Biểu tấu thỉnh Hoàng đế viết bài tựa Tam tạng Thánh giáo
Huyền Trang[1]
Sa-môn Huyền Trang thưa rằng:
Huyền Trang này vào năm đầu niên hiệu Trinh Quán (627) đã đi sang Tây vực để cầu tạng Như Lai sâu kín nhiệm mầu, tìm thỉnh giáo pháp Thích-ca còn lưu lại.
Huyền Trang đã thỉnh được tổng cộng 657 bộ kinh, tất cả đều chở trên ngựa trắng.
[2] Năm Trinh Quán thứ 18 (644) mới về đến kinh thành,
[3] liền được ơn vua ban sắc chỉ, lệnh cho đến đạo trường Hoằng Phúc nghiên tầm phiên dịch. Nay đã dịch xong kinh Bồ Tát tạng và các kinh khác,
[4] lại mong được bệ hạ gia ân viết lời tựa kinh, ban bố sắc chỉ lưu hành khắp nước.
[5]
Đồng thời cũng đã soạn xong một bộ truyện về Tây Vực,
[6] tổng cộng 12 quyển, trân trọng nhờ xá nhân
[7] là Lý Kính Nhất cung kính dâng lên.
Lòng lo lắng khôn xiết, kính cẩn dâng biểu này lên Thánh thượng tỏ tường.
Nay kính tâu.
Sắc chỉ phúc đáp biểu tấu của Pháp sư Huyền Trang
Đường Thái Tông[8]
Trẫm xem kỹ biểu tấu, đã tỏ tường ý chỉ của Pháp sư.
Pháp sư từ lâu nêu cao chí nguyện, là bậc tu hành xuất thế mẫu mực. Chèo thuyền báu sang bờ giác ngộ, tìm đạo mầu mở rộng pháp môn. Hoằng dương chánh pháp lớn lao, gột sạch những mê lầm tội lỗi.
Nhờ đó nên vầng mây lành sắp ẩn, lại mở rộng ra che mát bốn phương; mặt trời trí tuệ gần khuất lấp, lại sáng soi tận cùng tám hướng.
Người có thể làm cho mây che mát, mặt trời tỏa sáng, há chẳng phải là Pháp sư đó sao?
Trẫm học vấn nông cạn, tâm ý thô vụng, đối với việc thế tục hãy còn mê tối, huống chi Phật pháp sâu xa mầu nhiệm, sao có thể ngửa trông mà suy lường? Thế nên việc thỉnh viết bài tựa kinh điển, thật không nằm trong chỗ hiểu biết của trẫm.
Lại báo cùng Pháp sư, sách Tây vực ký vừa soạn đó, trẫm sẽ đích thân xem kỹ.
Nay ban sắc chỉ.
[9]
Bài tựa Tam Tạng Thánh Giáo[10]
Đường Thái Tông
Từng nghe rằng:
Âm dương hiện rõ hình, trời che đất chở muôn loại chúng sinh; bốn mùa không dấu tích, nóng đi lạnh đến vạn vật âm thầm chuyển hóa. Cho nên, trộm ngắm luật trời, cúi soi gương đất, dù kẻ ngu cũng thấy ra manh mối; nhưng muốn thấu triệt âm dương thì hiền triết cũng khó đạt đến cùng.
Vì vậy, trời đất hàm chứa âm dương mà dễ nhận biết, là do hiện rõ hình; âm dương ở trong trời đất nhưng khó thấu triệt, bởi vì không dấu tích. Do đó biết rằng, hình tượng khi hiển bày rõ rệt thì dẫu kẻ ngu muội cũng không nhầm lẫn; dấu tích đã ẩn tàng không thấy thì dù bậc trí tuệ cũng vẫn mê lầm.
Huống chi, đạo Phật chuộng lẽ Không huyền diệu, nương nơi sâu kín, giữ đường tịch lặng; từ bi cứu giúp muôn loài, pháp tắc trùm khắp mười phương. Uy linh phát khởi, trên chẳng gì hơn; thần lực khắc chế, dưới không hạn cuộc. Giảng rộng ra thì khắp cùng vũ trụ, xét chi ly liền thấu triệt tóc tơ. Không diệt không sinh, trải qua muôn đời vẫn không xưa cỗi;
[11] lúc ẩn lúc hiện, vận trăm phúc truyền mãi đến nay.
[12]
Đạo nhiệm mầu ngưng kết lẽ cao xa, noi theo không cùng bờ mé; dòng nước pháp tịch nhiên sâu lắng, rót mãi vào tâm mà chẳng thấu nguồn.
[13] Cho nên biết rằng, lao xao lắm kẻ phàm ngu, nhỏ nhen bao người dung tục, gặp phải tông chỉ cao vời này sao có thể không nghi hoặc?
Thế nhưng, Giáo pháp khởi sinh, xây nền từ Tây Trúc, khởi truyền từ mộng hào quang triều Hán,
[14] soi sáng đến phương đông, lưu chuyển dòng từ. Thuở ứng thân Phật còn hiển hiện,
[15] lời chưa buông việc hóa độ đã thành; đời dẫu phân đương thường hiện thường,
[16] người người ngưỡng đức noi theo.
[17] Đến khi Phật thu hình về với chân thường, dung nghi không còn cõi thế. Thân vàng khuất dạng, hào quang thôi chiếu cõi đại thiên. Tranh tượng dù tô vẽ đẹp, chỉ luống bày 32 tướng tốt.
[18]
Nhưng từ đó đạo mầu lan rộng, cứu vớt muôn loài khỏi ba đường ác; Thánh giáo truyền xa, dẫn dắt chúng sinh cùng lên Thập địa.
[19] Chỉ có điều, giáo pháp chân chánh khó nương theo, thật không thể quy về một mối; học thuyết sai lầm dễ lôi cuốn, do đó mà tà chánh rối ren. Cho nên mới tranh nhau luận thuyết Có, Không, hoặc theo thói tục thị phi lẫn lộn. Đại thừa, Tiểu thừa cũng theo thời chợt suy chợt thịnh.
Nay có Pháp sư Huyền Trang, là người dẫn dắt những bậc xuất gia. Từ thuở nhỏ đã giữ lòng thành kính, trong tâm sớm ngộ lẽ
ba không;
[20] lớn lên khế hợp tinh thần, công hạnh trước bao gồm
bốn nhẫn.
[21] Gió lay rừng tùng, trăng soi bóng nước, không đủ so nét thanh tú tài hoa; sương móc cõi tiên, minh châu ngời chiếu, đâu sánh được vẻ sáng trong tươi nhuận. Cho nên, trí tuệ suốt thông không hệ lụy, suy lường việc lúc chưa thành; vượt thoát sáu trần, dứt bao ràng buộc, suốt cổ kim không ai sánh kịp.
Xoay tâm chiếu vào trong, lòng thương Chánh pháp dần suy; đau đáu chốn cửa huyền, buồn lo Kinh văn sai lệch. Lòng nghĩ muốn rộng suy chia chẻ, khai mở kiến văn xưa; dứt điều lệch lạc, tiếp nối chân truyền, chỉ bày cho hàng hậu học. Do vậy mà hướng tâm cõi tịnh,
[22] cất bước Tây du; vượt hiểm nguy đường xa vạn dặm, chống gậy trúc một mình thẳng tiến. Sớm đầy trời tuyết đổ, khuất lấp đường đi; chiều gió cát mịt mù, trời không biết hướng. Núi tiếp núi chập chùng muôn dặm, khoát mây trời dấn bước tiến lên; rét căm căm lại nóng nung người, đạp gió đội mưa về phía trước.
Lòng chí thành, gian lao xem nhẹ; nguyện thâm sâu, chí đạt mong cầu. Mười bảy năm liền trời Tây dạo khắp; nghiên tầm Chánh giáo, các nước đều qua. Thăm
Song lâm,
[23] viếng tám sông lớn,
[24] nếm mùi đạo, nuốt ngọn gió thiền. Về Lộc uyển,
[25] lên núi Thứu,
[26] ngắm dấu xưa, chiêm bái cảnh diệu kỳ.
Vâng lời cùng tột từ bậc thánh xưa, nhận pháp chân truyền nơi đấng hiền thiện; cứu xét sâu xa pháp môn huyền diệu, tinh thông cùng tận giáo nghĩa uyên thâm. Đạo lý Nhất thừa,
[27] Ngũ luật,
[28] chuyên cần cày xới giữa ruộng tâm; kinh văn Ba tạng,
[29] Tám tạng,
[30] tài giảng thuyết sóng biển tuôn từ miệng. Từ những nước trên đường đi qua, chọn lấy tinh yếu trong Ba tạng, hết thảy được 657 bộ, chuyển dịch lưu truyền rộng khắp Trung Hoa, tuyên xưng giáo nghĩa thù thắng. Dẫn mây lành xa tít cõi Tây, tưới mưa pháp xuống miền Đông độ. Thánh giáo đã từng khuyết thiếu, giờ đây khôi phục đủ đầy; chúng sinh vốn nhiều tội nghiệp, nay được phước lành to lớn biết bao. Tắt lửa dữ trong nhà đang cháy, cứu muôn loài thoát khỏi đường mê; ngăn sóng dục lắng dòng sông ái, đưa chúng sinh bờ giác cùng lên.
Cho nên biết rằng, do nhân ác nên nghiệp kéo xuống, nhờ việc lành duyên thiện nâng lên. Kéo xuống hoặc nâng lên, rốt cùng đều do chỗ nương tựa của người. Ví như cây quế non cao, chỉ sương tinh khiết thấm ướt cánh hoa; sen giữa hồ nước trong, dù bụi bặm không làm nhơ được lá. Nào phải sen vốn không dính bụi, quế tự tinh thuần; chỉ là do mọc giữa hồ trong nên bụi chẳng làm nhơ, sống ở non cao nên nước dơ không vấy bẩn. Xem như cây cỏ vô tri, nhưng do hoàn cảnh chung quanh tốt đẹp mà cũng thành tốt đẹp; huống chi loài người có tri thức, lẽ đâu không do nương tựa chỗ tốt lành mà trở nên hiền thiện?
Mong sao những Kinh điển này được lưu truyền mãi mãi, đồng như nhật nguyệt; phước lành lan khắp gần xa, dài lâu sánh cùng trời đất.
LỜI TỰA
Kính Bá
Thiết nghĩ, trong khoảng trời đất rộng vô cùng, mỗi nơi đều có sự hiểu biết khác nhau, nên chương Đàm thiên
[31] không xét được đến chỗ cùng cực, mà sách Quát địa
[32] sao có thể nêu rõ chỗ khởi nguyên? Do vậy nên biết rằng, làm sao có thể nói rõ được về những nơi sách vở chưa ghi chép đủ, sự giáo hóa của triều đình chưa truyền đến?
Nước Thiên Trúc vốn lập quốc đã lâu, các bậc thánh hiền nhiều phen giáo hóa, điều nhân nghĩa quen thành tập tục, nhưng các thời đại trước đây chưa từng biết đến, vì biên giới chia cách với Trung Hoa.
[33] Trong Sơn kinh
[34] đã chẳng thấy ghi, mà chương Vương hội
[35] cũng không hề chép. Bác Vọng mở đường,
[36] phí công vẫn mơ màng dấu trúc.
[37] Đường Côn Minh
[38] bí lối, lầm uổng sức đào hồ Thần Trì.
[39] Vậy nên điềm lành sao sáng hiện rõ ràng, mà đạo diệu huyền ngăn trở ngàn năm không đến,
[40] mộng thấy tượng vàng hào quang tỏa sáng,
[41] mà chánh đạo quang minh còn xa xôi vạn dặm.
Đến khi Thái Âm cầu đạo,
[42] Ma-đằng được thỉnh về Lạc Dương.
[43] Nhưng Kinh điển cất giữ trong thạch thất
[44] chưa có những uyên áo chốn Long cung;
[45] hình tượng vẽ ở Lương đài
[46] sao tả hết nét thiêng trên đỉnh Thứu?
[47]
Rồi từ đó về sau, thời thế chính sự nhiều lo âu, bọn hoạn quan tiếm quyền, làm tan vỡ thế vững vàng của Đông Kinh.
[48] Mẫu hậu chuyên quyền, triều đình chia rẽ tan nát;
[49] chính sự lụi tàn nơi Hàm, Lạc.
[50] Lửa đồn canh rực cháy nơi quan ải, bốn phương thành lũy cách ngăn, huống chi xứ [Thiên Trúc] ấy lại quá xa xôi.
[51]
Thế nhưng hiếm hoi vẫn có ít người, vì mưu lợi lớn nên tìm đến đó. Dù có đôi điều ghi chép còn lại, nhưng thật không đủ để hiểu hết xứ này, lại chỉ uổng công thu thập chuyện thần dị, không tìm cầu lẽ chân thật nhất như.
Cho đến đời Tùy, thống nhất thiên hạ, chấn chỉnh khôi phục biên cương, nhưng cũng chỉ xa trông biển tây, ngóng nhìn Đông Lạc
[52] mà không qua được. Biết rằng đã có nhiều người giương cờ ra khỏi ải Ngọc Môn,
[53] nhưng chẳng nghe có ai từng vượt qua Thông lĩnh,
[54] nói chi đến việc rong ruổi qua Tuyết sơn,
[55] đến được Long Trì
[56] dừng nghỉ trong chốc lát? Chỉ vì đức độ [nhà Tùy] không phủ khắp, uy phong cũng chẳng đến nơi xa.
Đại Đường ta từ khi được thiên hạ, mở mang bờ cõi, dựng nên nghiệp đế, quét sạch nhiễu nhương, sáng ngời vận nước. Công nghiệp ấy sánh ngang tạo hóa, sáng soi như mặt trời. Người người tái sinh, như vừa thoát loài lang sói; nhà nhà yên ổn, khác nào hoàn hồn khỏi nạn quỷ ma. Dân bốn phương về sống ở Cảo Nhai,
[57] đất xa xôi gồm thâu trong vương địa;
[58] gộp mười châu thành vườn cảnh, gom biển lớn như ao nhà.
[59] Ngũ đế so ra vẫn kém, Thượng hoàng chưa đủ sánh bằng.
[60]
Pháp sư [Huyền Trang] từ thuở bé đã thấm nhuần pháp Phật, hận chưa đến được Kỳ viên.
[61] Ôm lòng noi theo vết xưa, tâm luôn hướng về Lộc uyển. Phất áo ra đi hướng về đất tịnh, vốn thật lòng khát ngưỡng từ lâu. Gặp thuần phong dừng gót phương tây, đợi tiết lành quay về cố quốc.
Năm Trinh Quán thứ ba (629),
[62] [Ngài] chống tích trượng lên đường. Nhờ sức thiêng ngấm ngầm trợ giúp, nên đi qua những nơi tập tục sai khác, dù hiểm nguy đối mặt trùng trùng, nguy lại thành an; đường xa xôi bao nỗi hãi hùng, nương thần lực một lòng tiến bước, bao phen tưởng chết, nhưng chết rồi lại sống. Dù tiết trời nóng lạnh thất thường khắc nghiệt, cuối cùng cũng dần dần qua khỏi.
Đi tìm chân tướng, phải thấy được chỗ không thấy giữa khoảng có-không. Rộng khảo tinh vi, cần nghe thấu điều không nghe nơi bến bờ sinh-diệt. Biển tánh mênh mông, xóa sạch nghi nan; bến mê mờ mịt, mở bày diệu giác. Cho nên, [Pháp sư] thâu tóm muôn kinh, chẳng lời nào mà không thấu suốt; viếng thăm thánh tích, không nơi đâu không xem xét kỹ. Trải bao năm ngài đi qua khắp chốn, rồi mới quay về.
Tháng giêng niên hiệu [Trinh Quán] thứ 19 (645), ngài về đến Trường An. Kinh, luận mang về được 657 bộ, liền có chiếu chỉ [thỉnh ngài] phiên dịch.
Đích thân ngài [Huyền Trang] đã đi qua 110 nước, lại nghe biết thêm về 28 nước. Có những nước trước đây từng được ghi chép trong sách cổ, lại có những nước lần đầu tiên mới biết đến tên. Nơi nơi đều thấm nhuần hòa khí và ân trạch của triều đình, dập đầu cúi lạy quy thuận; mong ơn sửa trị, vượt núi cao về dâng cống vật. Kẻ vỗ tay mừng vui nơi cửa khuyết, người nhận quan phục vui họp thành đoàn.
[Khi nói về những nước này], sản vật, phong thổ khác nhau, tập tục, núi sông chẳng giống, nên việc xa thì khảo xét ở điển lệ quốc gia, việc gần ắt phải hỏi rõ nơi những bậc kỳ lão. Bao nhiêu đất nước xa xôi kỳ lạ mà đều như ở ngay trước mắt; chẳng cần nhọc công ghi chép sưu tra, nay đã viết rõ ràng trên lụa trắng, đặt tên là Đại Đường Tây vực ký, trọn bộ 12 quyển.
Thiết tưởng sách này ghi lời chép việc đều đã tinh tường, đôi câu thô thiển chỉ là mong thêm vào cho trọn đủ.
Bí Thư Trứ Tác Tá Lang là Kính Bá[63] viết lời tựa này.
LỜI TỰA
Vu Chí Ninh
Khi hào quang từ bạch hào rạng chiếu thế gian, cam lộ rưới khắp đại thiên;
[64] như gương vàng sáng soi rực rỡ, ngọn gió ấm lành thổi qua thiên hạ.
[65] Cho nên biết rằng, [đức Phật] thị hiện giữa Ba cõi, liền được xưng là bậc tôn quý trong thiên hạ; [Hoàng đế] ban chính sự sáng soi vỗ yên ngoài bốn hướng, rõ ràng gồm thâu cương vực lớn lao. Do vậy, sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn,
[66] giáo pháp lưu lại truyền về đất phương Đông;
[67] Hoàng đế mở mang chính sự rộng khắp, sáng soi cùng tận cõi trời Tây.
[68]
Nay có Tam Tạng Pháp Sư ở Đạo trường Từ Ân là Huyền Trang, họ Trần, tổ tiên vốn người Dĩnh Xuyên.
[69] Từ thuở Đế Hiên
[70] dựng nghiệp, chiếm đất Hoa Chử mà khơi nguồn;
[71] Đại Thuấn mở nước, khởi từ Lịch Sơn thành nghiệp cả. [Họ Trần là một trong] ba dòng tộc lớn
[72] vào triều Chu;
[73] sáu kế sách lớn [của Thừa tướng Trần Bình] làm rạng rỡ cơ nghiệp triều Hán.
[74] Chiếu thư dâng lên, rạng tỏa xa gần như trăng sáng; người hiền tụ hội, trời ban điềm lành sao hiện.
[75] Cháu con nối dòng như cá lội thảnh thơi biển lớn,
[76] như chim bằng lướt gió trời cao;
[77] giúp đời nhiều việc tốt đẹp, phúc lớn tụ nơi con cháu.
[78]
Pháp sư ra đời với muôn phước lành tụ hội, chất chứa nết nhu hòa, đượm nhuần đức hạnh, cội lành sâu vững sớm vươn thành cành lá tốt tươi; nguồn đạo thâm hậu, tánh linh ngày càng tăng trưởng. Khi ngài vừa sinh ra, nhật nguyệt đều hiện sắc lành. Thuở ấu thơ ngài sớm thông tuệ, tinh khiết như hoa lan, ngát thơm như hương quế. Đến tuổi trưởng thành, ngài am tường uyên bác cổ thư,
[79] vang danh khắp chốn,
[80] cửa quan nhiều nơi thỉnh mời.
[81] Ngài đã sớm phân biệt sự chân thật và giả hợp trong đời, sẵn giàu lòng từ bi trí tuệ; quyết tâm chứng ngộ chân lý nên thường thở dài xót xa khi nhìn cuộc đời ngắn ngủi giả tạm. Áo mão chức quyền,
[82] ngài xem như lưới rập buộc ràng trong cõi tục;
[83] chỉ có đạo Nhất thừa và thiền định tịch diệt
[84] mới thật là con đường xuất thế. Do đó, ngài xem thường và buông bỏ hết thảy việc trần thế, chỉ hướng tâm bàn về chỗ nhàn tịnh giải thoát.
Anh ngài là Pháp sư Trường Tiệp,
[85] cũng là rường cột Phật môn, hành trạng tự thân như long tượng,
[86] trí tuệ sánh ngang ngài Xá-lợi-phất
[87] năm xưa. Phong thái của ngài, trong triều ngoài nội đều kính ngưỡng; danh thơm lan xa, từ đồng hương cho đến người nước ngoài đều khâm phục. Tình sâu huynh đệ đã thương yêu, mối đạo hòa đồng thêm thắm thiết. Pháp sư chuyên cần thưa thỉnh, phút giây chưa từng bê trễ.
[88] Học phong tỏa sáng, ngài vượt lên hàng thượng thủ, thành bậc ưu tú giữa rừng Thiền. Đức hạnh khế hợp theo Trung đạo, hương thơm lan tỏa khắp Thiền môn. Đường tu tập giữ tâm bình đẳng, chín bộ kinh
[89] thông suốt am tường, học phong trùm khắp vùng Thôn Mộng.
[90] Khua chèo trong bến nước diệu huyền,
[91] xem thường bốn bộ Phệ-đà.
[92] Kể từ đó ngài ra đi viễn du khắp chốn, tham vấn nhiều nơi, trải bao mùa nóng lạnh, chưa thành học nghiệp quyết không dừng nghỉ.
[93]
Đến như dung nghi cử chỉ của ngài thì thật uy nghiêm rạng rỡ,
[94] soi chiếu tận nguồn tâm;
[95] khăn áo chỉnh tề,
[96] tinh thần càng thêm phấn phát.
[97] Nhân đó mà lời vàng Thế Tôn tạm khai diễn,
[98] đạo lực Pháp sư càng thêm tinh tường;
[99] giáo nghĩa được luận bàn,
[100] phá mê mờ rõ đường chánh kiến.
[101] Trước am tường thông thạo việc đời thường, sau mới rõ chỗ tinh vi huyền nhiệm;
[102] Ngài có tài năng học rộng nghe nhiều,
[103] nhưng giữ tâm rỗng rang thanh thoát ẩn dật.
[104] Ngày ở Hoàn Viên,
[105] từng biện bác tà sư khoác lác;
[106] khi sang đất Thục,
[107] càng tỏ rõ sa-môn chánh kiến.
[108] Danh thơm lan tỏa gần xa, người người đều nói:
“Xưa từng nghe họ Tuân sinh tám trang tuấn kiệt,[109] nay mới thấy Trần gia có hai bậc kỳ tài.”[110] [Lại nói:]
“Vùng Nhữ châu, sông Dĩnh vốn xuất sinh nhiều nhân kiệt.”[111] Những lời này quả đúng lắm thay!
Pháp Sư từ ấu thơ cho đến trưởng thành luôn lưu tâm cầu tìm chân lý. Lúc bấy giờ, những bậc thầy danh tiếng đều bám chấp vào quan điểm bộ phái, theo ngọn bỏ gốc, nhặt hoa quên trái,
[112] dẫn đến học thuật khác biệt Bắc Nam, tranh biện đúng sai phân chia phe nhóm, nói mãi điều ấy càng thêm ngậm ngùi. Lại sợ rằng [kinh văn] chuyển dịch lẫn lộn không rõ, không thể chọn lọc cứu xét. Ngài muốn tìm hiểu rốt ráo lời Phật dạy,
[113] muốn được nhìn thấy kinh văn Đại thừa.
[114]
Với đức hạnh vượt trội hơn người, [thanh danh] đang thời thịnh phát, ngài chống tích trượng, phất áo lên đường, quay lưng rời khỏi Trường An, thẳng tiến phương xa,
[115] theo hướng Thông Lĩnh
[116] mà dấn bước. Vượt sông dài đất rộng, gian khó hiểm nguy khôn cùng. Đường Bác Vọng so ra còn ngắn,
[117] nẻo Pháp Hiển trở nên nhỏ hẹp.
[118]
Ngài đi qua mỗi nước đều để tâm nghiên cứu ngôn ngữ địa phương, tìm cầu học hỏi những triết thuyết huyền diệu sâu xa, khảo cùng hiểu tận. Do vậy, nhiều phen tranh luận nêu rõ chánh tà, biện tài lừng danh Thiên Trúc, rồi mới mang Kinh điển Phạn văn quay về Trung quốc.
[119]
Thái Tông Văn Hoàng Đế,
[120] bậc Kim luân [Thánh vương]
[121] ngự trên ngôi cao tôn quý, đã nhiều năm chờ đợi tin lành, liền vội thỉnh [Pháp sư] vào cung gặp riêng.
[122] Hoàng đế say mê với những hiểu biết của Pháp sư đến nỗi chuyên tâm lắng nghe không chút xao nhãng.
[123] [Từ đó,] hoàng đế đích thân ban chiếu, sai nội quan
[124] liên tục vấn an. Nhân sự thỉnh cầu của Pháp sư, Hoàng đế liền đích thân viết lời tựa cho Tam Tạng Thánh Giáo,
[125] gồm 780 chữ. Đức vua hiện nay,
[126] xưa kia khi còn là thái tử
[127] có soạn bài Thuật Thánh Ký gồm 579 chữ, mở rộng ra bến bờ huyền diệu, nêu cao ý chỉ xưng dương. Ví như không có việc [Pháp sư] soi ánh đạo đến tận Kê Lâm,
[128] nêu danh thơm ngút ngàn đỉnh Thứu, làm sao có thể có được những áng văn chương tuyệt trần kỳ mỹ đến như thế?
[Pháp sư] phụng chiếu phiên dịch [kinh văn] Phạn ngữ gồm 657 bộ. [Trên đường thỉnh kinh, Ngài đã] quan sát được nhiều tục lệ khác biệt nơi phương xa, những phong hóa đặc thù miền biên viễn, các thứ sản vật riêng của từng vùng, cách tổ chức đời sống của từng dân tộc, cho đến những nơi lịch pháp [Đại Đường] được sử dụng, chính sự [Đại Đường] có ảnh hưởng đến, [nay gồm hết những điều như thế] để soạn sách Đại Đường Tây vực ký, chép ra thành 12 quyển. [Sách này] biên khảo từ nhiều nguồn uyên áo sâu xa, thu thập thẩm xét tra cứu rõ ràng. Bao nhiêu câu chữ truyền lại muôn đời đều có đủ nơi đây.
Thượng thư Tả bộc xạ Yên quốc công
Vu Chí Ninh[129] viết lời tựa này
LỜI TỰA
Pháp sư Huyền Trang[130]
Xem qua sử sách các triều vua, xét cùng dữ kiện trong từng nghiệp đế, từ thuở ban đầu Phục Hy
[131] dựng nghiệp,
[132] Hoàng Đế
[133] giữ ngôi,
[134] phân chia thứ bậc quan dân, định rõ biên cương bờ cõi, cho đến khi vua Nghiêu
[135] nhận lấy mệnh trời, chính sự tỏa soi đến bốn phương ngoài; vua Thuấn mở mang bờ cõi, đức độ nhuần khắp chín châu.
[136] Từ ấy đến nay, [những gì tốt đẹp] chỉ còn là sách vở ghi chép truyền lại, ngưỡng vọng sự tu sửa của đời trước, luống nghe những lời ghi trong sử ký, sao có thể sánh với việc [được sống vào] thời đạo đức thịnh trị, vận nước an lành [như hiện nay]?
Đại Đường ta trên thuận mệnh trời, tùy thời nắm giữ kỷ cương, thống nhất sáu phương một mối,
[137] đức sáng an dân; tiếp nối Tam hoàng thánh đế, chính sự chiếu soi.
[138] Phong hóa sâu xa tràn khắp chốn, gió lành an ổn tỏa muôn phương. [Đức lớn của vua] che chở muôn dân như trời như đất, thấm nhuần bờ cõi như gió như mưa. Cho nên các nước phía đông phải vào triều cống, các nước phía tây cũng về thần phục.
[139] Lập nên nghiệp lớn truyền lại muôn đời; dẹp tan phản loạn xây nền chính sự. Vậy nên [sự nghiệp] vượt hẳn những vua đời trước, rộng lớn bao trùm các triều đại xưa. Cả nước cùng chung chữ viết, thống nhất phép tắc,
[140] thịnh trị tột cùng, công nghiệp như thần thánh. Không ghi chép lại thì chẳng lấy gì để ngợi khen xưng tán chính sự lớn lao, chẳng rộng truyền khắp nơi thì làm sao sáng tỏ được công nghiệp hưng thịnh?
Những nơi Huyền Trang này đi đến, tìm hiểu phong thổ, tuy chưa có sự khảo cứu phân biệt phong tục tập quán, vẫn tin rằng [Hoàng đế]
[141] vượt trội hơn Tam hoàng, Ngũ đế.
[142] Vạn loại sinh linh
[143] đều nhờ ân trạch [của vua], người người ngợi ca xưng tán.
[144] [Huyền Trang] đi từ kinh đô Đại Đường
[145] đến các nước bên Thiên Trúc, qua những vùng xa xôi hoang vắng, những nơi tục lệ khác thường, những vùng hẻo lánh cách trở, những đất nước xa lạ, đâu đâu cũng thấy dùng lịch pháp Đại Đường,
[146] đều nhận chịu phong hóa triều đình; nơi nơi đều ngợi ca chiến tích võ công, chốn chốn cùng xưng tụng văn nghiệp đức độ [Hoàng đế]. Xem khắp sách vở, thật chưa từng được thấy; xét cùng sử liệu, chẳng có người thứ hai.
[147] Nếu không có bài tựa này, làm sao ghi lại được sự giáo hóa khắp cùng [của Hoàng đế]? Vậy nay xin dựa theo những chỗ đã được thấy nghe mà thuật lại.
Nay nói về thế giới Ta-bà.
[148] Mỗi đại thiên thế giới
[149] có một vị Phật giáo hóa, hiện tại có một mặt trời và một mặt trăng soi chiếu bốn châu thiên hạ.
[150] Trong mỗi đại thiên thế giới ấy, đều có chư Phật Thế Tôn thương xót giáo hóa, thị hiện đản sinh và nhập diệt, dẫn dắt chúng sinh cả phàm lẫn thánh. Núi Tu-di
[151] do bốn món báu hợp thành,
[152] nằm giữa biển lớn, bên trên kim luân,
[153] là nơi mặt trời, mặt trăng thay nhau chiếu sáng, cũng là nơi chư thiên dạo chơi. Tất cả có bảy ngọn núi, bảy vùng biển, nối tiếp thành vòng.
[154] Nước biển ở phạm vi bên trong
[155] thì có đủ tám công đức,
[156] còn vùng biển bên ngoài bảy núi đều là nước mặn. Giữa biển mặn lại có những vùng đất cư trú được, cả thảy có bốn châu. Phía đông là châu Tỳ-đề-ha,
[157] phía nam là châu Thiệm-bộ,
[158] phía tây là châu Cù-đà-ni,
[159] phía bắc là châu Câu-lô.
[160] Vị Kim luân vương cai trị khắp bốn châu thiên hạ; vị Ngân luân vương chỉ cai trị ba châu, trừ ra châu Câu-lô phương bắc; vị Đồng luân vương chỉ cai trị hai châu, trừ ra châu Câu-lô phương bắc và châu Cù-đà-ni phương tây; vị Thiết luân vương chỉ cai trị duy nhất châu Thiệm-bộ ở phương nam.
Khi các vị luân vương lên ngôi báu thì tùy theo phước đức chiêu cảm liền có báu vật là bánh xe lớn từ trên hư không hiện đến. [Phước đức khác nhau nên] sự chiêu cảm khác nhau, chia ra bốn loại là kim luân (bánh xe vàng), ngân luân (bánh xe bạc), đồng luân (bánh xe đồng), thiết luân (bánh xe sắt). Bờ cõi cai trị cũng khác biệt tương ứng là bốn châu, ba châu, hai châu và một châu. Nhân nơi điềm lành có các loại bánh xe báu khác nhau hiện ra mà thành tên gọi [kim luân, ngân luân, đồng luân hay thiết luân].
Trong phạm vi của châu Thiệm-bộ có hồ A-na-bà-đáp-đa
[161] ở phía nam Hương sơn,
[162] phía bắc Đại Tuyết sơn,
[163] chu vi 800 dặm (khoảng 258 km), bờ hồ có vàng, bạc, lưu ly, pha lê làm đẹp, có cát vàng khắp nơi, nước hồ trong xanh, sáng như mặt gương. Có vị Bồ Tát ở địa vị thứ tám
[164] dùng nguyện lực hóa làm Long vương ẩn mình trong hồ này tạo ra nguồn nước trong mát để cung cấp cho [chúng sinh trong] châu Thiệm-bộ. Cho nên, ở mặt phía đông của hồ, từ nơi miệng trâu bạc phát nguyên sông Hằng,
[165] chảy quanh hồ một vòng rồi xuôi vào biển phía đông nam. Ở mặt phía nam của hồ, từ nơi miệng voi vàng phát nguyên sông Tín-độ,
[166] chảy quanh hồ một vòng rồi xuôi vào biển phía tây nam. Ở mặt phía tây của hồ, từ nơi miệng ngựa lưu ly phát nguyên sông Phược-sô,
[167] chảy quanh hồ một vòng rồi xuôi vào biển phía tây bắc. Ở mặt phía bắc của hồ, từ nơi miệng sư tử lưu ly phát nguyên sông Tỉ-đa,
[168] chảy quanh hồ một vòng rồi xuôi vào biển phía đông bắc. Hoặc có nơi nói dòng chảy ngầm dưới đất, lộ ra ở Thạch sơn, chính là từ sông Tỉ-đa này, thành nguồn sông [Hoàng hà] ở Trung quốc.
[169]
Vào thời không có luân vương xuất thế thì châu Thiệm-bộ có bốn vị chủ trì cai quản. Tượng chủ cai quản phía nam, nơi khí hậu nóng ẩm thích hợp với loài voi. Bảo chủ cai quản phía tây, nơi giáp biển có rất nhiều báu vật. Mã chủ cai quản phía bắc, nơi khí hậu mát lạnh thích hợp với loài ngựa. Nhân chủ cai quản phía đông, nơi khí hậu ôn hòa có nhiều người sinh sống.
Do vậy, trong lãnh thổ của Tượng chủ thì chúng sinh tánh tình nóng nảy nhưng ham học, đặc biệt giỏi các dị thuật. Y phục thì dùng vải quấn quanh người, để trần vai bên phải, đầu bịt khăn, tóc trên đỉnh đầu kết thành một búi, còn lại bỏ rủ xuống bốn bên. Họ sống tập trung thành xóm ấp, nhà cửa có lầu, gác.
Trong lãnh thổ của Bảo chủ thì chúng sinh không có lễ nghĩa, xem trọng tài vật, tiền của. Y phục thì mặc áo ngắn, bỏ vạt về bên trái, cắt tóc ngắn, để râu dài. Họ sống trong thành quách, bằng nguồn lợi từ việc buôn bán.
Tập tục trong lãnh thổ của Mã chủ thì hung ác, tàn bạo, tánh hay giết hại. Họ sống trong những lều mái vòm có màn che dệt bằng lông thú, sống du mục thành đoàn đi khắp đó đây.
[170]
Nơi lãnh thổ của Nhân chủ thì phong tục có trí tuệ, khéo léo, được soi sáng bởi nhân nghĩa. Con người đội mũ, thắt đai lưng, vạt áo bỏ về bên phải. Xe cộ và y phục được phân biệt theo thứ bậc, giai cấp. Họ sống định cư, ít khi dời đổi chỗ ở, cũng có hạng người chuyên việc kinh doanh.
Phong tục trong lãnh thổ của Tượng chủ, Bảo chủ và Mã chủ đều xem trọng phương đông;
[171] nhà được mở cửa quay về hướng đông và mỗi sáng sớm người ta thường hướng về phương đông lễ bái. Còn ở lãnh thổ của Nhân chủ thì xem phương nam là tôn quý.
[172]
Tập tục các địa phương khác biệt phong phú, trên đây chỉ nêu đại lược. Như xét về những lễ nghi giữa vua chúa với quần thần, người trên với kẻ dưới, những phép tắc văn minh trong ứng xử, sinh hoạt, thì trong vùng cai trị của Nhân chủ là trọn vẹn đầy đủ, không còn gì thiếu sót. Nhưng nếu nói về giáo pháp để làm trong sạch tâm ý, gột rửa phiền não, thoát khỏi vòng sinh tử, thì ở vùng cai trị của Tượng chủ có sự vượt trội hơn. Những điều này đều được ghi chép trong kinh sách, thư tịch, cũng như được biểu hiện rõ trong phong tục của mỗi địa phương.
Xem khắp sách vở xưa nay, khảo cứu kỹ những điều nghe thấy, thì biết rằng đức Phật ra đời ở phương tây, giáo pháp được truyền sang phương đông, nhưng khi phiên dịch [kinh điển] thì cách phát âm bị sai lệch, các phương ngữ bị hiểu lầm. Phát âm sai lệch thì mất đi ý nghĩa, phương ngữ bị hiểu lầm thì lý lẽ mâu thuẫn. Cho nên [Khổng tử từng] nói rằng:
“Phải hiểu đúng từ ngữ.”[173] Điều quan trọng nhất là không có sai lầm, mâu thuẫn.
Tánh khí con người có cứng rắn hoặc nhu hòa khác nhau, nên tiếng nói phát âm không giống nhau. Điều này cũng do nơi phong thổ, khí hậu và tập tục mỗi vùng khác nhau tạo ra. Sông núi, sản vật, phong tục tập quán khác biệt, những điều này trong lãnh thổ của Nhân chủ đều được ghi chép rõ ràng vào quốc sử. Trong lãnh thổ của Mã chủ và Bảo chủ thì tập tục cũng được ghi chép trong sử sách và các văn thư hành chánh, có thể nói qua sơ lược. Nhưng trong lãnh thổ của Tượng chủ thì những việc thời xưa không được biết rõ. Có sách nói rằng do vùng ấy khí hậu nóng ẩm [không giữ được sách xưa]; có sách lại cho rằng do vùng ấy chỉ chuộng tập tục nhân từ, tuy có thư tịch hiện còn cũng không thể nêu ra tường tận.
Phải chăng cũng là do đạo trời có ẩn có hiện, cho nên việc trong đời cũng biến đổi vần xoay? Do đây mà biết rằng, muốn cho những nước chư hầu xa xôi như thế đều mong muốn quy phục thiên triều, mong ân trạch về chầu thiên tử, vượt hiểm nguy đến tận ải Ngọc Môn,
[174] dâng vật lạ lạy chào nơi cửa khuyết, thật là chuyện khó khăn biết bao! Vì vậy nên [Huyền Trang] trên đường viễn du [cầu thỉnh Phật kinh], có đôi lúc nhàn rỗi liền cố gắng ghi chép lại những phong thổ, tập quán [của những xứ ấy].
[175]
Kể từ sau rặng Hắc Lĩnh
[176] trở đi, đâu đâu cũng đều theo phong tục người Hồ.
[177] Tuy đều là gốc người Nhung, nhưng họ sống thành từng vùng riêng biệt, phân chia biên giới lãnh thổ rõ rệt, đa phần đều là cư dân bản địa từ lâu đời. Họ xây dựng thành quách, sinh sống bằng trồng trọt ruộng vườn và chăn nuôi gia súc.
Tính khí người dân xem trọng tiền bạc tài vật, tập tục xem nhẹ nhân nghĩa. Hôn nhân không có lễ nghi, người trên kẻ dưới không phân thứ bậc. Phụ nữ được xem trọng, nam giới có địa vị thấp. Người chết thì thiêu xác, tang lễ không định số ngày, có các tập tục thích mặt, cắt tai, cắt tóc, xé áo, giết súc vật để cúng tế linh hồn người chết. Ngày vui mừng, có việc tốt lành thì mặc y phục màu trắng; ngày đau buồn, gặp việc chẳng lành thì mặc y phục màu đen.
Ở đây chỉ lược nói qua phong tục tập quán chung, còn những việc thuộc về hành chánh hay quy chế khác biệt sẽ trình bày riêng khi đề cập đến từng địa phương. Những phong tục, tập quán, ngôn ngữ của Ấn Độ có liên quan sẽ được trình bày ở phần sau.
_________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Thỉnh ngự chế kinh tự biểu (請御制經序表), trích từ Quảng Hoằng Minh tập (廣弘明集 - 30 quyển), quyển 22. ĐCT, T52, 2103, tr.258a, d.9 - d.17.
[2] Chở về trên ngựa trắng: Hán văn là “載於白馬 - tải ư bạch mã”, nghĩa là đặt trên ngựa trắng để chở về. Tương truyền vào đời Hán, Thái Âm đi Ấn Độ, khi về đã dùng 2 con ngựa trắng để chở kinh điển. Ngựa về đến Lạc Dương thì kiệt sức mà chết, Hán Minh Đế cho xây chùa vào năm 68 TCN, đặt tên là Bạch Mã để tưởng nhớ. Cho nên hình ảnh “ngựa trắng chở kinh” ở đây có thể hiểu theo 2 cách. Thứ nhất là chỉ nói theo cách biểu trưng, liên hệ với điển tích này để nêu sự tôn kính. Thứ hai là cũng có thể vua Đường đã thực sự chọn ngựa trắng để đón kinh điển về. Theo Pháp sư truyện thì số ngựa dùng chở kinh là 20 con, không quá nhiều đối với khả năng của một vị vua. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng “tải ư Bạch Mã” là chở kinh về chùa Bạch Mã. Nhưng chùa Bạch Mã cách xa Trường An khoảng hơn 400 km, không hợp lý; và không có tư liệu nào cho thấy việc dịch kinh trong đời ngài Huyền Trang có liên quan gì đến chùa Bạch Mã.
[3] Ngài Huyền Trang về đến Trường An vào đầu năm Trinh Quán thứ 19 (645). Ở đây nói năm thứ 18 (644), về đến kinh ấp (京邑) tức là kinh thành Trường An. Điều này vẫn chưa hiểu được.
[4] Bản Hán văn là “菩薩藏等經 - Bồ Tát tạng đẳng kinh”. Theo Pháp sư truyện thì lần dâng biểu này, ngài Huyền Trang và đồng sự đã hoàn tất 5 bộ kinh, 58 quyển, bao gồm: Đại Bồ Tát Tạng Kinh (大菩薩藏經) - 20 quyển, Phật Địa Kinh (佛地經) - 1 quyển, Lục Môn Đà La Ni Kinh (六門陀羅尼經) - 1 quyển, Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖教論) - 20 quyển, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma Tạp Tập Luận (大乘阿毘達磨雜集論) - 16 quyển. (ĐCT, T50, 2053, tr.254a, d.24 - d.27)
[5] Lưu hành khắp nước: bản Hán văn dùng “phương bố trung hạ” (方布中夏), chữ Hạ trước đây dùng chỉ Trung Hoa, nên ở đây hiểu là lưu hành khắp nước Trung Hoa.
[6] Bản Hán văn là “西域傳 一 部 - Tây Vực truyện nhất bộ”, tức là chỉ sách Tây vực ký.
[7] Bản Hán văn là “舍人 - xá nhân”, có thể là một chức quan hay người phụ giúp việc văn thư; ở đây có thể là người được triều đình giao phụ giúp công việc cho ngài Huyền Trang ở chùa Hoằng Phúc vào lúc đó.
[8] Sắc đáp Huyền Trang Pháp sư tiền biểu (勅答玄奘法師前表), Quảng Hoằng Minh tập (廣弘明集), quyển 22 (ĐCT, T52, 2103, tr.258a, d.18 - d.25.
[9] Nội dung sắc chỉ phúc đáp này đã từ chối việc viết lời tựa cho Kinh tạng, nhưng sau đó ngài Huyền Trang lại tiếp tục dâng biểu thỉnh cầu một lần nữa và Đường Thái Tông chấp thuận ngự bút viết Tam tạng Thánh giáo tự.
[10] Tam tạng Thánh giáo tự (三藏聖教序), trích từ Quảng Hoằng Minh tập (廣弘明集) quyển 22, ĐCT, T52, 2103, tr.258a, d.27 - tr.258c, d.16.
[11] Bản Hán văn nói “vô diệt vô sinh, lịch thiên kiếp nhi bất cổ” (無滅無生, 歷千劫而不古). Vì Phật pháp “không diệt không sinh” nên không trở nên già cỗi, suy tàn, thay đổi qua thời gian.
[12] Bản Hán văn nói “nhược ẩn nhược hiện, vận bách phúc nhi trường kim” (若隱若顯,運百福而長今). Vận trăm phúc chỉ khả năng thành Phật của hết thảy chúng sanh nếu biết tu tập theo Phật pháp, vì trăm phúc (bách phúc hay bách phúc trang nghiêm (百福莊嚴) chỉ sự tu tập thành tựu viên mãn quả Phật, 32 tướng tốt của Phật mỗi tướng đều do 100 phúc lành mà thành, nhờ tu tập tất cả các nghiệp lành qua vô lượng kiếp mới có được.
[13] Bản Hán văn là “pháp lưu đam tịch, ấp chi mạc trắc kỳ nguyên” (法流湛寂,挹之莫測其源). Giáo pháp sâu xa ví như dòng nước sâu lắng; chữ “ấp” có nghĩa là đưa nước từ nơi này sang nơi khác, ở đây chỉ việc vận dụng giáo pháp để tu tập.
[14] Mộng hào quang triều Hán: Hán Minh Đế nằm mộng thấy tượng người vàng hào quang tỏa sáng trên đầu nhưng không biết là vị thần gì. Theo lời bàn của quần thần, ông cử một phái đoàn 12 người, gồm có các ông Thái Âm, Vương Tuân, Tần Cảnh... vượt ngàn dặm sang Ấn Độ để thỉnh tượng Phật và kinh sách về. Theo sử sách thì đây là lần đầu tiên tượng Phật và Kinh điển được truyền đến Trung Hoa.
[15] Thuở ứng thân Phật hiển hiện: Bản Hán văn là “phân hình phân tích” (分形分跡), chỉ việc đức Phật thị hiện hình tích để giáo hóa. Theo kinh Pháp hoa, việc đức Phật Thích-ca-mâu-ni đản sinh chỉ là sự thị hiện hình tích nhằm hóa độ chúng sanh, vì thật ra ngài đã thành Phật từ lâu xa vô lượng kiếp trước.
[16] Đương thường hiện thường (當常現常): gọi chung là nhị thường (二常), chỉ 2 quan điểm khác biệt về tánh Phật. Thuyết đương thường cho rằng tánh Phật thuộc về tương lai, do tu tập đạt đến. Thuyết hiện thường cho rằng tánh Phật là vốn có, ngay trong hiện tại đã đầy đủ. Hai thuyết này phủ nhận lẫn nhau, bên nào cũng tự cho mình đúng, tạo thành sự tranh cãi.
[17] Ngưỡng đức noi theo: Đường Thái Tông trong câu này cho rằng, tuy có sự phân chia bất đồng về quan điểm, nhưng bất kể là thuyết nào, người học đạo đều ngưỡng mộ bậc đức hạnh để noi theo.
[18] Luống bày 32 tướng tốt: Bản Hán văn là “không đoan tứ bát chi tướng” (空端四八之相), ý nói 32 tướng tốt của Phật trong tranh tượng chỉ là hình thức, không sao thể hiện được vẻ trang nghiêm thực sự của Phật.
[19] Thập địa (十地): mười địa vị tu chứng, nằm trong 52 giai vị của hàng Bồ Tát.
[20]Tam không (三空): ngã không, pháp không và câu không (ngã pháp đều không).
[21]Bốn nhẫn: theo kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn thì Bồ Tát có 4 hạnh nhẫn nhục giúp vượt qua mọi chướng duyên, đối với sự hủy nhục hay xâm hại của người khác có thể an nhiên không sinh tâm sân hận, đối trước gian nguy khổ nạn vẫn kiên cố không dao động tín tâm. Bốn hạnh nhẫn nhục này bao gồm: 1. Vô sinh pháp nhẫn; 2. Vô diệt nhẫn; 3. Nhân duy-ên nhẫn; 4. Vô trụ nhẫn.
[22] Cõi tịnh: Bản Hán văn là tịnh độ (淨土), chỉ Ấn Độ, vì là nơi Phật đản sinh nên gọi là cõi tịnh.
[23] Song lâm được dùng chỉ rừng Sa-la, nơi đức Phật nhập Niết-bàn bên dưới những cây sa-la mọc sóng đôi.
[24] Tám sông lớn: được đề cập trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 3, phẩm Thọ mạng. Đức Phật nói với ngài Ca-diếp: “Như có tám con sông lớn là Hằng hà, Diêm-ma-la, Tát-la, A-lỵ-la-bạt-đề, Ma-ha, Tân-đầu, Bác-xoa và Tất-đà. Tám con sông lớn ấy với các sông con, thảy đều chảy vào biển cả.” Ở đây được dùng với ý nói rằng ngài Huyền Trang đã đi khắp đất nước Ấn Độ.
[25] Lộc uyển: hay Vườn Nai, là nơi đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên với giáo lý Tứ diệu đế.
[26] Núi Thứu: hay Linh Thứu, là nơi đức Phật từng thuyết giảng rất nhiều kinh điển quan trọng. Núi ở phía đông bắc thành Vương xá, nước Ma-yết-đà, miền Trung Ấn Độ. Vì hình dáng núi này giống như đầu con chim thứu (kên kên) và trong núi cũng có nhiều chim thứu nên gọi tên là Linh Thứu.
[27] Nhất thừa, hay Phật thừa, chỉ giáo pháp được đề cập trong kinh Pháp Hoa, không còn phân biệt Đại thừa, Tiểu thừa, vì nhắm đến sự giải thoát rốt ráo, vượt trên mọi giáo nghĩa phương tiện, quyền biến.
[28] Có thể ở đây đề cập đến 5 bộ luật phổ biến trong Phật giáo: 1. Luật Tứ phần của Đàm-vô-đức bộ; 2. Luật Thập tụng của Tát-bà-đa bộ; 3. Luật Ngũ phần của Di-sa-tắc bộ. 4. Luật Giải thoát giới của Ca-diếp-di bộ. 5. Luật Tăng-kỳ của Ma-ha Tăng-kỳ bộ.
[29] Ba tạng: Tam khiếp (三篋) chỉ Tam tạng Thánh giáo gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng.
[30] Tám tạng: Bát tạng (八藏), chỉ tám phần Thánh giáo gồm: Thai hoá tạng (胎化藏), Trung ấm tạng (中陰藏), Ma-ha-diễn phương đẳng tạng (摩訶衍方等藏), Giới luật tạng (戒律藏), Thập trú tạng (十住藏), Tạp tạng (雜藏), Kim cương tạng (金剛藏) và Phật tạng (佛藏). Ở đây muốn nói chung đến tất cả kinh điển.
[31] Đàm thiên, tức thiên Đàm thiên (談天篇), là một chương trong sách của Trâu Diễn soạn vào khoảng thế kỷ 4 - 3 trước Công nguyên. Sách Ngũ kinh thông nghĩa nói: “Bản thiên diệc ngôn địa hình, nhi cải viết Đàm Thiên, nhân Trâu thị nhĩ.” (本篇亦言地形,而胲曰談天,因鄒氏耳.) (Chương sách này cũng nói về hình thể đất đai, nhưng gọi lệch đi là Đàm thiên, do ý của họ Trâu.) Có thể đoán đây là quyển sách ghi chép địa lý, đất đai ở các nơi.
[32] Sách Quát địa, tức Quát địa chí (括地志), được soạn vào thời Đường Thái Tông, gồm 555 quyển, ghi chép về tất cả các địa danh, đơn vị hành chánh trực thuộc triều đình được biết đến vào thời đó.
[33] Trong bản Hán văn là Trung thổ (中土), là một trong các danh xưng để chỉ Trung Hoa vào thời đó, cũng như Trung quốc, Trung nguyên...
[34] Sơn kinh, tức Sơn kinh thiên (山經篇), là một chương trong sách Sơn hải kinh (山海經). Sách này thu thập ghi chép truyền thuyết dân gian liên quan đến địa hình, theo hướng để giải thích sự hình thành của mỗi vùng đất. Các học giả hiện nay cho rằng đó có thể là môn địa lý học thời cổ.
[35] Vương hội (王會), một chương trong Dật Chu thư (逸周書), cũng gọi là Chu thư (周書), có lời chú: “Đại hội chư hầu tứ di dã. - 大會諸侯四夷也” Do đây có thể đoán là nội dung sách ghi chép về chư hầu và các nước phiên thuộc nhà Chu.
[36] Hán văn dùng “Bác Vọng tạc không” (博望鑿空). Bác Vọng, tức Bác Vọng Hầu Trương Khiên (博望侯張騫), sống vào khoảng 164-114 trước Công nguyên. Ông là nhà thám hiểm nổi tiếng, từng đi Tây Vực 2 lần trong cương vị sứ thần, tuy thất bại nhưng có nhiều khám phá, đồng thời khởi đầu cho sự mở mang ngoại giao của Trung Hoa về hướng tây. Con đường tơ lụa sau này được hình thành dựa trên những khám phá ban đầu của ông. Do công lớn, ông được Hán Vũ Đế phong tước Bác Vọng Hầu. Hơn nữa, tất cả những sứ giả được phái đi sứ các nước Tây Vực về sau này đều được gọi là Bác Vọng Hầu để tưởng nhớ ông. Sách Sử ký gọi công trạng của ông là “tạc không” (鑿空) nghĩa là mở đường cho thông suốt.
[37] Dấu trúc: tức khu rừng trúc dưới chân núi Cung Lai, điểm cuối cùng nơi Trương Khiên và cộng sự nhìn thấy rồi phải quay về vì gặp nhiều cản trở.
[38] Côn Minh: tức con đường Côn Minh hướng về phía tây Trung Hoa, vào thời đó chưa thông đến Ấn Độ.
[39] Đào hồ Thần Trì: Hán Vũ Đế nuôi mộng chinh phục các nước về hướng tây nhưng con đường Côn Minh không vượt qua được dãy núi về hướng tây nam. Ông liền cho đào hồ Thần Trì để tập luyện thủy quân phục vụ cuộc chiến, nhưng cuối cùng việc làm này hoàn toàn vô ích.
[40] Sách Lịch đại Tam bảo kỷ (歷代三寶紀) chép rằng vào năm thứ 10 đời Chu Trang Vương, tức Lỗ Trang Công năm thứ 7 (686 trước Công nguyên), mùa hạ, tháng 4, vào đêm Tân Mão, bầu trời sáng rực không nhìn thấy sao, đến giữa đêm thì thấy sao rơi như mưa, chính là thời điểm đức Như Lai đản sinh. (Xem ĐCT, T49, 2034, tr.23a, d.13-15.) Về niên đại, theo kết quả khảo cứu hiện nay thì ghi chép này không chính xác, nhưng nhờ đây chúng ta biết rằng đã có một truyền thuyết như vậy về điềm lành tại Trung Hoa lúc đức Phật đản sinh. Câu văn này nói rằng tuy đã thấy hiện rõ điềm lành từ lúc Phật đản sinh, nhưng phải mất cả ngàn năm sau đạo Phật mới được truyền đến Trung Hoa.
[41] Đây nói việc Hán Minh Đế nằm mộng thấy tượng người vàng hào quang tỏa sáng trên đầu nhưng không biết là vị thần gì. Theo lời bàn của quần thần, ông cử một phái đoàn 12 người, gồm có các ông Thái Âm, Vương Tuân, Tần Cảnh ... sang Ấn Độ để thỉnh tượng Phật và kinh sách về. Theo sử sách thì đây là lần đầu tiên tượng Phật và Kinh điển được truyền đến Trung Hoa. Việc này xảy ra trong thời gian trị vì của Hán Minh Đế, từ năm 57 đến năm 75.
[42] Thái Âm cầu đạo: tức là việc Thái Âm được cử đi trong phái đoàn sang Ấn Độ thỉnh tượng Phật và Kinh điển.
[43] Khi từ Ấn Độ quay về, Thái Âm và phái đoàn cùng đi đã thỉnh được 2 vị tăng Ấn Độ là Ca-diếp Ma-đằng (S. Kāśyapa-mātaṅga, H. 迦葉摩騰) và Trúc Pháp Lan (S. Dharmaratna, H. 竺法蘭) cùng về thành Lạc Dương.
[44] Kinh điển cất giữ trong thạch thất: tức là căn thạch thất (bằng đá) do Hán Minh Đế xây dựng trong chùa Bạch Mã tại kinh đô, để cất giữ những kinh điển được phái đoàn Thái Âm thỉnh về.
[45] Ý nói khi đó chưa thỉnh được các kinh Đại thừa, vì theo truyền thuyết thì phần uyên áo nhất của kinh điển Đại thừa được cất giữ ở Long Cung.
[46] Hình tượng vẽ ở Lương đài: Lương đài tức Thanh Lương đài. Đoàn của Thái Âm cũng thỉnh về được một bức họa tượng Phật Thích-ca, Hán Minh Đế cho người vẽ lại rồi tôn trí ở Thanh Lương đài.
[47] Trong bản Hán văn là “cực Thứu phong chi mỹ” (極鷲峯之美), nghĩa là vẻ đẹp cùng cực của đỉnh núi Thứu. Núi Thứu tức Linh thứu sơn, là nơi đức Phật thuyết giáng rất nhiều Kinh điển. Câu trước đã dùng “uyên áo chốn Long cung” để chỉ giáo pháp Đại thừa, nên câu này mượn hình tượng núi Thứu là để chỉ vẻ đẹp của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, ý nói tuy đã có tranh tượng vẽ Phật nhưng đó chưa phải là nét đẹp cùng cực của Phật.
[48] Ở đây chỉ kinh đô Lạc Dương vào thời đó.
[49] Thật ra đời Hán Minh Đế rồi đến Hán Chương Đế vẫn còn khá ổn định về chính sự. Do câu này mà biết ở đây đang nói đến thời Hán Hòa Đế (88-106), vì “mẫu hậu chuyên quyền” ở đây là Đậu Hoàng Hậu của Hán Chương Đế. Lúc Hòa Đế lên ngôi chỉ mới 10 tuổi, Đậu Thái hậu nắm quyền nhiếp chính trong khi bà thật ra chỉ là mẹ nuôi của Hòa Đế. Thái hậu thâu tóm quyền hành chuyển dần sang những người thuộc dòng họ Đậu. Trước nguy cơ bị cướp ngôi, người anh của Hòa Đế là Lưu Khánh cùng với hoạn quan Trịnh Chủng liền hỗ trợ cho Hòa Đế mở cuộc thanh trừng, giành lại quyền cai trị thực sự. Triều đình chia rẽ chính là nói giai đoạn này.
[50] Hàm, Lạc: tức Hàm Dương và Lạc Dương.
[51] Ở đây nêu một phần những lý do khiến cho thời điểm đó không có người sang Ấn Độ thỉnh kinh.
[52] Đông Lạc (東雒): có dị bản viết đông ly (東離). Chúng tôi chưa rõ ở đây muốn nói chính xác địa danh nào, nhưng rất có thể là Đam-ma-lật-để - 耽摩栗底 (Tamralipti), được nhắc đến trong quyển 10 của sách này. Đây là một trong những cửa ngõ vào Ấn Độ mà cả hai ngài Pháp Hiển (409) và Nghĩa Tịnh (673) đều lần lượt sử dụng. Do vậy, “biển tây” có thể hàm ý chỉ đường biển sang Ấn Độ.
[53] Ải Ngọc Môn: tức Ngọc Môn quan (玉門關), cửa ải cuối cùng ra khỏi Trung Hoa vào thời đó để hướng về Ấn Độ và cũng là một điểm mốc quan trọng trên Con Đường Tơ Lụa. Thật ra đây là một cái đèo (đèo Ngọc Môn) nhưng là nơi thiết lập điểm cuối cùng trong tuyến phòng thủ phía tây của Trung Hoa vào thời đó.
[54] Thông Lĩnh (葱嶺): tức là dãy núi Pamir, chạy dài qua lãnh thổ của nhiều quốc gia như Tajikistan, Kyrgyz-stan, Afghanistan, Pakistan...
[55] Tuyết sơn (雪山): tức dãy Hy-mã-lạp sơn (Himalaya), biên giới của Ấn Độ.
[56] Long trì (龍池): Hồ Rồng, tức hồ Muchalinda nằm trong khuôn viên Bồ-đề Đạo tràng ngày nay. Có người cho rằng đây là nói đến Đại Long Trì trên ngọn Thông lĩnh nhưng chúng tôi thấy không thích hợp.
[57] Dân bốn phương về sống ở Cảo Nhai: Nhà Hán cho lập khu Cảo Nhai bên trong cửa thành phía nam của Trường An, làm nơi cư trú cho những người nước ngoài di dân đến. Nhà Đường củng cố và phát triển chính sách nhập cư này.
[58] Đất xa xôi gồm thâu trong vương địa: trong bản Hán văn là “yểm hà hoang ư dư địa” (掩遐荒於輿地), tức là bao phủ, gồm thâu các vùng đất xa xôi vào trong bản đồ đất nước, dưới quyền cai trị của vua Đường, hàm ý ca ngợi sự mở mang lãnh thổ của triều Đại Đường.
[59] Gộp mười châu thành vườn cảnh, gom biển lớn như ao nhà: trong bản Hán văn là “uyển thập châu nhi trì hoàn hải” (苑十洲而池環海). Thập châu chỉ toàn bộ lãnh thổ, “uyển thập châu” là xem cả 10 châu như khu vườn. Hoàn hải chỉ vùng biển bao quanh, cũng dùng tứ hải (四海), trì hoàn hải là xem biển lớn như cái ao nhỏ. Trọn câu này ca ngợi hoàng đế Đại Đường có khả năng kiểm soát được hết thảy đất đai, vùng biển cũng giống như vườn cảnh, ao nhà.
[60] Ngũ đế so ra vẫn kém, Thượng hoàng chưa đủ sánh cùng: trong bản Hán văn là “tiểu Ngũ đế nhi bỉ Thượng hoàng” (小五帝而鄙上皇). Ngũ Đế chỉ 5 vị hoàng đế được xưng tụng thời thượng cổ, bao gồm: Hoàng đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, “tiểu Ngũ đế” là so ra Ngũ đế còn nhỏ hơn, kém hơn. Thượng hoàng chỉ vua Phục Hy thời thái cổ, “bỉ Thượng hoàng” là Thượng hoàng cũng chỉ hèn mọn, đáng xem thường.
[61] Tức Tinh xá Kỳ Viên (S. Jetavana-anāthapiṇḍasyārāma, H. 祇園精舍), cũng gọi là tinh xá Kỳ Hoàn (祇洹精舍), trong kinh thường gọi đủ là Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên, nằm về phía nam thành Xá-vệ, nước Kiêu-tất-la, thuộc Trung Ấn Độ.
[62] Pháp sư truyện cũng nói ngài Huyền Trang ra đi tháng 8 năm 629. (Xem ĐCT, T 50, 2053, tr.222c, d.15-16.) Theo khảo cứu của chúng tôi đã trình bày trong phần Dẫn nhập thì đúng ra là Trinh Quán nguyên niên, tức là năm 627.
[63] Kính Bá (敬播): không rõ năm sinh, mất năm 663, người Bồ Châu, Hà Đông, đỗ đầu tiến sĩ năm 627, là học giả, sử gia quan trọng đời Đường, tham gia biên soạn rất nhiều bộ sử trong thời này như Tùy sử, Tấn thư, Hán thư, Cao Tổ thực lục, Thái Tông thực lục... Ông giữ chức Bí thư Trứ tác Tá lang (祕書著作佐郎), là chức quan trợ giúp Trứ tác lang (著作郎), người đứng đầu Trứ tác cục (著作局), trực thuộc cơ quan Bí thư sảnh (祕書省) của triều đình thời nhà Đường, là cơ quan phụ trách biên soạn lịch sử, văn thư và các tài liệu quan trọng của triều đình. Bài tựa này chỉ xuất hiện trong một số bản in, trong khi đa số chỉ có bài tựa thứ hai mà không có bài tựa này. Một điểm đặc biệt là tuy nội dung giới thiệu về Đại Đường Tây vực ký và xưng tụng ngài Huyền Trang, nhưng không có chỗ nào nhắc đến tên ngài. Do vậy chúng tôi đã phải thêm tên Huyền Trang vào ở một vài nơi để người đọc dễ nhận hiểu.
[64] Trong bản Hán văn là “ngọc hào lưu chiếu, cam lộ sái vu đại thiên - 玉毫流照,甘露灑于大千”. Ngọc hào tức bạch hào (白毫), một trong 32 tướng tốt của đức Phật, là sợi lông trắng cuộn lại hình xoắn ốc ở khoảng giữa 2 chân mày. Từ tướng bạch hào này, đức Phật phóng hào quang soi khắp thế giới trong các pháp hội quan trọng. Cam lộ được dùng thay cho cam lộ pháp vũ (甘露法雨) để chỉ việc giáo pháp của Phật như nước cam lộ mưa xuống khắp thế giới đại thiên, giúp chúng sanh an vui thoát khổ. Trọn câu này xưng tán sự thuyết pháp giáo hóa của đức Phật trong khắp thế giới đại thiên.
[65] Trong bản Hán văn là “kim kính dương huy, huân phong bị vu hữu tiệt - 金鏡揚暉,薰風被于有截”. Kim kính (gương vàng) là ẩn dụ để ca tụng chính sách cai trị tốt đẹp của triều đình. Huân phong là ngọn gió nhẹ ấm áp, ví với thời thái bình thịnh trị, người dân được an ổn. Hữu tiệt được lấy ý từ phần Trường phát (長發) trong Kinh Thi, ca ngợi việc nhà Thương dẹp hết loạn đảng, nên được dùng để chỉ chung thiên hạ thống nhất. Trọn câu này ca ngợi Đường Thái Tông là bậc minh quân, chính sách cai trị tốt đẹp giúp thiên hạ thái bình thịnh trị.
[66] Thế Tôn nhập Niết-bàn: Trong bản Hán văn là “tuệ nhật luân ảnh - 慧日淪影”. Tuệ nhật là “mặt trời trí tuệ”, chỉ đức Phật. Luân ảnh là mất đi, vắng bóng, chỉ việc đức Phật nhập Niết-bàn.
[67] Ý nói pháp Phật được truyền đến Trung Hoa, vì Trung Hoa nằm về phía đông của Ấn Độ.
[68] Ý nói ảnh hưởng triều đình nhà Đường mở rộng đến các nước Tây Vực.
[69] Dĩnh Xuyên, một quận thuộc tỉnh Hà Nam.
[70] Đế Hiên (帝軒), tức Hiên Viên Hoàng Đế (軒轅黃帝), một vị vua thời cổ đại trong thần thoại Trung Hoa, được ước định vào khoảng năm 2697 trước Tây lịch, cũng thường gọi là Hoàng Đế (黃帝), nhưng không phải chữ hoàng đế (皇帝) là danh xưng các vị vua đời sau.
[71] Đoạn này nói họ Trần của ngài Huyền Trang là dòng dõi con cháu đời sau của Đế Hiên, phát khởi từ đây.
[72] Ba dòng tộc lớn: Trong bản Hán văn là “tam khác - 三恪“, chữ khác (恪) dùng thay chữ tính (姓) với ý cung kính để chỉ ba dòng họ lớn: họ Trần, họ Kỷ và họ Tống, hậu duệ của Đế Hiên, được Chu Vũ Vương cắt đất phong hầu.
[73] Vào đời nhà Chu: Trong bản Hán văn là “Cơ tải - 姬載“, những năm thuộc về họ Cơ, tức đời nhà Chu, vì các vua nhà Chu là họ Cơ.
[74] Đoạn này đưa ra các chi tiết liên quan để xưng tụng xuất thân họ Trần của Pháp sư Huyền Trang. Thừa tướng Trần Bình từng đề xuất 6 kế sách lớn, Hán Cao tổ áp dụng liền thu phục được các nước chư hầu.
[75] Hai câu này tiếp ý những câu trên, ca ngợi công đức tổ tiên họ Trần của Pháp sư. Về chuyện “người hiền tụ hội” là nói chuyện con cháu của Trần Thực (陳實 - 104-187), hiệu Trọng Cung, sống vào đời Đông Hán, là người nổi tiếng đức độ. Sau khi ông qua đời, con cháu đều là những bậc hiền tài, thường hội họp ở Hồ Tây thuộc Hứa Châu, nhân đó trên trời xuất hiện sao lành (đức tinh). Quan Thái sử khi ấy phát hiện liền tâu lên vua: “Trong khoảng năm trăm dặm quanh đây có người hiền tụ họp nên trời hiện điềm này.” Hán Linh Đế cho người tra xét tìm hiểu mới biết việc con cháu Trần Thực hội họp, nhân đó khen thưởng và cho dựng tại Tây Hồ ngôi đền gọi là Đức Tinh Đình (德星亭), bên trong ban một tấm biển đề bốn chữ: Đức Tinh Tụ Hội (德星聚會).
[76] Cá lội thảnh thơi biển lớn: Trong bản Hán văn là “túng hác biền lân - 縱壑駢鱗“, cá thoát khỏi hồ rãnh [chật hẹp], song song bơi lội [ở nơi rộng thoáng].
[77] Chim bằng lướt gió trời cao: Trong bản Hán văn là “bồi phong tề dực - 培風齊翼“, chim dang rộng cánh thuận theo cơn gió.
[78] Cả đoạn văn này giới thiệu lai lịch dòng tộc của Pháp sư với ý xưng tụng rằng tổ tiên là những người tài đức lỗi lạc nên cháu con được thừa hưởng phúc đức lớn, cũng có rất nhiều người tài đức, tạo thành một dòng họ lớn.
[79] Am tường uyên bác cổ thư: Trong bản Hán văn là “nghệ đàn phần tố - 藝殫墳素“, nghệ đàn (藝殫) là tinh thông, thấu suốt tất cả, phần tố (墳素) là chỉ chung các loại sách cổ. Cách dùng này lấy ý từ thuật ngữ “tam phần ngũ điển”, trong đó tam phần là các sách của Tam hoàng thời cổ đại, còn ngũ điển là các sách của Ngũ đế.
[80] Vang danh khắp chốn: Trong bản Hán văn là “cửu cao tái hưởng - 九皐載響“, lấy ý từ Kinh Thi, Tiểu nhã: “Hạc minh cửu cao, thanh văn ư thiên - 鶴鳴九皐,聲聞於天“, hạc kêu trên chín tầng cao, tiếng vọng thấu trời. Hàm ý nói danh tiếng của ngài Huyền Trang truyền đi khắp chốn, đâu đâu cũng nghe biết.
[81] Cửa quan nhiều nơi thỉnh mời: Trong bản Hán văn là “ngũ phủ giao tích - 五府交辟“. Ngũ phủ chỉ 5 phủ quan chính yếu là Thừa tướng, Ngự sử, Xa Kỵ Tướng quân, Tiền Tướng quân và Hậu Tướng quân. Ở đây không dùng với nghĩa cụ thể mà để chỉ chung việc quan chức khắp nơi vì mến tài đều muốn thỉnh mời ngài Huyền Trang.
[82] Cân đai áo mão chức quyền: Trong bản Hán văn là “chu phất, tử anh - 朱紱紫纓“, chu phất là sợi dây đỏ để treo cái ấn, tử anh là giải mũ màu tía, đều là những biểu tượng của vị quan đang cầm quyền.
[83] Cõi tục: Trong bản Hán văn là “hữu giới - 有界“, chỉ chung tất cả các cảnh giới hiện hữu bao gồm ba cõi là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
[84] Đạo Nhất thừa và thiền định tịch diệt: Trong bản Hán văn là “bảo xa, đan chẩm - 寶車丹枕“ là lấy ý từ kinh Pháp Hoa, bảo xa (xe báu) được dùng để dụ cho Phật thừa hay Nhất thừa, đan chẩm (gối đỏ) dùng để dụ cho thiền định tịch diệt đưa đến giải thoát.
[85] Đây là người anh thứ của ngài Huyền Trang, thế danh Trần Tố (陳素).
[86] Bậc anh tài kiệt xuất, tu hành đạo cao đức trọng, có khả năng giáo hóa, hoằng truyền Phật pháp, ví như con voi chúa trong loài voi.
[87] Xá-lợi-phất: Trong bản Hán văn là “Thu Lộ - 鶖鷺“ là cách dịch theo ý nghĩa tên ngài Xá-lợi-phất (舍利弗 - Śāriputra), một trong mười vị Đại đệ tử của đức Phật, được đức Phật ngợi khen là Trí tuệ đệ nhất.
[88] Phút giây chưa từng bê trễ: Trong bản Hán văn là “phân âm mĩ khí - 分陰靡棄“. Chữ âm (陰) là bóng mặt trời, ở đây dùng chỉ thời gian. Cách dùng phân âm (分陰) cũng tương tự như “thốn âm” (寸陰 - tấc bóng), đều để chỉ một quãng thời gian. Thật ra cách dùng “thốn âm” là thông dụng hơn, nhưng ở đây cố ý dùng “phân âm” để nhấn mạnh một quãng thời gian dù rất ngắn cũng không bao giờ bị Pháp sư bỏ phí (mĩ khí).
[89] Chín bộ kinh: tức 12 bộ kinh theo quan điểm Đại thừa trừ đi 3 bộ là Thọ ký, Vô vấn tự thuyết và Phương quảng. Tuy nói là “bộ kinh” nhưng thực ra thì đây là cách phân loại các nhóm kinh điển theo cùng một chủ đề, mỗi nhóm như vậy có rất nhiều bộ kinh. Câu này hàm ý lúc chưa đi thỉnh kinh, sở học của ngài Huyền Trang lúc đó chủ yếu là các kinh điển thuộc Tiểu thừa, vì chỉ trong Đại thừa mới có đủ Thập nhị phần giáo hay 12 bộ kinh.
[90] Thôn Mộng (吞夢) là tên gọi thời cổ chỉ vùng đất nay là khu vực Lưỡng Hồ (两湖), tức bao gồm cả Hồ Nam và Hồ Bắc.
[91] Khua chèo trong bến nước diệu huyền: Trong bản Hán văn là “cổ duệ huyền tân - 鼓枻玄津”, một ẩn dụ để chỉ sự tu học mạnh mẽ tinh tấn của ngài Huyền Trang thấm đẫm trong tinh thần Phật pháp huyền diệu.
[92] Bốn bộ Phệ-đà: Trong bản Hán văn là “tứ vi - 四韋“để chỉ bốn bộ Phệ-đà (吠陀), cổ thư của Ấn Độ, tức là kinh điển của đạo Bà-la-môn; ở đây nên hiểu chung là ngoại giáo.
[93] Chưa thành học nghiệp quyết không dừng nghỉ: Trong bản Hán văn là “công ký thành hỹ, năng diệc tất hỹ - 功既成矣,能亦畢矣”. Dịch sát nghĩa là “sự việc đã thành thì có thể hoàn tất”. Chúng tôi dịch thoát ý để thể hiện quyết tâm của ngài Huyền Trang.
[94] Trong bản Hán văn là cụm từ “thái sơ nhật nguyệt - 泰初日月“. Sách Thế thuyết tân ngữ (世説新語), quyển 5, giải thích: “Người thời bấy giờ nhìn thấy Hạ Huyền Thái Sơ hình dung cử chỉ sáng tỏ như nhật nguyệt nên ghi nhớ.” Đây là nói chuyện về Hạ Hầu Huyền (夏侯玄), tên tự là Thái Sơ (太初). Do vậy, bản văn này dùng “Thái Sơ nhật nguyệt” để ngợi khen dung mạo của ngài Huyền Trang.
[95] Soi chiếu tận nguồn tâm: Trong bản Hán văn là “chúc diệu linh đài - 燭曜靈臺“.Trang tử (莊子) - Canh Tang Sở (庚桑楚) có câu: “Bất khả nội ư linh đài...” Thành Huyền Anh giải thích: “Linh đài giả, tâm dã.” (Linh đài, tức là tâm.) Ở đây ý nói dung mạo và tâm hồn ngài Huyền Trang đều tương hợp, soi sáng lẫn nhau.
[96] Khăn áo chỉnh tề: Trong bản Hán văn là “Tử Vân bàn duyệt - 子雲鞶悅“. Tử Vân là một đại học giả thời Đông Hán, hiệu Dương Hùng. Ông viết sách Pháp ngôn (法言), chương Quả kiến (寡見) có câu: “Kim chi học dã, phi độc vi chi hoa tảo, hựu tùng nhi tú kỳ bàn duyệt.” Bàn (鞶) là mang đai áo, duyệt (悅) là đội khăn. Cụm từ này lấy ý từ đây để nói việc trang phục của người có học phải nghiêm trang, chuẩn mực.
[97] Tinh thần càng thêm phấn phát: Trong bản Hán văn là “phát huy thần phủ - 發揮神府“. Thần phủ (神府), đồng nghĩa như linh phủ (靈府), chỉ phần tinh thần. Câu này nối tiếp ý câu trên để ngợi khen ngài Huyền Trang từ y phục đến nội tâm đều nghiêm trang cao thượng.
[98] Trong bản Hán văn là “kim văn tạm khải - 金文暫啟“. Kim văn (金文) được dùng để chỉ lời Phật dạy.
[99] Trong bản Hán văn là “trữ thu giá nhi vân xu - 佇秋駕而雲趨“. Thu giá (秋駕) dùng chỉ công phu tu tập gian khó, đạo lực huân tu lâu ngày. Vân xu (雲趨) cũng nói là vân xu vụ phó (雲趨鶩赴) để chỉ sự quy tụ về từ khắp muôn nơi. Câu này ca ngợi công phu tu tập của ngài Huyền Trang.
[100] Giáo nghĩa được luận bàn: Trong bản Hán văn là “ngọc bính tài huy - 玉柄纔撝“. Ngọc bính (玉柄) được dùng để chỉ cây phất trần mà các luận giả thời xưa thường cầm khi tranh biện, do vậy cụm từ này cũng được dùng để nói về sự tranh luận.
[101] Phá mê mờ rõ đường chánh kiến: Trong bản Hán văn là “phi vụ thị nhi ba thuộc - 披霧市而波屬”. Vụ thị (霧市) là dựa theo chuyện tích trong Hậu Hán thư, quyển 36, truyện Trương Giai, có phép thuật làm sương mù trong vòng 5 dặm, khiến người ta không biết đường đi. Do vậy, ở đây chỉ sự mê mờ, mù mịt không rõ chính kiến. Chữ ba thuộc (波屬) là hình dung sóng vỗ dập dồn liên tiếp, ý nói khả năng biện luận của ngài Huyền Trang thao thao bất tuyệt. Trọn câu này ca tụng khả năng biện luận phá trừ tà kiến của ngài Huyền Trang.
[102] Trong bản Hán văn là: “Nhược hội trác luân chi chỉ, do tri bái sắt chi vi. - 若會斵輪之旨,猶知拜瑟之微。” Trác luân (斵輪) có nghĩa đen chỉ người thợ giỏi cưa gỗ đóng xe, nghĩa bóng chỉ kinh nghiệm, kỹ năng thông thạo về một việc gì. Bái sắt chi vi (拜瑟之微), chỗ tinh vi sắc sảo của người làm ra cây đàn sắt (loại có 25 dây). Trọn câu ý nói nếu không am tường những việc tầm thường, làm sao có thể đạt được diệu lý.
[103] Tài năng học rộng nghe nhiều: Trong bản Hán văn là “tả bình chi đa văn - 瀉瓶之多聞“. Tả bình (瀉瓶) là rót nước vào bình. Câu này lấy ý từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 40, đức Phật nói về ngài A-nan: “Mười hai bộ kinh do ta thuyết giảng, [A-nan] mỗi khi được nghe thì không [bao giờ quên sót phải] hỏi lại, ví như người ta rót nước từ bình này sang bình khác [không chút hao hớt].” Do vậy, ở đây dùng để nói về tài năng của ngài Huyền Trang có thể “nghe đâu nhớ đó” không hề quên sót.
[104] Trong bản Hán văn là “Phiếm hư chu nhi độc viễn - 泛虛舟而獨遠“. Hư chu (虛舟) là chiếc thuyền trống không có người, ở đây dùng chỉ tâm địa rỗng rang, phóng khoáng, điềm đạm. Độc viễn (獨遠) là sống tách biệt, ẩn dật, không chạy theo các sinh hoạt thế tục.
[105] Hoàn Viên (轘轅): tức núi Hoàn Viên (轘轅山), ngày nay thuộc huyện Yển Sư, tỉnh Hà Nam. Đây là quê của ngài Huyền Trang
[106] Biện bác tà sư khoác lác: Trong bản Hán văn là “tỏa diệp phúc chi khoa - 摧鍱腹之誇“. Diệp phúc (鍱腹) là dùng lá đồng mỏng nịt quanh bụng, lấy ý từ Trí độ luận, quyển 26, kể chuyện có kẻ ngoại đạo tự khoe khoang là bụng chứa đựng hết thảy trí tuệ trong thiên hạ nên sợ vỡ ra, phải dùng lá đồng nịt quanh để bảo vệ. Ở đây dùng để chỉ kẻ khoe khoang khoác lác.
[107] Đất Thục: Trong bản Hán văn là “Tinh Lạc chi hương - 并絡之鄉“, Tinh Lạc (并絡) là tên sao, dùng chỉ đất Thục. Theo Từ Ân truyện (慈恩傳), quyển 1, thì niên hiệu Đại Nghiệp năm cuối (618) ngài Huyền Trang có đến đất Thục để cầu học.
[108] Sa-môn chánh kiến: Trong bản Hán văn là “phù bôi chi dị - 浮桮之異“. Chữ phù bôi (浮桮) là cái chén nổi, dựa theo Cao tăng truyện, quyển 10, kể chuyện vào đời Lưu Tống có vị tăng mỗi khi qua sông thì thả cái chén gỗ xuống rồi bước lên đó mà lướt qua sông. Do vậy người ta gọi vị tăng đi du hóa đó đây là “phù bôi hóa”, và chữ “phù bôi” được dùng để chỉ chung các vị tăng sĩ, sa-môn. Cụm từ này dịch sát nghĩa là “chỗ khác biệt của sa-môn”, chúng tôi dịch thoát cho rõ ý trong văn cảnh.
[109] Họ Tuân sinh tám trang tuấn kiệt: Trong bản Hán văn là “Tuân thị bát long - 荀氏八 龍“, tám con rồng nhà họ Tuân. Đây là nói theo sách Hậu Hán thư, quyển 62, truyện Tuân Thục, kể rằng: “Thời Đông Hán, Tuân Thục sinh được tám người con, thảy đều có danh tiếng, người đương thời gọi là Bát long (8 con rồng).”
[110] Trần gia có hai bậc kỳ tài: Trong bản Hán văn là “Trần môn song ký - 陳門雙驥“. Ký (驥) là loài ngựa ký, mỗi ngày đi đến ngàn dặm, được dùng để ví với người tài giỏi. Cả hai câu dùng hình tượng rồng, ngựa ký, đều là để chỉ những người có tài năng kiệt xuất.
[111] Sách Tam quốc chí, quyển 14, truyện Quách gia có câu: “Nhữ, Dĩnh đa kỳ sĩ. - 汝,頴多奇士.“ Nhữ (汝) là Nhữ Châu (汝州), Dĩnh (頴) là Dĩnh hà (頴河), sông Dĩnh, đều thuộc đất Hà Nam, quê hương ngài Huyền Trang.
[112] Theo ngọn bỏ gốc, nhặt hoa quên trái: Trong bản Hán văn là “xu mạt vong bản, trích hoa quyên thực - 趨末忘本,摭華捐實“. Ý nói các bậc thầy thời ấy do cố chấp vào quan điểm bộ phái của mình mà không thấy được chỗ cốt lõi của Phật pháp, chú ý nơi phương tiện hành trì mà không thấy được mục đích tối hậu.
[113] Lời Phật dạy: Trong bản Hán văn là “hương tượng chi văn - 香象之文“ để chỉ kinh điển hay lời Phật dạy.
[114] Nhìn thấy kinh văn Đại thừa: Trong bản Hán văn là “Long cung chi mục - 龍宮之目“ là cách nói để chỉ kinh văn Đại thừa, do tương truyền các bản kinh văn Đại thừa được lưu giữ ở cung điện của Long vương.
[115] Quay lưng rời khỏi Trường An, thẳng tiến phương xa: Trong bản Hán văn là “bội Huyền Bá nhi diên vọng - 背玄灞而延望“. Huyền Bá (玄灞) tức Bá Thủy (灞水), sông Bá, ở đây được dùng để chỉ Trường An.
[116] Thông Lĩnh: tên núi, Trong bản Hán văn là Thông sơn (葱山), nhưng các nơi khác trong sách đều dùng Thông Lĩnh.
[117] Đường Bác Vọng so ra còn ngắn: Trong bản Hán văn là “lậu Bác Vọng chi phi viễn - 陋博望之非遠“. Bác Vọng (博望) là chỉ Bác Vọng Hầu Trương Khiên (博望侯張騫), người đã từng nỗ lực hết sức khai phá đường đi về hướng tây Trung Hoa nhưng chưa vượt qua được ngọn Thông Lĩnh. Câu này ý nói ngài Huyền Trang đi được xa hơn Bác Vọng Hầu.
[118] Nẻo Pháp Hiển trở nên nhỏ hẹp: Trong bản Hán văn là “xuy Pháp Hiển chi vi cục - 嗤法顯之為局“. Ngài Pháp Hiển (法顯 - 337-422) lên đường đi Ấn Độ vào năm 399 và quay về bằng đường biển vào năm 412, được ghi nhận đã đi qua hơn 30 nước. Câu này ý nói chuyến đi của ngài Huyền Trang trải qua nhiều nước trên một diện tích rộng lớn hơn.
[119] Rồi mới mang Kinh điển Phạn văn quay về Trung quốc: Trong bản Hán văn là “văn truyền bối diệp, duật quy Chấn-đán - 文傳貝葉,聿歸振旦”. Văn truyền bối diệp là văn ghi trên lá bối, chỉ kinh điển bằng tiếng Phạn; Chấn-đán chỉ Trung quốc, vì trong Phạn ngữ ngày xưa Ấn Độ gọi Trung quốc là Cinasthana, phiên âm ngược về tiếng Trung quốc thành Chấn-đán.
[120] Chỉ Đường Thái Tông (627-650), tức Lý Thế Dân.
[121] Kim luân (金輪): trong kinh điển Phật giáo nói rằng, vị thánh vương ra đời cai trị khắp thiên hạ gọi là Chuyển luân Thánh vương, tùy theo phước đức mà sẽ hiện ra bánh xe vàng (kim luân), bằng bạc (ngân luân), bằng đồng (đồng luân) hoặc bằng sắt (thiết luân). Do đó, vị Thánh vương có phước đức lớn nhất là Kim luân Thánh vương. Tác giả dùng khái niệm này để ca ngợi Đường Thái Tông là bậc thánh vương.
[122] Trong bản Hán văn là “thanh bồ - 青蒲“ tức là phòng riêng của nhà vua trong cung.
[123] Bản Hán văn là chữ “tiền tất - 前膝“ để mô tả việc này. Đây là lấy ý từ sách Sử Ký, phần Thương Quân liệt truyện có chép: “Vệ Ưởng vào chầu Hiếu Công, vua lắng nghe Vệ Ưởng nói đến nỗi không tự biết đầu gối đã ra khỏi chiếu.” Do điển tích này, “tiền tất” được dùng để chỉ sự chú tâm hoàn toàn vào việc gì.
[124] Trong bản Hán văn là “trung sứ - 中使“ để chỉ các sứ giả của vua từ trong nội cung, thường là các quan thái giám. Từ ngữ này ít người biết đến nên chúng tôi thay bằng chữ “nội quan”.
[125] Tức là Tam tạng Thánh giáo tự (三藏聖教序). Chúng tôi đã chuyển dịch và đưa vào đầu sách này.
[126] Tức Đường Cao Tông (Lý Trị - 628-683), lên ngôi năm 649 và trị vì đến năm 683.
[127] Trong bản Hán văn là chữ “xuân vi - 春闈“ để chỉ cung Thái tử.
[128] Kê lâm (鷄林), tên Phạn ngữ là Kukkutarama, cũng gọi là Kê Viên, là tên một ngôi chùa, còn gọi là Kê Lâm tinh xá, một tự viện thời ấy nằm ở Trung Ấn Độ, thuộc nước Ma-yết-đà (Magadha). Xem thêm ở quyển 8 trong sách này.
[129] Bản Đại Chánh tạng hiện nay vẫn ghi tên người viết bài tựa này là Trương Thuyết (張說). Tuy nhiên, như chúng tôi đã trình bày rõ trong phần Dẫn nhập, tác giả bài tựa này là Vu Chí Ninh.
[130] Trong nguyên tác, phần này được đặt trong Quyển 1 và xếp phía sau bảng liệt kê tên 34 nước.
[131] Bản Hán văn là Bào Hy (庖犧), là tên gọi khác của vua Phục Hy (伏羲).
[132] Bản Hán văn là chữ “xuất chấn chi sơ” (出震之初) để chỉ việc vua Phục Hy ban đầu khai sinh ra Bát quái, thiên hạ bắt đầu được tạo dựng.
[133] Bản Hán văn là chữ Hiên Viên (軒轅) tức Hiên Viên Hoàng Đế (軒轅黃帝), thường được gọi tắt là Hoàng Đế (黃帝), một vị vua thuộc Tam hoàng trong thần thoại Trung Hoa, được xem là người đầu tiên khai sáng nền văn minh Trung Hoa thời cổ đại.
[134] Bản Hán văn là “thùy y chi thủy” (垂衣之始) để chỉ việc Hiên Viên Hoàng Đế cai trị đất nước. Hệ từ: “黄帝, 堯, 雅垂衣裳而天下治 - Hoàng Đế, Nghiêu, nhã thùy y thường nhi thiên hạ trị.” (Hoàng Đế, vua Nghiêu, mặc y phục nhàn nhã mà thiên hạ trị yên.) Vì thế, “thùy y” có ý chỉ thời thịnh trị, nhà vua không cần làm gì mà thiên hạ vẫn thái bình, an lạc.
[135] Bản Hán văn là Đường Nghiêu (唐堯) để chỉ vua Nghiêu, họ Đường.
[136] Bản Hán văn là “納地圖 - nạp địa đồ“ để chỉ việc thêm những vùng đất mới, mở mang lãnh thổ. Cổ sử Trung Hoa cho rằng khắp thiên hạ có 9 châu là: Ký châu (冀州), Duyện châu (兖州), Thanh châu (青州), Từ châu (徐州), Dương châu (揚州), Kinh châu (荊州), Dự châu (豫州), Lương châu (梁州) và Ung châu (雍州).
[137] Bản Hán văn là “nhất lục hợp nhi quang trạch” (一六合而光宅), nghĩa là hợp sáu thành một, thống nhất. Lục hợp ở đây chỉ trời, đất và bốn phương đông, tây, nam, bắc.
[138] Bản Hán văn là “tứ Tam hoàng nhi chiếu lâm” (四三皇而照臨), hàm ý ca ngợi Đường Thái Tông xứng đáng được xem như vị vua thứ tư, nối tiếp Tam hoàng trong lịch sử cổ đại Trung quốc, vốn được xem là ba vị Thánh đế.
[139] Bản Hán văn là những chữ “đông di, tây nhung” (東夷,西戎) nghĩa là “bọn mọi phía đông, bọn rợ phía tây”, vì người Trung Hoa thời ấy xem thường các dân tộc khác, cho rằng tất cả đều là mọi rợ, không được văn minh như họ.
[140] Bản Hán văn là “đồng văn, cộng quỹ - 同文共軌”, nói đầy đủ là “thư đồng văn, xa cộng quỹ - 書同文,車共軌“ có nghĩa là trong cả nước cùng dùng chung một loại chữ viết, khi đóng xe cũng cùng chung kích thước trục xe. Ở đây ý nói thống nhất trong cả nước về chữ viết và các quy ước, phép tắc.
[141] Ở đây là ca ngợi Hoàng đế Đường Thái Tông.
[142] Bản Hán văn là “việt ngũ du tam” (越五踰三). Ngũ dùng chỉ Ngũ đế, tam chỉ cho Tam hoàng, đều là những bậc đế vương được xưng tụng trong quá khứ. Câu này hàm ý công nghiệp và đức độ của Đường Thái Tông vượt tất cả những vị ấy. Hàm ý ca ngợi này chúng ta đã thấy trong bài tựa thứ nhất.
[143] Bản Hán văn là ”hàm sinh chi trù” (含生之疇) nghĩa là tất cả các loài có sự sống.
[144] Bản Hán văn là “năng ngôn chi loại, mạc bất xưng công” (能言之類,莫不稱功), nghĩa đen là “hết thảy những ai biết nói, không ai là không xưng tán công lao [của vua]”. Ở đây hàm ý cả những dân tộc dùng ngôn ngữ, tiếng nói khác cũng xưng tán, khen ngợi vua Đường Thái Tông.
[145] Bản Hán văn là “thiên phủ” (天府), chỉ triều đình nhà Đường. Ngài Huyền Trang bắt đầu đi từ kinh đô Trường An.
[146] Bản Hán văn là “hàm thừa chính sóc” (咸承正朔), vì nhà Đường tự cho rằng lịch pháp Trung Hoa đang dùng là chính thức trong thiên hạ.
[147] Câu này ca ngợi đức độ và công nghiệp của Đường Thái Tông chưa từng có trường hợp nào trong sử sách có thể so sánh được.
[148] Bản Hán văn là “索訶 - sách-ha“ để phiên âm chữ sahā và ghi chú rằng trước đây đọc là “娑婆 - Ta-bà” hoặc “娑訶 - Sa-ha“ là sai. Chúng tôi chọn dịch là Ta-bà do tính phổ cập, đã quen thuộc với đa số người đọc.
[149] Bản Hán văn là “tam thiên đại thiên quốc độ” (三千大千國土). Thật ra không có “đại thiên quốc độ” mà phải hiểu là các quốc độ trong một đại thiên thế giới. Cách diễn đạt “tam thiên đại thiên thế giới” thường bị hiểu sai ở nhiều nơi, nên dịch ra thành “ba ngàn đại thiên thế giới”. Trong thực tế, “tam thiên” (ba lần ngàn) được dùng để mô tả cấu trúc của một đại thiên thế giới có ba lần số ngàn. Một ngàn tiểu thế giới hợp thành một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới hợp thành một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới hợp thành một đại thiên thế giới. Do đó, trong kinh điển khi nói “tam thiên đại thiên thế giới” thì phải hiểu là chỉ cho một đại thiên thế giới mà thôi.
[150] Bốn châu thiên hạ: tức Đông Thắng thần châu (S. Pūrva-videha, H. 東勝身洲), Tây Ngưu hóa châu (S. Apara-godhānīya, H. 西牛貨洲), Bắc Câu-lô châu (S. Uttarakuru, H. 北倶盧洲) và Nam Thiệm-bộ châu (S. Jampudīpa, H. 南贍部洲).
[151] Núi Tu-di (S. S. Sumeru, H. 須彌), dịch nghĩa là Diệu Cao (妙高). Nguyên tác phiên âm là Tô-mê-lô (蘇 迷盧) và chú rằng cách đọc cũ là Tu-di (須彌) hay Tu-di-lâu (須彌婁) đều không đúng. Tuy nhiên, vì tên gọi núi Tu-di đã quen thuộc với đa số độc giả nên chúng tôi vẫn chọn dùng.
[152] Bốn món báu: Gồm vàng, bạc, lưu ly và pha lê.
[153] Kim luân (金輪) hay còn gọi là kim cương luân (金剛輪), nghĩa đen là “bánh xe” nhưng ở đây có nghĩa là một tầng cấu trúc. Theo luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (阿毘達磨俱舍論), quyển 11, thì tầng cấu trúc thấp nhất của một thế giới là phong luân (風輪), có độ dày 160 vạn do-tuần, cực kỳ cứng chắc. Bên trên phong luân là thủy luân (水輪), là tầng nước có độ sâu 112 vạn do-tuần. Bên trên thủy luân là kim luân, có độ dày 32 vạn do-tuần. Bên trên kim luân là địa luân (地輪), là nơi có núi và biển cùng đất đai hình thành thế giới. (Xem ĐCT, T29, 1558, tr.57a.)
[154] Bảy ngọn núi và bảy vùng biển (七山七海): Theo luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (阿毘達磨俱舍論), quyển 11, thì 7 ngọn núi bao gồm núi Du-kiện-đạt-la (踰健達羅山), núi Sa-đà-la (沙馱羅山), núi Kiếp-địa-lạc-ca (刼地洛迦山), núi Tô-đạt-lê-xá-na (蘇達梨舍那山), núi Ngạch-thấp-yết-nã (額濕羯拏山), núi Tì-na-đát-ca (毘那怛迦山) và núi Ni-dân-đạt-la (尼民達羅山). Cứ giữa hai ngọn núi lại có một vùng biển, xếp nối tiếp nhau thành một vòng tròn bao quanh núi Tu-di, nên tất cả là bảy ngọn núi và bảy vùng biển. (ĐCT, T29, 1558, tr.57b, d.2-6.)
[155] Tức là vùng biển phía trong, hướng về núi Tu-di ở giữa.
[156] Theo luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (阿毘達磨俱舍論), quyển 11, thì 8 công đức hay 8 tính chất của nước biển ở đây là: 1. Ngọt ngào; 2. Mát lạnh; 3. Mềm mại; 4. Nhẹ nhàng; 5. Trong sạch; 6. Không có mùi hôi; 7. Uống vào không đau họng; 8. Uống vào không đau bụng. (ĐCT, T29, 1558, tr.57c, d.11-13.) Ngoài ra, theo Câu Xá Luận Ký (俱舍論記) thì nước trong hồ bảy báu ở cõi Cực Lạc của đức Phật A-di-đà cũng có 8 công đức nhưng khác biệt: 1. Trừng tịnh: lắng gạn trong sạch; 2. Thanh lãnh: trong trẻo mát lạnh; 3. Cam mỹ: mùi vị ngon ngọt; 4. Khinh nhuyễn: nhẹ nhàng mềm mại; 5. Nhuận trạch: thấm nhuần tươi mát; 6. An hòa: yên ổn hòa nhã; 7. Trừ được đói khát và vô số khổ não; 8. Trưởng dưỡng thân tứ đại, tăng trưởng các thiện căn. (ĐCT, T41, 1821, tr.186b, d.1.) Một số luận giải thường nhầm lẫn giữa 2 cách giải thích về 2 loại nước ở 2 nơi khác nhau này.
[157] Nguyên tác chú rằng cách đọc cũ là Phất-bà-đề (弗婆提) hay Phất-vu-đãi (弗于逮) đều không đúng.
[158] Nguyên tác chú rằng cách đọc cũ là Diêm-phù-đề (閻浮提) hay Diệm-phù (剡浮) đều không đúng.
[159] Nguyên tác chú rằng cách đọc cũ là Cù-da-ni (瞿耶尼) hay Cù-già-ni (劬伽尼) đều không đúng. Chỗ này bản Đại Chánh tạng đã chép nhầm chữ cù (劬) thành chữ đích (的) hoàn toàn không hợp lý.
[160] Nguyên tác chú rằng cách đọc cũ là Uất-đan-việt (欝單越) hay Cưu-lâu (鳩樓) đều không đúng. Về nguyên văn Phạn ngữ tên gọi của bốn châu, xin xem chú thích về bốn châu thiên hạ ở trang trước.
[161] Tên hồ A-na-bà-đáp-đa (S. Anavatapta) dịch nghĩa là Vô Nhiệt Não (無熱惱). Nguyên tác chú rằng trước đây đọc thành A-nậu-đạt (阿耨達) là không đúng.
[162] Hương sơn (S. Gandhamādana, H. 香山), tên Phạn ngữ là, là một ngọn núi trong dãy Hy-mã-lạp sơn (S. Himālayas).
[163] Đại Tuyết sơn (大雪山) hay Tuyết sơn là những tên khác của dãy Hy-mã-lạp sơn.
[164] Bát địa Bồ Tát (八地菩薩): tức Bồ Tát đã đạt đến Bất động địa (不動地), địa vị thứ tám trong Thập địa.
[165] Bản Hán văn là Căng-già (S. Gaṅgā, H. 殑伽) và chú rằng cách đọc cũ Hằng hà (恒河), Hằng-già (恒伽) đều không đúng. Chúng tôi dùng tên sông Hằng vì quen thuộc.
[166] Sông Tín-độ (S. Sindhu, H. 信度), tức là sông Ấn Độ. Nguyên tác chú rằng trước đây đọc thành Tân-đầu (辛頭) là không đúng.
[167] Sông Phược-sô (S. Vaksu, H. 縛芻), tức sông Amu Darya, nguyên tác chú rằng cách đọc trước đây thành Bác-xoa (博叉) là không đúng.
[168] Sông Tỉ-đa (S. Sītā., H. 徙多), tức là sông Yarkand, nguyên tác chú rằng cách đọc trước đây thành Tư-đà (私陀) là không đúng.
[169] Có thể ngài Huyền Trang dựa theo một giải thích trong sách Sơn hải kinh (山海經) cho rằng đây là chỗ phát tích Hoàng hà của Trung quốc.
[170] Theo Thích-ca phương chí (釋迦方志), quyển 1 (ĐCT, T51, 2088, tr.950b, d.10-13) thì lãnh thổ của Tượng chủ được đề cập ở đây là chỉ Ấn Độ: “Tuyết sơn dĩ nam chí ư nam hải danh Tượng chủ dã... ... thị vi Ấn Độ quốc. - 雪山已南至于南海名象主也。... 是為印度國。” (Từ phía nam Tuyết sơn cho đến biển phía nam là lãnh thổ của Tượng chủ... tức là nước Ấn Độ.) Tương tự, sách này cho rằng về phía tây, lãnh thổ của Bảo chủ là Hồ quốc (胡國), tức các nước vùng Tây Vực. Về phía bắc, lãnh thổ của Mã vương là nước Đột-quyết (突厥國).
[171] Bản Hán văn là “Tam chủ chi tục, đông phương vi thượng” (三主之俗東方為上).
[172] Theo nghi lễ Trung Hoa cổ đại, phương nam được xem là tôn quý. Những người có địa vị cao khi tiếp chuyện với người có địa vị thấp hơn, như vua gặp quần thần, hoặc quan chức gặp dân thường, thì người có địa vị cao phải ngồi ở hướng bắc, quay mặt về hướng nam.
[173] Nguyên văn câu này của Khổng tử được chép trong sách Luận ngữ: “Tất dã chính danh hồ. - 必也正名乎”, nhấn mạnh rằng danh xưng, từ ngữ phải được hiểu và thực hiện đúng như ý nghĩa của chúng.
[174] Ải Ngọc Môn, tức địa điểm tận cùng biên giới phía tây của Trung Hoa thời đó, các nước phiên thuộc về triều cống đi qua cửa ải này là vào lãnh thổ Trung Hoa.
[175] Đoạn này có ý nói đến việc nhà Đường muốn các nước Tây Vực về thần phục thì phải hiểu biết về phong tục tập quán của họ, nhưng vì không có nhiều tài liệu ghi chép nên việc đó rất khó khăn. Vì vậy, ngài Huyền Trang cố gắng ghi chép những điều được thấy nghe trên đường đi là để bổ khuyết cho sự thiếu hiểu biết này.
[176] Dãy núi này ngày nay gọi là Hindu Kush Mountains, nằm ở biên giới giữa các nước Trung Hoa, Af-ghanistan và Pakistan.
[177] Bản Hán văn là “mạc phi Hồ tục” (莫非胡俗). Chữ Hồ vào đời Đường được dùng chỉ chung nhiều dân tộc thiểu số ở phía bắc và phía tây Trung Hoa, và người Trung Hoa xem họ là mọi rợ (rợ Hồ), kém văn minh. Hồ (胡) cũng được dùng chỉ người Ấn Độ.