Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton

Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Cuộc sống là một sự liên kết nhiệm mầu mà chúng ta không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự khi chưa nhận ra mối liên kết ấy.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tây Vực Ký »» Phụ lục A: Ký tán »»

Tây Vực Ký
»» Phụ lục A: Ký tán

(Lượt xem: 6)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Tây Vực Ký - Phụ lục A: Ký tán

Font chữ:

PHỤ LỤC A: KÝ TÁN

(Biện Cơ)

1. Ký tán

Lớn lao thay, đấng Pháp Vương ứng hiện giữa đời! Sức giáo hóa linh diệu ngầm vận hành, đạo thần biến rỗng không mà thông suốt. Dứt sạch hình tướng cùng ý thức trong vô số thế giới như cát sông Hằng; không còn khởi sinh hay suy tàn trong số kiếp nhiều như bụi nhỏ. Hình tướng cùng ý thức đều đã dứt, nên dù ứng hiện sinh mà chẳng có sinh; khởi sinh hay suy tàn đều dứt, tuy thị hiện tịch diệt mà không diệt mất. Há chỉ có đản sinh nơi Ca-tỳ-la-vệ hay tịch diệt nơi rừng Sa-la mà thôi sao? Cho nên biết rằng, chỉ vì tùy thuận muôn loài mà thị hiện uy linh, chiêu cảm duyên lành nên lưu lại dấu tích.

[Đức Phật] nối dòng Sát-lợi, kế thừa tộc họ Thích-ca, tiếp nối là đấng tôn quý trong vùng Tây Vực, mở đạo lớn nhiệm mầu nơi Thiên Trúc.[1] Ngài xả bỏ ngôi Kim luân [Thánh vương] mà dạy dỗ điều phục khắp pháp giới, khai chiếu hào quang giữa chân mày ngọc, soi sáng muôn loài chúng sinh. Đạo [từ bi] lan tỏa khắp mười phương, trí [bát-nhã] bao trùm muôn vật; tuy vượt ngoài hình sắc âm thanh, vẫn chở che khắp cõi thấy nghe trần tục. Ba chuyển pháp luân[2] trong thế giới đại thiên, thuần một pháp âm dội vang lẽ thật trong ba cõi. Tám vạn pháp môn, bày ra khác biệt; mười hai thể loại kinh, cốt tủy gồm thâu. Nhờ đó mà pháp âm thấm nhuần, khiến phước lành nhanh tích tụ thành rừng; xiển dương giới hạnh, giúp muôn loài sống trong an ổn. Sự nghiệp thánh hiền rạng rỡ; đạo nghĩa trời người trọn đủ!

Nhưng rồi [Đức Như Lai nhập Niết-bàn] nơi rừng Sa-la,[3] lìa xa động tịch, bỏ chuyện đến đi nơi phàm trần huyễn hóa; pháp phương tiện không còn tiếp nối, đạo vô vi thiếu lẽ chân truyền. Tôn giả Ca-diếp khéo chọn những người đạt đạo, vì báo đáp ân Phật mà cùng nhau kết tập Pháp bảo. Bốn bộ A-hàm, gồm khắp thảy cội nguồn giáo pháp; ba tạng [Kinh, Luật, Luận] bao quát hết mọi điều tinh yếu. Tuy [về sau] bộ phái phân chia càng nhiều, nhưng Pháp bảo quan trọng vẫn luôn tồn tại.

Kể từ [Đức Như Lai] đản sinh cho đến khi thị hiện Niết-bàn, thánh tích trải ngàn biến đổi, điềm lành hiện muôn sai khác; nguồn đạo thiêng vô tận càng rõ, giáo pháp vô vi thêm mới. Những điều này vẫn còn đầy đủ trong kinh điển, ghi chép tường tận nơi sách truyện. Ấy vậy mà [ngày nay] vẫn nhiều người nói ra sai khác rối ren, lan truyền những điều lệch lạc; truy nguồn xét cội[4] thật ít người có thể nói đúng. Đó là chỉ bàn về sự việc được ghi chép đúng thật mà còn nhiều tranh biện sai lệch như thế, huống chi đối với Chánh pháp sâu xa mầu nhiệm, lẽ chân thật cao siêu, khi nghiên cứu phân tích tôn chỉ uyên áo thì kinh văn [lưu truyền] thường nhiều chỗ thiếu sót. Vì thế, [ngày nay] những bậc tu hành đi trước, rèn đức độ thì noi theo kinh điển thiếu sót lệch lạc;[5] kẻ thông minh tài trí đến sau, tìm cầu tri thức lại tiếp tục học từ những bản văn không trọn đủ. Ý nghĩa lớn lao [của Phật pháp] khuất lấp không hiển lộ, những lời sâu xa mầu nhiệm bị thiếu sót không ai truy vấn.

Giáo pháp dần truyền vào [Trung Hoa], trải qua nhiều năm tháng, bắt đầu từ đời Hán[6] mãi cho đến Thánh triều[7] hiện nay. [Suốt thời gian ấy,] việc chuyển dịch lưu hành Kinh điển là sự nghiệp hưng thịnh, tốt đẹp như suối nguồn tuôn chảy không ngừng, chói sáng như mặt trời chiếu soi liên tục. [Ấy vậy mà] đạo nhiệm mầu vẫn chưa phát triển mạnh, tông chỉ chân thật hãy còn lu mờ. Đó chẳng phải do Phật pháp có sự lưu hành hay tiềm ẩn, mà vì sức giáo hóa kém của các triều đại [trước đây] khiến cho thành như vậy.

Đại Đường ta từ khi trị vì thiên hạ, uy tín lan xa vượt ngoài bờ cõi; khảo sát phép tắc thánh nhân để lại, chấn chỉnh luật lệ các đời vua trước; xiển dương Phật giáo,[8] đúc kết thành giáo huấn lớn lao.

Đạo mầu không thể tự nhiên lan tỏa,[9] muốn rộng truyền phải cần người đủ đức hạnh và trí tuệ. Vậy nên giáo nghĩa sâu xa của Ba thừa khuất lấp đến ngàn năm;[10] đạo thiêng lưu truyền của đấng Thập lực bị ngăn trở xa xôi ngoài vạn dặm. Phật đạo vốn không hạn cuộc phương nào, nhưng Thánh giáo thật có nơi phó thác, chờ đủ nhân duyên mới được hiển bày. Lời này quả thật đáng tin!

Nay Pháp sư Huyền Trang thuộc dòng dõi thanh cao, ban sơ ở vùng Lôi Trạch,[11] sau thành tộc họ lớn ở ven sông Quy.[12] [Bên ngoài, ngài] thể hiện mọi sự tốt lành của đức tính cao thượng, [bên trong] hàm chứa phẩm chất tinh thuần của sự trung chính nhu hòa; sống theo chánh đạo, phù hợp đức hạnh, giữ mình trong sạch, tu tập hành trì; đời trước đã sẵn nhân lành, trồng sâu cội phúc nên sinh ra gặp thời hưng thịnh.

Ngài dứt bỏ trần tục, sống an nhiên theo đường tu học, kính vâng lời dạy cao quý của những bậc thầy đi trước, ngưỡng mộ học theo đức độ các đấng hiền triết. Khăn gói lên đường cầu học, phương xa cung kính tìm thầy, đi qua hết các miền Yên, Triệu, tìm kiếm khắp quanh vùng Lỗ, Vệ,[13] quay lưng rời khỏi Tam Hà[14] để vào đất Tần,[15] đi qua Tam Thục[16] đến vùng Ngô Hội.[17] Chuyên cần tham học với hết thảy các vị học giả uyên thâm; nhiều lần bày tỏ chí nguyện cầu pháp với những bậc đức tài xuất chúng.

Ngài lắng nghe đủ các luận thuyết bên ngoài, cứu xét toan tính của mọi tông phái, [thấy rằng họ] luôn tranh giành phần thắng cho tông phái của mình, ganh ghét tất cả các tông phái khác. Ngài phát tâm truy tìm đến tận nguồn cội,[18] lập chí nghiên cứu tường tận giáo pháp.

Nhân khi bốn biển thái bình, tám phương an ổn, vào ngày đầu tháng, giữa mùa thu năm Trinh Quán thứ ba, ngài phất áo lên đường, chống tích trượng hướng về phương xa. Nương uy giáo hóa triều đình, mới có thể vượt đường xa cầu đạo; nhờ sự phù trợ âm thầm, nên đủ sức đơn độc ra đi. Trải nguy nan qua Thiết môn, Thạch môn; đường hiểm trở vượt núi Lăng, núi Tuyết. Tiết trời nóng lạnh đổi thay, thời gian qua nhanh thấm thoát, cuối cùng đến được Ấn Độ.

[Trong chuyến đi này, ngài] truyền bá phong tục nước nhà[19] đến những nơi tục lệ khác biệt; nêu sự giáo hóa [của triều đình][20] với các nước khác. Ngài tự thân tiếp nhận nền học thuật Phạn ngữ, theo học với các bậc thầy minh triết. Những nghi hoặc chất chứa từ trước, nay nhờ đọc kinh văn liền sáng tỏ; bao nhiêu ý nghĩa thâm sâu uyên áo, đều mang ra thưa hỏi các bậc cao minh; trí mở ra nghiên tầm chân lý, lòng thênh thang thể nghiệm đạo mầu. Nghe những điều chưa từng nghe, đạt được những điều chưa từng đạt được, [nhờ vậy nên] thành người bạn lành hữu ích trên đường tu, làm bậc thầy kiệt xuất trong cửa pháp.

Cho nên biết rằng, phong thái tu hành của ngài chói sáng, đức hạnh cao vời, học vấn uyên thâm,[21] tiếng tốt vang xa ngoài muôn dặm. Học giả Ấn Độ đều kính ngưỡng đức hạnh, gọi ngài là “nơi tích chứa Kinh điển”,[22] cũng tôn xưng ngài là “bậc tướng quân trong Phật pháp”.[23] Những người học theo Tiểu thừa xưng hiệu ngài là Mộc-xoa-đề-bà (nghĩa là Giải Thoát Thiên),[24] hàng tăng chúng Đại thừa thì xưng hiệu ngài là Ma-ha-da-na-đề-bà (nghĩa là Đại Thừa Thiên).[25] Đó là vì họ tôn trọng đức hạnh của ngài nên truyền xưng danh hiệu cao quý, cung kính nhân phẩm của ngài mà bàn nhau đặt tên tốt đẹp. Đến như những ý nghĩa uyên áo của tam luân, lời vi diệu như tam thỉnh,[26] hay việc khảo cứu sâu xa đến tận cội nguồn giáo pháp, thấu triệt những phân chia nhỏ nhặt về sau,[27] hoặc nhờ trí tuệ bừng sáng mà chứng ngộ, hay thuận theo chân lý được an vui, hoặc ý nghĩa gạn hỏi những điều nghi hoặc… những điều như thế đều ghi chép rõ ràng trong sách khác.[28]

Sau khi đã thông suốt đạo mầu, thấu triệt giáo nghĩa, danh thơm tiếng tốt của ngài như làn gió lan xa. Việc cầu học đã rộng khắp, đức hạnh đã trau giồi, ngài liền đi khắp các chốn núi sông, dạo quanh thành ấp. Ngài ra khỏi thành Thượng Mao,[29] ghé vào vườn Lộc Uyển, qua rừng Trượng Lâm, vào nghỉ chùa Kê Viên,[30] ngoảnh nhìn về nước Ca-duy, dõi mắt đến thành Câu-thi.[31] Nền cũ còn lưu nơi Phật đản sinh, quanh vùng đồng ruộng phì nhiêu; dấu thiêng xưa tiềm ẩn, nhìn xa gò núi mênh mang. Ngắm thánh tích lòng thêm hoài niệm, ngưỡng mộ đạo mầu càng cảm thán khôn nguôi. Đây không phải chuyện nhìn lúa mạch trên nền cố cung mà đau thương vì nhà Ân đã mất, trông lúa nếp phủ xanh nền điện cũ mà xót xa cho sự suy tàn của nhà Tây Chu, thế nhưng vẫn có sự xúc cảm dâng tràn như vậy.[32] Nhân đó ngài [soạn ra sách này] kể rõ những chuyện tích về đức Phật Thích-ca, nêu sự phồn vinh hưng thịnh của Ấn Độ vào thời đó, chọn lọc phong thổ các nơi, đồng thời ghi chép lại các luận thuyết khác biệt.

Năm tháng qua nhanh, tiết trời nóng lạnh không ngừng thay đổi, lòng vẫn luôn hướng về quê hương nên ngài không quên chuyện quay về. Vào lúc đó ngài đã cung thỉnh được:

● 150 hạt xá-lợi nhục thân Như Lai.

● Một tượng Phật bằng vàng, tính cả hào quang và tòa sen cao một thước sáu tấc (53.33 cm), mô phỏng tượng Phật trong hang rồng ở núi Tiền Chánh Giác nước Ma-yết-đà.

● Một tượng Phật bằng vàng, tính cả hào quang và tòa sen cao ba thước ba tấc (110 cm), mô phỏng tượng Phật chuyển Pháp luân lần đầu tiên ở vườn Lộc Dã, nước Bà-la-ni-tư.

● Một tượng Phật bằng gỗ đàn hương, tính cả hào quang và tòa sen cao một thước năm tấc (50 cm), mô phỏng tượng do vua Xuất Ái nước Kiêu-thưởng-di vì nhớ đến đức Như Lai mà tạo ra giống như thật.

● Một tượng Phật bằng gỗ đàn hương, tính cả hào quang và tòa sen cao hai thước chín tấc (96.66 cm), mô phỏng tượng đức Như Lai khi từ Thiên cung trở về đi trên thang báu ở nước Kiếp-tỷ-tha.

● Một tượng Phật bằng bạc, tính cả hào quang và tòa sen cao bốn thước (133.33 cm), mô phỏng tượng đức Như Lai đang thuyết các kinh như Pháp Hoa... trên đỉnh Linh Thứu nước Ma-yết-đà.

● Một tượng Phật bằng vàng, tính cả hào quang và tòa sen cao ba thước năm tấc (116.66 cm), mô phỏng ảnh tượng Phật lưu lại ở nước Na-yết-la-hạt sau khi hàng phục rồng dữ.

● Một tượng Phật bằng gỗ đàn hương, tính cả hào quang và tòa sen cao một thước ba tấc (43.33 cm), mô phỏng tượng đức Như Lai khi đi hành hóa trong thành Phệ-xá-ly.

♦ 224 bộ kinh Đại thừa

♦ 192[33] bộ luận Đại thừa

♦ 14 bộ kinh, luật, luận của Thượng tọa bộ

♦ 15 bộ kinh, luật, luận của Đại chúng bộ

♦ 15 bộ kinh, luật, luận của Tam-di-để bộ

♦ 22 bộ kinh, luật, luận của Di-sa-tắc bộ

♦ 17 bộ kinh, luật, luận của Ca-diệp-tý-da bộ

♦ 42 bộ kinh, luật, luận của Pháp Mật bộ

♦ 67 bộ kinh, luật, luận của Thuyết nhất thiết hữu bộ

♦ 36 bộ Nhân luận

♦ 13 bộ Thanh luận

Tất cả đựng trong 520 thùng, tổng cộng là 657 bộ.[34]

Vì muốn rộng truyền giáo pháp của đức Thế Tôn, ngài nhanh chóng lên đường quay về; vượt đường xa hiểm trở, ngựa xe gấp gáp duổi rong. Ra khỏi nước Xá-vệ cũ,[35] quay lưng rời thành Già-da xưa; men lối hẹp hiểm trở vượt qua Thông lĩnh, theo đường nguy nan băng qua sa mạc. Vào tháng Giêng, mùa xuân năm Trinh Quán thứ 19, ngài về đến kinh đô, yết kiến hoàng đế tại Lạc Dương. Rồi kính vâng thánh chỉ về việc chuyển dịch lưu hành, liền triệu tập các vị học giả, cùng nhau thực hiện sự nghiệp phiên dịch lớn lao. Mây pháp từ đây lại che mát [thế gian], mặt trời trí tuệ tỏa sáng trở lại. Đất hoàng triều nay lưu hành kinh văn từ Linh thứu, vùng trung thổ diễn giảng giáo pháp Đại thừa.[36] Sự hưng khởi trong thời Tượng pháp như vậy thật là rực rỡ!

Pháp sư tinh thông Phạn học, cung kính xiển dương kinh điển thâm sâu, đọc qua kinh văn lập tức thấu hiểu, phiên âm chính xác như tiếng vọng lại;[37] cung kính thuận theo Thánh ý, không thêm văn chương hoa mỹ, các từ ngữ địa phương hoặc [một số] Phạn ngữ không dịch,[38] cố gắng trau chuốt mà vẫn giữ lại ý nghĩa tinh túy, giữ theo chuẩn mực kinh điển chính thống, suy xét tra khảo thận trọng, chỉ sợ làm sai lệch ý nghĩa.

2. Quan điểm dịch thuật[39]

Có vị tiên sinh học thức,[40] sắc mặt lộ vẻ xúc động, nghiêm trang bước đến thưa rằng:

“Nước Ấn Độ từ khi lập quốc, là nơi các đấng thánh linh giáng trần, những bậc hiền nhân tài đức xuất thế. Sách của Ấn Độ gọi là thiên thư, ngôn ngữ gọi là thiên ngữ;[41] câu văn từ ngữ đều thanh nhã ẩn mật, âm thanh vần điệu nhịp nhàng; một từ bao hàm nhiều nghĩa, một nghĩa diễn bởi nhiều từ; thanh sắc có cao thấp, ngữ điệu có trầm bổng. Phạn văn ý tứ sâu xa, chuyển dịch phải nhờ nơi người thông tuệ sáng suốt; ý chỉ kinh văn rỗng rang huyền diệu, [giảng giải] nghĩa lý phải dựa vào bậc có đức độ sâu dày. Nếu như [người dịch] cắt gọt văn chương, chỉnh sửa cho hài hòa theo âm điệu thì quả thật không thỏa đáng, không thể xem là bản dịch tốt.

“Việc truyền bá ý chỉ thâm sâu của kinh điển, cốt yếu là phải rõ ràng dễ hiểu, miễn không trái với nguyên tác là tốt. Văn hoa trau chuốt thì hoa mỹ không thật, lời văn mộc mạc quá thì quê kệch; nêu nghĩa đúng thật mà không văn hoa, diễn đạt rõ ràng mà không mộc mạc, như thế thì không mắc vào lỗi lớn. Được vậy mới có thể nói đến việc dịch thuật.

“Lão Tử nói: ‘Lời hoa mỹ không đáng tin, lời đáng tin không hoa mỹ.’ Hàn Phi Tử[42] cũng nói: ‘Lý lẽ đúng đắn thì lời nói ngay thẳng; lời nói hoa mỹ là che lấp lý lẽ.’ Cho nên biết rằng, lời dạy trong Phật pháp với quy tắc khuôn mẫu của thế tục, ý nghĩa vốn cũng tương đồng, đều mong muốn trừ bỏ chỗ tối tăm mê muội, giữ lấy những điều lợi lạc. [Nếu người chuyển dịch] làm sai lệch ý nghĩa nguyên tác để chạy theo văn chương thì tai hại rất lớn. [Lời tục nói:] “Tuân theo quy chuẩn từ xưa”,[43] đó cũng chính là sự chí thành mà đấng Pháp Vương đã dạy.”

Chư tăng và cư sĩ [nghe như vậy] đều nói: “Hay thay, lời này quả thật xác đáng! Xưa kia Khổng Tử khi giữ chức quan, lúc phân xử tranh tụng, ban hành văn bản đều có người cùng bàn soạn, không riêng một mình làm. Đến khi san định kinh Xuân Thu [thì tự quyết], đáng ghi thì ghi vào, đáng bỏ thì bỏ đi, Tử Du, Tử Hạ là những học trò giỏi văn chương của Khổng tử cũng không thể thêm bớt chữ nào.

“Pháp sư dịch kinh cũng thế, không giống như khi Đồng Thọ[44] soạn dịch [kinh điển] ở Tiêu Dao Viên (逍遙園), giao cho Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ[45] phụ trách việc cắt sửa thêm bớt. Huống chi trong thời thế mà chỗ tròn cắt gọt thành vuông, nơi tinh xảo thì đục bỏ cho thành thô phác, há có thể thêm bớt vào thánh ý của Phật, tô vẽ trau chuốt kinh văn cho hoa mỹ được sao?”[46]

3. Về việc thực hiện sách Tây vực ký[47]

Biện Cơ vốn dòng dõi thanh cao thoát tục, từ thuở nhỏ đã nuôi chí ẩn dật, năm mười lăm tuổi[48] xuất gia,[49] làm đệ tử Pháp sư Đạo Nhạc ở chùa Đại Tổng Trì, thuộc Tát-bà-đa bộ.

Dù gặp được [danh sư như] thợ mộc giỏi[50] nhưng [tự thân mình hèn kém, ví như] gỗ mục, thật khó chạm khắc; tuy may mắn được đứng chung vào hàng tăng chúng, nhưng [việc học] giống như dầu mỡ trơn tuột không thể thấm nước. Suốt ngày chỉ biết ăn no, như kẻ quay mặt vào tường cho qua năm tháng.[51] Chỉ là may mắn gặp thời nên mới được tham dự vào vận hội tốt đẹp này, đem chút tài mọn như chim yến chim sẻ, đứng nép ở cuối đàn chim phượng chim hồng. Nay giao cho kẻ tầm thường soạn sách địa chí này. Nhưng sức học chưa đủ rõ việc xưa, văn chương lại không hoa mỹ, [nên làm việc này cũng giống như] mài con dao cùn đẽo khúc gỗ mục, [như người] gắng sức đến mỏi mệt mà chỉ có thể bước đi khập khiễng.

Cung kính nhận tập ghi chép này, thay đổi sắp xếp câu văn, được Thượng thư cấp giấy bút để biên soạn. [Biện Cơ] trí tuệ nông cạn, năng lực hạn hẹp, nhiều chỗ thiếu sót, hoặc có những câu văn thừa chưa được cắt bỏ. Đến như Tư Mã Tử Trường[52] xưa kia là người viết sử giỏi, nhưng khi viết lời tựa sách Thái sử công thư, trong phần kể về việc nối nghiệp của cha,[53] lại có chỗ ghi tên chính không ghi tên tự, có nơi thì ghi tên huyện không ghi tên quận. Cho nên nói rằng, với sức của một người thì dù chu đáo kỹ lưỡng, cũng không suy xét được khắp hết những chỗ trùng lặp phức tạp trong bản văn, không thể không mắc lỗi. Huống chi với trí ngu muội thấp kém [của Biện Cơ] thì làm sao có thể tường tận đầy đủ?

Về những việc được ghi chép như phong thổ, tập tục khác biệt, ranh giới đất đai, sản vật địa phương, tính khí hoặc trí năng [các dân tộc], phân chia thành phẩm hạng, hoặc thời tiết khí hậu nóng lạnh, tất cả đều mô tả tường tận những điểm tốt xấu, xét kỹ căn cứ đúng thật.

Về tên họ người ở các nước Tây Vực và Ấn Độ,[54] đều theo [cách gọi của] mỗi nước. Về phong tục, văn hóa của Ấn Độ có sự phân chia thanh cao hay thô trược, chỉ lược ghi khái quát, như đã nói rõ trong lời tựa ở trước.

Về những việc như lễ nghi chủ khách, cưới hỏi, nhân khẩu, quân đội, tăng đồ… đều không ghi chi tiết.

Thế nhưng, Phật dùng thần thông tiếp độ chúng sinh, linh diệu giáo hóa, thương xót dạy dỗ, cho nên nói rằng thánh đạo rỗng không huyền diệu, lý lẽ vượt ngoài cõi người; giáo hóa linh diệu ẩn hiện, sự việc ra khỏi trời đất. Vì thế, đối với các nơi đức Phật hiện xuống điềm lành, những vùng bậc thánh trước đây để lại sự tốt đẹp, đều lược nêu những nét linh thiêng còn để lại, ghi chép sơ lược.

Đường đi qua nhiều nơi quanh co, biên giới các nước chồng chéo, [Pháp sư] thuận theo đường, đi đến đâu ghi chép đến đó, không sắp xếp thứ tự. Do vậy nên đối với các nước ở [năm vùng] Ấn Độ, vốn không phân chia thành vùng rõ rệt, phụ ghi thêm ở cuối mỗi nước để biết đại lược nước ấy thuộc vùng nào.

Những chỗ ghi chữ “hành” (行) là Pháp sư đã tự mình đi đến; những nơi chỉ nêu chữ “chí” (至) là nghe biết mà ghi chép lại.[55] Hoặc ghi thẳng đúng thật theo sự việc, hoặc uyển chuyển trau chuốt cho hài hòa mạch văn; suy xét chọn lọc, cốt yếu là giữ đúng theo sự ghi chép [của Pháp sư] để dâng lên thánh hoàng những điều chân thật.

Đến tháng 7, mùa thu năm Trinh Quán thứ 20 (646) gác bút hoàn thành, toàn văn chép trên lụa trắng, trình lên hoàng đế xem qua, nào dám cho là đã hợp thánh ý? Nhưng [Pháp sư] mạo hiểm đi đến tận những nơi xa xôi cùng tận, quả thật cũng dựa vào sự giáo hóa của triều đình; ghi chép được những sự kỳ lạ khác thường, chính là nương cậy uy linh hoàng đế. [Những việc phi thường xưa nay như] đuổi theo mặt trời khắp chốn, đâu thể dùng sức riêng của Khoa Phụ;[56] mở thông đường [Tây Vực] ngàn dặm, lẽ nào chỉ nghe biết công lao của Bác Vọng hầu?[57] [Nay qua sách này thì] núi Linh Thứu như dời về trung châu,[58] vườn Lộc Uyển như đưa vào ngoại uyển;[59] có thể hình dung những việc ngàn năm như nhìn thấy trước mắt, quan sát khắp con đường muôn dặm như tự mình dạo chơi. [Đó đều là] những việc xưa nay chưa từng được nghe, sách vở trước đây chưa từng ghi chép.

Ân đức lớn của triều đình phủ khắp, các nước ngoài biên cương[60] đều về quy phục; phong tục tốt đẹp lan xa như gió thổi, cho đến những vùng hoang vu tăm tối cũng không nằm ngoài. Mong rằng quyển địa chí này sẽ bổ khuyết cho Sơn Hải Kinh, ban bố khắp nơi như ghi chép của sử quan, đủ cho quan [địa dư] ở các địa phương tham khảo.




________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Bản Hán văn là “擅方外之 道 - thiện phương ngoại chi đạo”, trong ngữ cảnh này “phương ngoại” chỉ cho Ấn Độ và hàm ý đạo Phật là đạo lớn so với các đạo khác đương thời.

[2] Ba chuyển pháp luân: tam chuyển pháp luân (三轉法輪 ), chỉ pháp luân 3 lần chuyển Tứ đế để tuần tự giáo hóa của đức Phật. Thứ nhất là thị chuyển (示轉), chỉ ra để nhận biết các ý nghĩa khổ, tập, diệt, đạo; thứ hai là khuyến chuyển (勸轉), khuyến khích việc thực hành quán chiếu, tu tập; thứ ba là chứng chuyển (證轉), đạt đến tự chứng nghiệm, giác ngộ. Mỗi lần chuyển có 4 hành tướng là là nhãn, trí, minh, giác do vậy 3 lần có 12 hành tướng, gọi chung là Tam chuyển thập nhị hành tướng (H. 三轉十二 行相, S. tri-parivarta-dvādaśākāra-dharma-cakra-pravartana).

[3] Bản Hán văn là Kiên cố chi lâm (堅固之林), tức chỉ rừng sa-la, nơi đức Phật nhập Niết-bàn, vì chữ sa-la (śāla) được dịch nghĩa là kiên cố.

[4] Truy nguồn xét cội: Bản Hán văn là “nguyên thủy yếu chung” (原始要終), lấy ý từ Kinh Dịch, phần Hệ từ hạ (易經,繫辭下), chỉ việc tìm hiểu sự việc đến tận nguồn gốc ban đầu và nắm hiểu rõ ràng kết quả cuối cùng.

[5] Kinh điển thiếu sót lệch lạc: Bản Hán văn là”dật kinh” (逸經) chỉ những kinh điển đã bị mất mát, thất lạc một phần nên phần còn lại không trọn vẹn, bị thiếu sót và sai lệch do sao chép.

[6] Bản Hán văn là “Viêm Hán - 炎漢” để chỉ đời Hán, vì theo thuyết ngũ hành xưa thì nhà Hán thuộc mệnh hỏa (火) là lửa, chữ viêm cũng có nghĩa là lửa, nhưng là ngọn lửa cháy bùng mạnh, bốc hơi nóng.

[7] Bản Hán văn là “Thánh đại” là cách nói tôn xưng để chỉ triều đại nhà Đường

[8] Phật giáo: Bản Hán văn là “tượng giáo” (像教) để chỉ Phật giáo, theo cách phân biệt với Nho giáo là “danh giáo” (名教).

[9] Đạo mầu không thể tự nhiên lan tỏa: Hán văn là “Đạo bất hư hành” (道不虛行) lấy ý từ Kinh Dịch, phần Hệ từ hạ (易經, 繫辭下): “Cẩu phi kỳ nhân đạo bất hư hành” (苟非其人,道不虚行) nghĩa là không có người thích hợp thì đạo cũng không thể tự nhiên mà được lưu truyền.

[10] Khuất lấp đến ngàn năm: dựa theo ý câu trước để nói việc chưa có người đưa giáo pháp về nên cả ngàn năm người Trung Hoa không được biết đến.

[11] Bản Hán văn là “疏清流於雷澤 - sơ thanh lưu ư Lôi Trạch”. Lôi Trạch là tên một hồ nước cổ, đến đời Tống có thể đã bị đất bồi lấp dần. Vị trí hiện nay có thể là một phần của hồ Đông Bình (東平湖) hoặc các vùng đầm lầy ven sông Hoàng Hà. Theo truyền thuyết cũng như trong Sử ký của Tư Mã Thiên, vua Thuấn từng sống gần hồ Lôi Trạch và làm nghề đánh bắt cá trong hồ. Do vậy câu này có ý nói họ Trần của ngài Huyền Trang là hậu duệ nhiều đời của vua Thuấn.

[12] Bản Hán văn là “派洪源於媯川 - phái hồng nguyên ư Quy xuyên”. Đây là nhắc lại điển tích vua Nghiêu gả 2 người con gái là Nga Hoàng (娥皇) và Nữ Anh (女英) cho Thuấn, đồng thời phong cho vùng đất ở ven sông Quy, thuộc Sơn Tây. Từ đó, con cháu của vua Thuấn lấy họ Quy. Đến đời Chu Vũ Vương, họ Quy được phong ở đất Trần nên đổi sang họ Trần, là một trong tam khác (三恪), tức 3 dòng họ lớn, gồm họ Trần, họ Kỷ và họ Tống. Điển tích này được Vu Chí Ninh nhắc trong lời tựa.

[13] Các tên đất như Yên, Triệu, Lỗ, Vệ đều là dùng theo tên gọi từ thời Chiến quốc.

[14] Bản Hán văn là “三河 - Tam Hà” để chỉ vùng trung tâm kinh tế rất phồn thịnh vào thời đó, bao gồm Hà Đông (河 東 - phía đông sông Hoàng Hà, nay thuộc tỉnh Sơn Tây), Hà Nội (河内 - nằm giữa sông Hoàng Hà và sông Hoài, nay thuộc Hà Nam, Hà Bắc) và Hà Nam (河南 - phía nam sông Hoàng Hà, trọng tâm là Lạc Dương, Hà Nam ngày nay).

[15] Bản Hán văn là “秦中 - Tần trung”, chỉ việc ngài Huyền Trang tìm đến Trường An (長安, nay là Tây An), khi ấy là trung tâm của vùng Quan Trung. Đây là vùng đất thuộc nước Tần thời trước.

[16] Bản Hán văn là Tam Thục (三蜀) được dùng để chỉ 3 quận thuộc đất Thục, bao gồm Thục quận (蜀郡 - trung tâm là Thành Đô), Quảng Hán Quận (廣漢郡 - nằm về phía đông bắc Thục Quận, nay thuộc các thành phố Miên Dương, Đức Dương) và Kiện Vi Quận (犍為郡 - khu vực phía nam, nay thuộc Nghi Tân, Lạc Sơn).

[17] Ngô Hội (吳會), chỉ chung cả vùng Giang Nam. Tên gọi này được ghép từ đất Ngô (吳 - là vùng hạ lưu sông Dương Tử, trung tâm là Tô Châu, thuộc Giang Tô ngày nay) cùng đất Hội (會), tức vùng Cối Kê (會稽), trung tâm là Thiệu Hưng, thuộc Chiết Giang ngày nay.

[18] Bản Hán văn là “情發 討源 - tình phát thảo nguyên”, chỉ việc ngài Huyền Trang phát tâm muốn cầu tìm giáo pháp từ nguồn gốc ở Ấn Độ.

[19] Bản Hán văn là “國風 - quốc phong” để chỉ phong tục, văn hóa Trung Hoa.

[20] Ý chỉ triều đình nhà Đường.

[21] Bản Hán văn là “學蘊三冬 - học uẩn tam đông”, chỉ người kiên trì học hỏi, đã tích lũy kiến thức qua nhiều năm.

[22] Bản Hán văn là “經笥 - kinh tứ“, nghĩa là cái rương, cái thùng đựng kinh.

[23] Bản Hán văn là “法將 - Pháp tướng”, nghĩa là bậc tướng quân trong Pháp.

[24] Mộc-xoa-đề-bà (S. Mokṣadeva, H. 木叉提婆), dịch nghĩa là Giải thoát thiên.

[25] Ma-ha-da-na-đề-bà (S. Mahayanadeva H. 摩訶耶那提婆), dịch nghĩa là Đại thừa thiên.

[26] Bản Hán văn là (三輪 - Tam luân) có thể là cách nói tắt chỉ đến “tam chuyển pháp luân”, tức ba lần chuyển pháp luân. Tam thỉnh (三請) là ba lần thưa thỉnh, tức là thỉnh Phật thuyết pháp.

[27] Bản Hán văn là “深究源流,妙窮枝葉 - thâm cứu nguyên lưu, diệu cùng chi diệp“. Nguyên lưu chỉ đến cội nguồn lưu xuất ban đầu của tất cả giáo pháp, đùng như Phật thuyết giảng, chưa có sự thay đổi sai lệch; “chi diệp” nghĩa đen là cành và lá, được dùng để chỉ các tông phái phát triển về sau, cũng có nghĩa là những điều nhỏ nhặt hơn được suy ra từ giáo pháp.

[28] Bản Hán văn là “別錄 - biệt lục”, bản ghi chép khác, sách khác, hàm ý rằng đoạn văn này chỉ nêu tổng quát những ý nghĩa liên quan đến chuyến đi của ngài Huyền Trang mà không thể trình bày hết nơi đây, nên chỉ đến một tập sách khác. Điều này gợi lên một nghi vấn, nếu Biện Cơ viết lời Ký tán này ngay khi sách Tây vực ký hoàn thành, tức là năm 646, thì dường như chưa có tập sách nào khác viết hay kể về ngài Huyền Trang. Pháp sư truyện hay Hành trạng, Tục Cao tăng truyện v.v… đều ra đời về sau. Nhưng theo cách diễn đạt ở đây thì có vẻ như Biện Cơ đã biết đến một quyển sách như vậy.

[29] Bản Hán văn là Mao thành (茅城), tức là thành Thượng Mao (上茅城) ở nước Ma-yết-đà, được nhắc đến trong quyển 9.

[30] Bản Hán văn là “鷄園 - Kê Viên”, là tên một ngôi chùa, cũng ở nước Ma-yết-đà.

[31] Đoạn văn này tác giả cố ý diễn đạt cho có vẻ sinh động như mô tả lại hành trình, nhưng thật ra chỉ nêu được tiêu biểu một vài nơi, và cũng không đúng với trình tự ngài Huyền Trang đã đi qua, nhưng đoạn văn này lại có thể khiến độc giả nhầm lẫn rằng ngài Huyền Trang sau khi hoàn tất việc cầu học mới dành thời gian thăm viếng thánh tích. Trong thực tế thì hai việc này cùng diễn ra và không hề có sự sắp xếp trước sau, chỉ tùy thuộc vào những nơi mà ngài Huyền Trang đi qua trong hành trình. Khi gặp các bậc thầy, ngài dừng lại tham học; khi gặp các thánh tích, ngài dừng lại chiêm ngưỡng, lễ bái. Cứ như vậy cho đến ngày về nước.

[32] Bản Hán văn là các điển tích “麥秀 - mạch tú” (lúa mạch), “黍離 - thử ly” (lúa nếp), xuất phát từ hai bài thơ cùng tên. Bài thơ Mạch tú được chép trong Sử ký của Tư Mã Thiên, kể chuyện Vi Tử Khải, con trai Trụ vương, về thăm kinh đô cũ của nhà Ân Thương sau khi bị nhà Chu diệt mất, nhìn thấy lúa mạch mọc trên nền cung điện cũ và cảm xúc làm ra bài thơ này. Bài thơ Thử ly đã mất tên tác giả, được chép trong Kinh Thi, phần Vương phong (王風), là cảm xúc của tác giả khi nhìn lúa nếp phủ xanh trên nền cung điện cũ của nhà Tây Chu, lúc đó đã dời đô sang thành Đông Chu.

[33] Bản Đại Chánh tạng ghi là “一百九十部 - nhất bách cửu thập bộ”, so sánh cả 2 bản Càn Long tạng và Vĩnh Lạc Bắc tạng đều là “一百九十二部 - nhất bách cửu thập nhị bộ”. Nếu là 190 bộ thì không khớp với tổng số 697 bộ được nêu ở sau, do đó chắc chắn Đại Chánh tạng đã chép sót.

[34] Bài văn Ký tán này đã mắc phải lỗi cấu trúc ở đây, vì số lượng liệt kê này là những gì ngài Huyền Trang mang về được đến Trường An, không phải số lượng thu thập được tại Ấn Độ khi lên đường trở về. Trên đường đi đã xảy ra các biến cố làm mất mát và ngài phải tìm kiếm, thu thập lại nên có sự khác biệt.

[35] Tức là nước Thất-la-phạt-tất-để ở đầu quyển 6. Nguyên tác gọi là “cố quốc”, vì đây là quốc gia vào thời đức Phật, nhưng khi ngài Huyền Trang đến thì đã hoang phế đổ nát, cho nên gọi là cố quốc.

[36] Bản Hán văn là “Hoàng đồ lưu Thứu sơn chi hóa, Xích huyện tuyên Long cung chi giáo.” (黃圖流鷲山之化,赤縣演龍宮之教。) Câu này dùng các cụm từ mang tính biểu trưng, hoàng đồ và xích huyện đều dùng để chỉ đất nước Trung Hoa, trong khi “Thứu sơn chi hóa” chỉ những kinh điển đức Phật đã thuyết giảng (không chỉ riêng tại núi Linh thứu). “Long cung chi giáo” chỉ giáo pháp Đại thừa, dựa theo niềm tin rằng kinh văn Đại thừa được các vị Long vương mang về Long cung để giữ gìn.

[37] Phiên âm chính xác như tiếng vọng lại: Câu này nói việc Huyền Trang phiên âm Phạn ngữ sang âm chữ Hán đi sát với âm tiếng Phạn (như âm thanh phát ra vọng lại), được cho là chính xác hơn so với các nhà cựu dịch đã phiên âm trước đó, chẳng hạn như Phạn ngữ upāsaka trước đây phiên âm là ưu-bà-tắc (優婆塞), ngài Huyền Trang phiên âm là ô-ba-sách-ca (烏波索迦), khác nhau rất xa.

[38] Phạn ngữ không dịch: Bản Hán văn là “phương ngôn bất thông, Phạn ngữ vô dịch.” (方言不通,梵語無譯) “Bất thông”, “vô dịch” đều có nghĩa là không dịch có nghĩa là chỉ phiên theo âm đọc, không dịch nghĩa sang chữ Hán. Chữ Phạn ngữ ở đây tối nghĩa vì không thể là tất cả Phạn ngữ, nên có thể là chỉ cho “ngũ chủng bất phiên”, bao gồm: 1. Những từ bí mật không dịch, như thần chú...; 2. Một chữ nhiều nghĩa không dịch, vì không thể dịch hết ý; 3. Từ ngữ chỉ những sự vật không có ở Trung Hoa; 4. Những từ đã quen dùng từ xưa đến nay; 5. Không dịch để giữ sự tôn kính, như Bát-nhã, Thích-ca...

[39] Theo cấu trúc thì phần này có vẻ như không còn thuộc bài Ký tán, được lắp ghép vào một cách rất khiên cưỡng, do vậy chúng tôi đã trình bày tách biệt ra và đặt thêm tiêu đề để độc giả tiện theo dõi.

[40] Vị tiên sinh học thức: Bản Hán văn là “tấn thân tiên sinh” (搢紳先生), một cách dùng cổ để chỉ vị nho sĩ có học thức rộng, uyên bác. Ở đây nói rất mơ hồ vì không nêu rõ vị này là ai.

[41] Thiên ngữ: ngôn ngữ của trời, Hán ngữ lấy ý nghĩa từ cách gọi tên trong tiếng Phạn, sách gọi là Phạn thư, ngôn ngữ gọi là Phạn ngữ, đều dựa trên chữ brahma (梵) có nghĩa là Phạn thiên (hay Phạm thiên), chỉ trời, chư thiên. Cho nên nói “thiên thư” nghĩa là sách của trời; “thiên ngữ” nghĩa là ngôn ngữ của trời.

[42] Hàn Phi Tử (韩非子), cũng gọi là Hàn Phi, Hàn Tử, nhà tư tưởng thuộc trường phái Pháp gia (法家) vào thời Chiến quốc, sống vào khoảng năm 280-233 TCN.

[43] Bản Hán văn là câu tục ngữ: “率由舊章- Suất do cựu chương.” (Y theo phép tắc cũ.) Câu này xuất phát từ Kinh Thi, phần Đại nhã: “不愆不忘,率由舊章 - Bất khiên bất vong, suất do cựu chương.“ (Không sai, không quên, y theo phép cũ.)

[44] Đồng Thọ (童壽), là tên gọi dịch nghĩa của ngài Cưu-ma-la-thập (S. Kumārajīva, H. 鳩摩羅什). Lập luận ở đây không thuyết phục vì tự mâu thuẫn, khi nói về cách dịch của ngài Huyền Trang là khác với ngài Cưu-ma-la-thập bằng cách so sánh với việc Khổng tử san định kinh Xuân Thu, học trò giỏi “không thêm bớt được chữ nào”. Thế nhưng ngay trong dịch trường của ngài Huyền Trang có rất nhiều học giả được triệu tập để lo việc tu chỉnh hoàn thiện bản dịch, và chính Biện Cơ cũng là một trong chín vị đại đức được giao việc nhuận sắc bản dịch. Nếu “không thêm bớt được chữ nào” thì công việc của các vị này là gì?

[45] Các vị Đạo Sinh (道生), Tăng Triệu (僧肇), Đạo Dung (道融), Tăng Duệ (僧叡) đều là những học trò xuất sắc của ngài Cưu-ma-la-thập.

[46] Toàn bộ các đoạn văn từ “Có vị tiên sinh…” cho đến hết câu này có vẻ như được lắp ghép thêm vào rất gượng ép, hoàn toàn không phù hợp với mạch văn từ trước và ý nghĩa cũng không phù hợp, dường như được ai đó thêm vào để phê phán cách dịch thuật thoát ý, phóng khoáng; tán thành quan điểm phải dịch theo sát nguyên văn. Nội dung này hoàn toàn không thích hợp trong bài Ký tán.

[47] Tương tự như trên, phần này cũng là một nội dung khác biệt với phần nói về quan điểm dịch thuật Phạn Hán vừa nêu ra. Chúng tôi ngờ rằng đây là những phần riêng biệt đã được người đời sau lắp ghép vào nhau.

[48] Bản Hán văn là “志學 - chí học”, chỉ người được 15 tuổi.

[49] Bản Hán văn là “抽簪革 服 - trừu trâm cức phục” để chỉ việc xuất gia. “Trừu trâm” là bỏ không cài trâm, có nghĩa là cạo tóc; “cức phục” là vất bỏ y phục thế gian.

[50] Bản Hán văn là “匠石 - tượng thạch”, ở đây chỉ người thợ mộc rất khéo léo, giỏi nghề.

[51] Câu này ý nói không học hỏi, rèn luyện được gì cả, chỉ làm người vô tích sự. Đây chỉ là lời nói khiêm hạ, vì thời điểm ấy Biện Cơ đã nổi tiếng là người văn chương lưu loát nên mới được vua Đường Thái Tông chọn giao cho việc giúp ngài Huyền Trang biên soạn Tây vực ký. Biện Cơ cũng là một trong 9 vị đại đức được chọn làm công việc nhuận sắc trong dịch trường của ngài Huyền Trang.

[52] Tư Mã Tử Trường (司馬子長), tức là Tư Mã Thiên (司馬遷), tự Tử Trường (子長), là một trong những sử gia lớn của Trung Quốc, tác giả bộ Sử ký (史記), cũng gọi là Thái sử công thư (太史公書). Ông nối chức Thái Sử lệnh (quan chép sử triều Hán) của cha là Tư Mã Đàm (司馬談).

[53] Lời tựa sách Thái sử công thư có bảy phần, ở đây nói đến phần thứ tư, Tư Mã Thiên tự kể lại việc vâng lệnh cha kế thừa việc biên soạn bộ sử.

[54] Bản Hán văn là “胡戎 - Hồ Nhung”, theo quan điểm người Trung Hoa thời đó, dùng chữ “Nhung” để chỉ tất cả các dân tộc phía bắc bên ngoài biên giới Trung Hoa, chữ “Hồ” chỉ chung cho người Ấn Độ, như Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma cũng gọi là “Hồ tăng” (ông tăng người Hồ).

[55] Nguyên tác nêu nguyên tắc phân biệt này là: “書行者,親遊踐也;舉至 者,傳聞記也。 - Thư hành giả, thân du tiễn dã; cử chí giả, truyền văn ký dã.“

[56] Bản Hán văn là “逐日八荒,匪專夸父之力 - trục nhật bát hoang, phỉ chuyên Khoa Phụ chi lực”, dựa theo điển tích trong thần thoại. Khoa Phụ là vị thần khổng lồ có sức mạnh, vì muốn thay đổi thời gian nên cố sức chạy đuổi theo mặt trời để níu lại. Điển tích này được dùng để chỉ những việc phi thường, vượt ngoài khả năng bình thường của con người.

[57] Bản Hán văn là Bác Vọng (博望), tức chỉ Bác Vọng Hầu Trương Khiên (博望侯張騫), đã được nhắc đến trong Lời tựa của Kính Bá.

[58] Trung châu (中州), vùng đất ở giữa, chỉ kinh đô Trung quốc. Ở đây ý nói người dân được biết đến núi Linh Thứu của Ấn Độ giống như núi được dời về gần kinh đô.

[59] Bản Hán văn là “外囿 - ngoại hữu” (Bản Đại Chánh tạng chép nhầm là 外國 - ngoại quốc, không hợp nghĩa, tham khảo các bản Càn Long, Vĩnh Lạc nên sửa lại), chỉ khu vườn rộng có thể săn bắn giải trí, nằm ở bên ngoài kinh thành, dành cho hoàng gia thưởng ngoạn, nên cũng gọi là ngoại uyển, khác với nội uyển hay thượng uyển nằm ngay trong hoàng cung. Ở đây ý nói vườn Lộc Uyển của Ấn Độ nay được biết đến một cách gần gũi quen thuộc như khu vườn ngoại uyển bên ngoài kinh thành.

[60] Bản Hán văn là “殊俗 - thù tục”, nghĩa đen là phong tục khác biệt, chỉ chung các nước bên ngoài Trung Hoa.

    « Xem chương trước       « Sách này có 16 chương »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.137 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...