Đại bát niết-bàn mà chẳng đoạn lực hành, vì hiện đất trí huệ an lập các pháp, dùng pháp trí thần thông cảnh giới Phật biến khắp các thế giới- là nguyện lớn thứ mười.

Các đại dục sinh ra mười nguyện lớn làm đầu, đầy đủ mười nguyện lớn này rồi, sẽ kiến lập trăm nghìn a-tăng-kỳ nguyện khác, được trụ Bồ-tát Hoan hỷ địa. Đây gọi là Nguyện Ba-la-mật.

Đã giải thích Nguyện Ba-la-mật, nay tôi sẽ nói Lực Ba-la-mật. Trong đây lược nói Bồ-tát có bảy loại lực, là: Lực sinh ra do phúc báo, lực thần thông, lực tín, lực tinh tiến, lực niệm, lực Tam-ma-đề, lực Bát-nhã.

Lực sinh ra từ phúc báo là: Như lực của mười voi nhỏ bằng lực của một long tượng; lực của mười long tượng bằng lực một hương tượng; lực mười hương tượng bằng lực một đại hương tượng; lực mười đại hương tượng bằng lực một đại lực sĩ; lực mười đại lực sĩ bằng lực một nửa Na-la-diên; lực mười nửa Na-la-diên bằng lực một Na-la-diên; lực mười Na-la-diên bằng lực một Đại na-la-diên; lực mười Đại na-na-diên bằng lực một Bồ-tát quá trăm kiếp; lực của mười Bồ-tát quá trăm kiếp bằng lực một Bồ-tát Đắc nhẫn; lực mười Bồ-tát Đắc nhẫn bằng lực một Bồ-tát tối hậu sinh. Trụ lực này rồi, Bồ-tát liền khi sinh có thể đi bảy bước. Lực của mười Bồ-tát tối hậu sinh khi sinh bằng lực của Bồ-tát khi thiếu niên. Trụ lực này rồi sẽ đến Bồ-đề đạo tràng thành Đẳng chánh giác. Được chánh giác rồi, vì công đức quá trăm nghìn khiếp, thành tựu Chánh biến tri của Như Lai, Lực nhất chủng xứ phi xứ...thành tựu mười lực như vậy. Đây gọi là lực sinh ra từ phúc báo của Phật, Bồ-tát và phần ít chúng sinh khác.

Lực thần thông là: Khéo tu và làm nhiều bốn thần túc, vì lực thần thông hiếm có này nên điều phục được các chúng sinh. Các Ngài dùng thần lực hiếm có hiển hiện hoặc sắc, hoặc lực, hoặc trụ trì; nếu các chúng sinh đáng dùng sắc tượng này để được điều phục, liền dùng sắc tượng này, nơi các chúng sinh kia, thị hiện hoặc sắc tượng Phật, hoặc sắc tượng Độc giác, hoặc sắc tượng Thanh văn, như thế, hoặc các sắc tượng: Đế-Thích, Phạm Vương, Hộ Thế, Chuyển Luân. Nếu lại các sắc tượng khác, cho đến sắc tượng súc sinh, thời vì điều phục chúng sinh mà thị hiện sắc tượng như vậy.

Nếu lại có chúng sinh nhiều lực, kiêu mạn, sân nộ, hung ác, tự cao, đáng dùng lực này điều phục được, liền hiện lực này: Hoặc lực đại lực sĩ, hoặc lực bốn phần na-la-diên, hoặc lực nửa na-la-diên, hoặc lực một na-la-diên; vì lực này nên núi chúa Tu-Di cao mười sáu vạn tám nghìn du-xà-na, rộng tám vạn bốn nghìn du-xà-na, dùng ba ngón tay nâng giữ như nâng quả am-ma-lặc mà ném để ở thế giới phương khác, mà trời Tứ Thiên Vương và trời Tam Thập Tam không bị nhiễu não, lực của Bồ-tát cũng không tổn giảm.

Lại, ba nghìn đại thiên thế giới này tuy rộng lớn, từ thủy giới đến Hữu Đảnh, để trên lòng bàn tay mà trụ qua các kiếp. Nơi thần thông lực đạo thị hiện đầy đủ các lực như vậy.

Nếu có chúng sinh kiêu mạn, tăng thượng mạn, sân nộ, hung ác, bèn nói pháp điều phục, khiến lìa kiêu mạn, tăng thượng mạn, sân nộ, hung ác.

Các Ngài được thần thông và trí trụ trì như vậy rồi, dùng trí trụ trì này, nếu có chỗ trụ trì thời tùy ý mà được.

Nếu lấy biển lớn làm vết chân trâu liền thành vết chân trâu; nếu lấy vết chân trâu làm biển lớn liền thành biển lớn. Nếu lấy kiếp thiêu làm tụ nước liền thành tụ nước; nếu lấy tụ nước làm tụ lửa liền thành tụ lửa; nếu lấy tụ lửa làm tụ gió liền thành tụ gió; nếu lấy tụ gió làm tụ lửa liền thành tụ lửa. Như thế nếu lấy trụ trì này, tùy chỗ trụ trì pháp hạ, trung, thượng. Đã trụ trì rồi, không ai có thể làm chấn động, ẩn mất, nghĩa là: Hoặc Đế-Thích, hoặc Phạm Vương, hoặc ma và các pháp giống như vậy của thế gian, trừ Phật Thế Tôn, trong các loài chúng sinh, không có chúng sinh nào có thể nơi pháp trụ trì của Bồ-tát mà làm chấn động, ẩn mất. Vì lực trụ trì, vì đủ loại chúng sinh thắng thượng, hỷ dũng, tôn kính mà nói pháp.

Lực thần túc ấy cao xuất tự tại, quá phiền não ma, vào cảnh giới Phật, giác ngộ các chúng sinh, tụ tập thiện căn tư lương kiếp xưa. Ma và thân ma trời...không thể chướng ngại. Đây gọi là Lực thần thông của Bồ-tát.

Lực Tín là: Trong Phật, Pháp, Tăng và Bồ-tát hành, tin hiểu không thể ngăn trở phá hoại. Nếu ác ma hiện thành thân Phật lại, tùy pháp nào đó muốn phá hoại lòng tin ấy, thời Bồ-tát vì lực tin hiểu nên ma chẳng thể động được lực tin của Bồ-tát. Đây gọi là lực tín.

Lực Tinh tiến là: Khi Bồ-tát nếu phát khởi tinh tiến tương ưng với các thiện pháp, ở mọi nơi được lực kiên cố, tùy chỗ thọ hành, hoặc trời hoặc người chẳng thể động hoại khiến ngừng ở trong đó. Đây gọi là Lực tinh tiến.

Lực Niệm là: Trụ nơi đủ loại pháp tâm đều an chỉ, các phiền não không thể làm tán loạn. Vì lực niệm trì giữ nên phá các phiền não, các phiền não không thể phá hoại niệm của Bồ-tát. Đây gọi là lực niệm.

Lực Tam-ma-đề là: Trong chỗ không an ổn, mà hành hạnh viễn ly. Nếu các âm thanh và ngôn ngữ phát ra thời chẳng bị âm thanh làm chướng ngại sơ thiền; hành thiện giác quán không ngại Nhị thiền; sinh ái hỉ mà chẳng ngại Tam thiền; thành tựu chúng sinh, nhiếp thọ các thiện pháp chưa từng bỏ phế mà không ngại Tứ thiền. Đi như thế bốn loại Thiền, các ác đối của Thiền không thể phá hoại. Tuy đi các Thiền mà chẳng tùy Thiền sinh. Đây gọi là lực Tam-ma-đề của Bồ-tát.

Lực Bát-nhã là: Trí không thể hoại trong pháp thế gian xuất thế. Các kiếp sinh ra không do thầy dạy. Các nghiệp được làm nơi công xảo minh, cho đến sự khó làm, khó nhẫn tối thắng của thế gian, Bồ-tát đều có thể làm hiện tiền.

Nếu pháp xuất thế cứu độ thế gian, Bồ-tát trí tuệ tùy thuận nhập rồi thời các chúng Trời, Người, A-tu-la không thể phá hoại. Đây gọi là lực Bát-nhã.

Bảy lực như thế của Bồ-tát đã giải thích lược, nếu muốn đầy đủ thời chẳng có giới hạn. Đây gọi là lực Ba-la-mật của Bồ-tát.

Đã lược giải thích về lực, nay tôi sẽ nói về trí ba-la-mật.

Trong đó, hoặc các sách luận, in ấn, toán số, được làm bởi thế gian và giới luận (Nghĩa là tính của các bệnh phong, hoàng, đàm...), Phương luận (cách trị bệnh) trị các bệnh khô héo, điên cuồng, ma trì..., phá các trùng độc. Lại làm văn chương được nhiếp vào hí tiếu, đàm tiếu, khiến sinh hoan hỷ. Sinh ra các thứ thôn làng, thành ấp, vườn tược, ao hồ, giếng, hoa quả, thuốc men...và rừng rậm...; thị hiện các dụng cụ vàng, bạc, ma-ni, lưu ly, ngọc bối (đá như vỏ sò), tính báu như ngọc, san hô...; vào mặt trăng, mặt trời xâm thực tinh tú, địa động, mộng quái...; kiến lập tướng, các chi tiết phần thân; biết nơi cấm giới hành xứ, thiền-na, thần thông vô lượng, vô sắc giới và những sự lợi ích chúng sinh tương ưng chánh giác bỉ ngạn.

Lại nữa, biết các thế giới thành hoại, tùy thế giới thành, tùy thế giới hoại trọn đều biết rõ. Lại, biết nghiệp tích tập thời thế giới thành, nghiệp hết thời thế giới hoại. Biết thế giới hoặc nghìn năm thành trụ, hoặc nghìn năm hoại trụ.

Biết địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới hoặc lớn hoặc nhỏ vô lượng sai khác. Biết đến bụi cực nhỏ, cũng như có bao nhiêu vi trần thời tụ tập, vi trần phân tán. Biết trong thế giới số vi trần của địa, cũng biết số vi trần của thủy, hỏa, phong.

Biết thân chúng sinh thô, tế khác nhau, cho đến cũng biết số vi trần hợp thành thân của chúng sinh Địa ngục, Súc sinh, Ngạ quỷ, A-tu-la, Trời, Người.

Biết sự thành, hoại của cõi Sắc, cõi Vô sắc và biết sự lớn nhỏ khác nhau vô lượng.

Biết thân trong quốc độ lớn, nhỏ, tịnh, nhiễm và phương hướng giăng mắc khác nhau như trụ ngang, trụ ngược, trụ cân bằng...

Biết thân danh tự khác nhau trong thân nghiệp báo. Biết thân danh tự khác nhau trong thân của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát. Biết thân chánh giác, thân nguyện, thân hóa, thân trụ trì, thân hình sắc tướng hảo trang nghiêm, thân uy quang, thân ý niệm, thân phúc, thân pháp- trong thân Như Lai.

Biết trong trí thân: Hoặc khéo phân biệt, hoặc tư duy như lý, hoặc quả tương ưng nhiếp, hoặc thế gian, xuất thế gian, hoặc an lập ba thừa, hoặc cộng pháp hay bất cộng pháp, hoặc đạo xuất ly hay không phải đạo xuất ly, hoặc giác hay không giác.

Biết trong thân hư không: Vào vô lượng thân, tất cả chỗ không phải thân chân thật, vô biên sắc thân sai biệt.

Sinh ra được trí biết các thân như vậy.

Lại, được mạng tự tại, tâm tự tại, các dụng cụ tự tại, nghiệp tự tại, nguyện tự tại, tin hiểu tự tại, thần thông tự tại, trí tự tại, sinh tự tại, pháp tự tại.

Được mười tự tại như thế rồi, là bậc trí bất tư nghì, trí vô lượng, trí bất thối. Các trí như thế có tám vạn bốn nghìn hành tướng, là trí Ba-la-mật được biết bởi Bồ-tát.

Như thế tùy phần giải thích trí Ba-la-mật, nếu muốn đầy đủ thời chỉ Phật Thế Tôn mới có thể giải nói.

Sáu Ba-la-mật này
Tổng tư lương Bồ-đề
Giống như trong hư không
Nhiếp trọn tất cả vật.

Như được giải thích, trong sáu ba-la-mật tổng nhiếp tư lương Bồ-đề, giống như các vật đi, ở trong hư không- có thức hay vô thức trọn nhiếp trong đó. Như thế nghe các tư lương khác nhiếp trong sáu Ba-la-mật, cùng tướng không khác, nên biết.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 6 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 2


Tây Vực Ký


Vào thiền


Phù trợ người lâm chung

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.23.63.252 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập