Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo

Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1 »» Giải thích về thính chúng (tiếp theo) »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1
»» Giải thích về thính chúng (tiếp theo)

(Lượt xem: 14)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Giải thích về thính chúng (tiếp theo)

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Lại có các vị hữu học, vô học đến 2.000 người.

Những vị tỳ-kheo ít người biết đến

Kinh văn nói: “Lại có các vị hữu học và vô học, cả thảy hai ngàn người.”[1] Ở đây chỉ nêu giai vị và nói rõ số lượng, nhưng không xưng tán đức hạnh [như trước], nên gọi những vị này là [những tỳ-kheo] ít người biết đến.

[Phàm tăng không hiểu được thánh tăng] nên thánh và phàm không lẫn lộn nhau, cũng không phân biệt nhiều người biết đến hay ít người biết đến. [Tuy nhiên,] chỉ riêng vì những kẻ ngưỡng cầu bậc đức độ cao xa nên nêu những vị nhiều người biết đến để dẫn dắt, còn đối với những người ưa chuộng lui về giấu tên ẩn đức thì nêu ra các vị ít người biết đến để dẫn dắt. Vì tùy thuận chúng sinh nên có số lượng nhiều ít, không thể vì hình tích thị hiện có nhiều hoặc ít người biết đến mà để mất đi ý nghĩa căn bản.

Giải thích về hữu học và vô học

Trong Tạng giáo có mười tám bậc hữu học và chín bậc vô học. Năm giai vị đầu của Thông giáo đều gọi là hữu học, từ địa vị thứ sáu gọi là vô học. Lại có thể nói chín địa vị của Thông giáo đều là hữu học, Phật địa là vô học.

Trong Biệt giáo và Viên giáo thì phân biệt hữu học và vô học dựa vào yếu tố công dụng hay vô công dụng,[2] hoặc xét theo cụ túc hay chưa cụ túc.[3]

Kinh A-hàm nói: “Ngoại đạo hỏi Phật rằng: ‘A-la-hán còn học nữa chăng?’[4] Phật nói: ‘A-la-hán không còn làm các việc ác, an trụ nơi các pháp lành. Học sự vô học đó nên gọi là học. Nếu người nào học được như vậy cũng gọi là vô học. Người học tức là tu tập những chỗ phải dứt trừ, nếu không còn gì để dứt trừ gọi là vô học.’”[5]

Như trên là bốn cách phân biệt [học và vô học]. Lại theo Ngũ phương tiện[6] thì không phải học, không phải vô học, là cách phân biệt thứ năm.

Theo trong bốn giáo nghĩa [Tạng, Thông, Biệt, Viên] thì ước lệ cũng như nhau, nên lấy 4 nhân cho 5 thành 20 cách phân biệt [học và vô học].

Giải thích theo bản tích thì bản vốn đã là bậc pháp thân đại sĩ, thường ở nơi địa vị học và vô học rốt ráo, [tích là vì] chúng sinh [nên thị hiện] những người hữu học và vô học trang nghiêm nơi rừng sa-la song thụ.

Theo nghĩa [quán tâm] thì chánh quán là trung đạo, chẳng duyên theo hai bên, khoảng giữa, tức là vô học. Có thể quán như thế gọi là học.

Nếu theo pháp quán để làm rõ số thì quán sắc và tâm có đủ trong 10 pháp giới và 10 như thị. Giới và như hỗ tương qua lại, [với sắc và tâm] tức là đủ số 2.000.[7]

Nêu hình tích tức làm rõ bản, là gốc của pháp, cho nên tích đó là bản tích.

Phần tiếp theo nói về ni chúng.

B. Chúng tỳ-kheo ni

KINH VĂN

Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với ni chúng 6.000 người cùng đến. Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cũng cùng đến với ni chúng.[8]

Theo cựu giải thì theo cách phân chia như trước, nghĩa là chia thành hai chúng, nay không dùng cách đó. Nếu theo ước lệ như trước thì chia ra các vị được nhiều người biết đến và các vị ít người biết đến, nhưng phần này lại không có câu văn [“chúng sở tri thức”[9] ở cuối] nên không thể dựa theo văn nghĩa để phân chia được. Do vậy chỉ nêu ra hai vị chủ trì của chúng [tỳ-kheo-ni,] không cần phải nhọc sức phân chia lớn nhỏ, nhiều hoặc ít [người biết đến].

Ma-ha Ba-xà-ba-đề

[Kinh văn] trước tiên kể ra [tỳ-kheo-ni Ma-ha] Ba-xà-ba-đề (Mahāpajāpatī), Hán dịch là Đại Ái Đạo, cũng có tên là Kiều-đàm-di (Gautamī), Hán dịch là Chúng Chủ. Chữ “ni” [như trong tỳ-kheo-ni] theo Phạn ngữ là chỉ chung cho nữ tính.

[Theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật (Trí độ), tích là [thị hiện] làm mẹ của 1.000 vị Phật, nuôi dưỡng bậc đạo sư.

Theo quán tâm giải thích [tên gọi này] thì quán trung đạo rộng khắp nên gọi là Đại, tâm từ không điều kiện (vô duyên từ) nên gọi là Ái, lý trung đạo rỗng không thông suốt nên gọi là Đạo.

Đại là nói về công hạnh của tự thân, Ái là nói việc giáo hóa người khác. Như do ái mà thọ sinh, khởi lòng từ nên thiệp nhập với đạo, như vậy thông cả hai ý nghĩa tự mình thực hành và giáo hóa người khác.

[Kinh nói] 6.000 là số lượng. Theo quán môn thì quán sáu căn thanh tịnh, [mỗi căn] đầy đủ 1.000 công đức. Tuy nói riêng mắt có 800 công đức, tai có 1.200 công đức, nhưng lấy số nhiều bù vào số ít nên tính trọn tất cả thành 6.000, để nêu căn bản của pháp môn. Đây cũng là cách giải thích của quán hành.

Da-du-đà-la

“Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la.” Đây là nêu tên con để nói về mẹ. [Da-du-đà-la (Yaśodharā)], Hán dịch là Hoa Sắc, cũng dịch là Danh Văn, hoặc cho là không dịch được. Bà là người ôn hòa hiền thục, biết cung kính cần kiệm, đức hạnh sánh cùng thái tử. Khi còn tại gia là vợ của Bồ Tát, trời người đều biết, khi xuất gia là bậc đứng đầu Ni chúng, đạt địa vị vô học. Cho nên đâu lẽ nào nói chúng tỳ-kheo-ni này là không có danh tiếng?[10]

Trong kinh Thập nhị du[11] kể rằng thái tử có ba người vợ. Phu nhân thứ nhất là Cù-di, phu nhân thứ hai là Da-du và phu nhân thứ ba là Lộc-dã. Kinh Vị tằng hữu và kinh Thụy ứng đều nói La-hầu-la là con của Cù-di.[12] Kinh Niết-bàn và kinh Pháp hoa đều nói [La-hầu-la] là con của Da-du-đà-la. Hai nghĩa khác biệt làm sao giải thích thông suốt? Hoặc có thể những kinh [Vị tằng hữu và Thụy ứng] nói [Cù-di] là đại mẫu,[13] còn [kinh Pháp hoa và kinh Niết-bàn] nói [Da-du-đà-la] là nói người sinh ra.

Thích luận nói Cù-tỳ-đà[14] là bảo nữ không mang thai, cũng chính là Cù-di, Hán dịch là Minh Nữ, cho nên biết chắc [La-hầu-la] là con của Da-du-đà-la.

Giải thích theo bản tích thì người vợ tất nhiên phải sánh bằng, lẽ đâu lại có người phàm phu[15] làm vợ thái tử? Cho nên biết rằng bản là [Da-du-đà-la] vốn trụ nơi thiền định vắng lặng, được pháp hỷ vi diệu, tích là thị hiện làm vợ của thái tử.

Kinh Bi Hoa nói rằng: “[Da-du-đà-la] khi ở chỗ đức Phật Bảo Tạng có lời thệ nguyện làm vợ [thái tử].”

[Giải thích theo quán tâm thì] quán không, được pháp hỷ vô lậu nên nêu Lộc-dã là vợ [thái tử], quán giả, được pháp hỷ đạo chủng trí nên nêu Da-du-đà-la là vợ [thái tử], quán trung [đạo], được pháp hỷ nên nêu Cù-di làm vợ [thái tử].[16]

Bồ Tát thị hiện Thanh văn

Phần trên đã nói rõ về [cách giải thích theo] bản tích và quán tâm, bây giờ sẽ đi vào tổng luận, nêu rõ phương tiện khéo léo quyền biến khúc chiết, làm sáng tỏ quán hành tinh vi. Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm có đủ các hình thức thị hiện, để phù hợp với từng căn tánh nên không một việc gì không làm được. Nay lấy nghĩa thô mà luận thì thác sinh vào chốn vương cung, giáng thần làm thánh hậu. Chư Bồ Tát hiện pháp thân đều là để phụ giúp việc hành hóa của Phật, do vậy mà hóa hiện khắp nơi.

Khi [đức Phật] ứng hiện đản sinh với 32 tướng tốt đoan nghiêm, các bậc đại sĩ mỗi vị cũng đều theo đó [thị hiện] xuất sinh, hoặc [hiện điềm] nhà cửa trống không, mưa xuống châu báu, biện tài thể hiện qua [người mẹ], hoặc báo tin trong giấc mộng...

Khi đức thái tử động lòng vất bỏ ngôi vua, bỏ quyền trị nước, ra khỏi thành đi học đạo, các bậc đại sĩ tất nhiên cũng đều theo đó [thị hiện] tầm sư học đạo, thể hiện tài năng xuất chúng, mỗi vị đều trở thành người đứng đầu của giáo phái [mình theo học].

Khi [đức Phật] chuyển pháp luân lần đầu, cửa pháp cam lộ vừa mở, nghe biết các bậc đại sĩ cơ duyên giáo hóa chưa thuần thục, liền thị hiện cùng không chịu quy phục, mỗi vị đều giữ lấy đạo riêng của mình cho là chân thật. [Vào lúc ấy], người giáo hóa với kẻ được giáo hóa đều giữ nguyên phẩm tính ban đầu như sữa.

Khi nhân duyên của người được giáo hóa đã thuần thục liền giống như tơ trắng dễ nhuộm, như hoa trong hồ sớm nở, bỏ phàm thành thánh, chuyển sữa thành lạc,[17] bậc thầy các tông phái đều trở thành đệ tử thượng thủ của đức Phật, hoặc trí tuệ, hoặc thần thông, hoặc biện tài tam-muội, mỗi môn đều có một vị đứng đầu, cùng trợ lực với đấng Pháp vương để độ người chưa được độ, giúp cho những ai đã thuần thục lại càng thuần thục hơn nữa.

Trong pháp hội Phương đẳng,[18] được nghe những công đức không thể nghĩ bàn của hàng Bồ Tát, [các ngài lại thị hiện] hổ thẹn [với khuynh hướng] Tiểu thừa mà ngưỡng mộ Đại thừa. Hổ thẹn [với khuynh hướng] Tiểu thừa nên buồn than tự trách đã để mất đi tri kiến vô lượng của Như Lai. Ngưỡng mộ Đại thừa lại không biết phải làm sao để được trí tuệ vô thượng của Phật. [Giai đoạn thị hiện này] giống như chuyển sữa đặc (lạc) thành váng sữa sống (sinh tô).

Tiếp theo được nghe pháp môn Đại thừa[19] Bát-nhã, đầu tiên học qua sắc pháp, tâm pháp, cho đến cuối cùng [học về Nhất thiết] chủng trí, bao gồm [hết thảy muôn pháp] lớn nhỏ, trong tâm ngoài cảnh, nắm giữ buông xả, hoặc chung hoặc riêng, hoặc thiên lệch hoặc tròn đầy. Tuy vâng lời Phật dạy lắng nghe rõ biết nhưng không hề mong đợi tự mình có được trí tuệ như vậy. Tuy chưa tức thời buông xả nhưng đã dần dần hiểu biết thông suốt rộng khắp. [Giai đoạn thị hiện này] giống như chuyển từ váng sữa sống (sinh tô) thành váng sữa chín (thục tô).

Tiếp đến được nghe giáo nghĩa Pháp hoa, thể hội tự tánh thiên chân, biết chắc được rằng chư Phật như cha, Bồ Tát như con, được Phật thụ ký, giao phó giáo pháp Đại thừa, từ bỏ phương tiện quyền thừa, thấu suốt ba thừa thành một, giống như [từ sữa đã thành sữa đặc, sinh tô, thục tô, giờ đây] bốn vị ấy chỉ còn đồng nhất một vị đề hồ. Chẳng riêng một người diệt độ mà làm cho tất cả [chúng sanh] cùng được diệt độ giống như Như Lai.

Các bậc [đại sĩ là] bề tôi trong giáo pháp của đấng Pháp Vương, vì đại sự [nhân duyên giáo hóa chúng sanh] mà ra đời, khéo dùng phương tiện. Ban đầu dùng pháp quyền thừa,[20] phá trừ [sự bám chấp vào] 25 cõi [hiện hữu] đầy phiền nhiễu phức tạp, thành tựu các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã[21] để làm lợi ích hết thảy chúng sinh. Tiếp theo vận dụng một phần giáo pháp rốt ráo,[22] phá trừ khuynh hướng nhỏ hẹp của Nhị thừa,[23] chuyển thành tâm nguyện rộng lớn của hàng Bồ Tát, thành tựu các pháp thường, lạc, ngã, tịnh,[24] làm lợi ích hàng thánh nhân. Cuối cùng mới vận dụng giáo pháp thường trụ viên mãn,[25] phá trừ các pháp trước sau, thiên lệch hai bên, thành tạng pháp bí mật của chư Phật, chẳng phải bên này, chẳng phải bên kia,[26] chân thật lợi ích rốt ráo.

Khi đấng Pháp vương đã hoàn tất sự giáo hóa chúng sinh,[27] thệ nguyện lớn lao đã trọn thành, cho nên các ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ngay sau hội Pháp hoa liền nhập diệt.[28] Bậc Đại Thánh cũng không còn ở đời bao lâu. Cho nên nói rằng:

Thệ nguyện xưa của ta,
Nay thành tựu trọn vẹn.
Như Lai chẳng bao lâu,
Cũng sẽ vào Niết Bàn.

Việc đọc kệ trước khi nhập diệt là khởi đầu từ đó.

[Kinh nói] 20.000 vị Phật [đồng hiệu Nhật Nguyệt] Đăng Minh cũng như Phật Ca-diếp đều lấy kinh Pháp hoa này làm cứu cánh. Vì hết thảy [thành tựu của] thầy trò các vị đều do nơi kinh này mà ra, nên ngày nay [cùng nhau thị hiện], bên trong ẩn giấu đạo Bồ Tát, bên ngoài hiện làm các vị Thanh văn. [Như lời Phật nói:] “Ta thành Phật thật ra đến nay đã trải qua vô lượng ức kiếp.” Do câu này mà suy ra thì biết, các vị Đại A-la-hán [trong pháp hội này vốn] từ nơi pháp thân mà biến hiện, tùy duyên như nước chảy muôn dòng, hoặc làm bậc hữu học, vô học, hoặc hiện thành kẻ nam người nữ, hoặc làm người xuất gia hay kẻ tại gia, dùng sức [đại định] Thủ-lăng-nghiêm nên không một hình tướng nào mà không thị hiện. Phương tiện khéo léo quyền xảo làm những điều như vậy. Đại lược là như thế.

Giải thích tổng quát theo quán tâm thì các bậc đại sĩ từ nơi pháp thân ứng hiện thi hành sự giáo hóa như trên, nếu không quán chiếu về [ý nghĩa] phương tiện thì [những việc ấy] đối với người tu hành không có lợi ích, chẳng khác nào người nghèo đếm châu báu [của người khác], hoặc như người mù cầm đuốc [soi đường].

Thế nhưng các tâm sở[29] rất nhiều nên chỉ tạm lược nói những tâm sở thiện, cũng như đệ tử Phật rất đông nhưng chỉ nêu ra mười vị. Mười tâm sở thiện là: tín, tấn, niệm, định, tuệ, hỷ, xả, ỷ, giác,[30] giới. Mười tâm sở thiện này trợ giúp tâm vương có thể tu sửa điều ác, hướng về điều thiện, chuyển phàm thành thánh. Hết thảy các pháp môn đều lấy 10 tâm này làm căn bản, cũng giống như 10 đại đệ tử trợ giúp đức Phật hành hóa, giáo hóa thuần thục chúng sinh, xây dựng Phật pháp.

- Tín (lòng tin): Tâm sở này ví như ngài A-na-luật với thiên nhãn bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Mắt là đứng đầu trong năm căn, cũng như phương đông là trên hết trong các phương hướng. Lòng tin là một trong những tâm sở ban đầu khi mới đến với Phật pháp.

- Tấn (tinh tấn): Tâm sở này ví như ngài Ca-diếp với hạnh đầu đà bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Hạnh đầu đà tinh tấn chuyên cần chấp nhận khổ nhọc là so với tâm sở tấn vậy.

- Niệm (ghi nhớ): Tâm sở này ví như ngài Ưu-ba-ly là vị trì luật bậc nhất [trong các đệ tử Phật], có sức ghi nhớ thật mạnh mẽ, [những điều đã học] luôn ghi nhớ không quên.

- Định (an định): Tâm sở này ví như ngài Mục-kiền-liên là vị thần thông bậc nhất [trong các đệ tử Phật].

- Tuệ (trí tuệ): Tâm sở này ví như ngài Xá-lợi-phất, là vị trí tuệ bậc nhất [trong các đệ tử Phật], [đối với hết thảy các pháp] đều có thể hiểu rõ.

- Hỷ (vui mừng, hoan hỷ): Tâm sở này ví như ngài A-nan, là vị đa văn bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Đa văn phân biệt các niềm vui, vui ấy chính là tâm sở hỷ.

- Ỷ (dựa vào, nương theo): Tâm sở này ví như ngài Ca-chiên-diên, biện luận thể nhập đến mức tận cùng nhỏ nhiệm, lý lẽ thông suốt, dùng lý luận để phá trừ tà kiến, hiển dương chánh đạo, như nương theo việc bỏ ác tu thiện, [nhân đó] lìa khổ được vui.

- Xả (buông xả): Tâm sở này ví như ngài Tu-bồ-đề, là vị thấu hiểu nghĩa không bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Khi trụ yên nơi sự bình đẳng của tánh không thì tương ưng với tâm sở xả.

- Giác (rõ biết): Tâm sở này ví như ngài Phú-lâu-na, là vị thuyết pháp bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Sự hiểu biết rõ ràng là căn bản của lời nói, nên khi thiết lập được căn bản rồi thì có khả năng biện thuyết không cùng tận.

- Giới (nghiêm trì giới luật): Tâm sở này là ví như ngài La-hầu-la, là vị giữ giới bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Điều này có thể hiểu được [không cần giải thích].

Mười tâm sở thiện [nêu trên] giúp tâm vương có thể thành tựu quán hạnh, chỉ trong một niệm tưởng vào sâu pháp lành, đầy đủ Tam bảo. Tâm vương là Phật bảo, tâm sở là Tăng bảo, chỗ duyên theo trong thực tiễn không thuộc tâm vương, không thuộc tâm sở, đó là Pháp bảo. Khi thâm nhập thực tiễn thì công năng, sức mạnh của tâm vương và tâm sở sẽ được phát huy đầy đủ.

Lại nếu giải thích theo 10 thông đại địa tâm sở[31] cùng sinh khởi với tâm vương thì có thể kết hợp với bất kỳ pháp thiện hoặc pháp bất thiện, biến thông khắp cả. Các thông tâm sở[32] đó là: tưởng, dục, xúc, tuệ, niệm, tư, giải thoát, ức, định, thọ.

- Tưởng (suy tưởng): Tâm sở này ví như ngài Phú-lâu-na. Do tưởng mà thấu đạt các danh xưng giả tạm. Ngài Phú-lâu-na khéo thấu đạt được hết thảy các danh xưng giả tạm nên có biện tài không ngăn ngại.

- Dục (mong cầu): Tâm sở này ví như ngài Ca-diếp, không có những mong cầu đối với các pháp thế gian mà chỉ mong cầu đối với các pháp vô vi.

- Xúc (xúc chạm): Tâm sở này ví như ngài Ca-chiên-diên. Xúc và nhập là hai pháp rốt cùng thiệp nhập vào nhau. Ca-chiên-diên giỏi luận nghị, ý nghĩa đưa ra rốt cùng đều có thể hỗ tương qua lại.

- Tuệ (trí tuệ): Tâm sở này ví như ngài Xá-lợi-phất, đối với hết thảy các pháp đều có thể hiểu rõ.

- Niệm (ghi nhớ): Tâm sở này ví như ngài Ưu-ba-ly, là vị đệ tử ghi nhớ giới luật hơn hết.

- Tư (tư duy): Tâm sở này ví như ngài La-hầu-la. Tư duy là thuộc về hành ấm. Ngài La-hầu-la là vị đệ tử thực hành trì giới hơn hết.

- Giải thoát (không trói buộc): Tâm sở này ví như ngài Tu-bồ-đề. Thoát có nghĩa là không bị trói buộc. Ngài Tu-bồ-đề thấu hiểu nghĩa “không” nên ở trong cảnh giới “có” mà vẫn được giải thoát, không trói buộc.

- Ức (nhớ nghĩ): Tâm sở này ví như ngài A-na-luật. Từ ký ức dao động phát ra, lưu giữ ngoại cảnh, dễ tu đạt thiên nhãn.

- Định (tam-ma-đề, chánh định): Tâm sở này ví như ngài Mục-kiền-liên, [điều này] có thể hiểu được.

- Thọ (thọ nhận): Tâm sở này ví như ngài A-nan, đa văn nghe nhiều rồi nhận lãnh ghi nhớ tất cả không hề sai lầm.

Mười vị đệ tử ấy, mỗi vị đều đầy đủ các phẩm đức, nhưng đi theo pháp môn chuyên biệt vì để tuyên thuyết, chỉ bày Phật đạo tùy theo ý muốn của chúng sinh. [Đối với những chúng sinh nào] ưa thích trí tuệ thì tôn ngài Xá-lợi-phất làm thầy, cho đến những người ưa thích đa văn thì tôn ngài A-nan làm thầy. Các vị cùng trợ giúp đấng Pháp vương, mỗi người giữ một vai trò.

Bây giờ giải thích theo quán tâm, cũng giống như vậy. Trong mỗi một tâm đều có đủ tâm vương, tâm sở tạo thành pháp quán. Cho nên tâm vương, tâm sở cùng hỗ tương qua lại để đạt đến sự khai ngộ. Hoặc do nơi tâm sở tưởng mà nhập đạo, hoặc do nơi tâm sở dục mà nhập đạo, tùy theo chỗ thích hợp mà tâm vương và tâm sở[33] cùng gây tác động, nắm giữ, chuyển hóa các tâm trần lao mà làm Phật sự.

Theo cách quán như vậy, chưa ngộ đạo thì quán hành như sữa. Nếu phát [trí] vô lậu thì quán hành như sữa đặc (lạc). Nếu phá trừ được trần sa [phiền não] thì [quán hành] như bơ sống (sinh tô), bơ chín (thục tô). Nếu phá trừ được vô minh thì quán [hành] như đề hồ. Đến lúc được như đề hồ rồi thì tâm vương, tâm sở đều dứt hết. Tâm, tâm pháp, tâm sở không hoạt động nên gọi là thực hành Bát-nhã Ba-la-mật.

Kinh Phổ Hiền quán nói rằng: “Quán tâm không tâm, pháp chẳng trụ nơi pháp... ...Tâm ta tự nó vốn không, tội hay phước đều không có ai là chủ thể.”[34] Nghĩa là, không tâm cũng không tâm sở, đó gọi là quán chân chánh. Những tâm sở trần lao nếu chưa dứt hết thì pháp quán chưa xong. Cho nên trong kinh nói rằng: “Chúng sinh không độ [hết] thì ta không thành Chánh giác.” Chính là ý này.[35] Đại lược là như vậy.

II. Chúng Bồ Tát

KINH VĂN

Có 80.000 vị Đại Bồ-Tát, tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều đạt được đà-la-ni, có tài biện luận vui thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển, từng cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật, ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức, thường được chư Phật ngợi khen xưng tán, dùng tâm từ tu thân, khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao, đạt đến bờ giải thoát, danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới, thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sinh.

Phần thứ hai liệt kê hội chúng Bồ Tát. Thích luận chép: “‘Bồ Tát bao gồm cả bốn chúng xuất gia và tại gia,[36] vì sao phải liệt kê riêng?’ Đáp: ‘Có Bồ Tát nằm trong bốn chúng, nhưng có những người trong bốn chúng không phải Bồ Tát, vì họ không phát tâm cầu thành Phật. Cho nên ở đây phải liệt kê riêng những người phát tâm cầu làm Phật, gọi chung là chúng Bồ Tát.’”

Phần này chia ra sáu mục. Thứ nhất là phẩm loại, thứ hai là số lượng, thứ ba là giai vị, thứ tư là xưng tán đức, thứ năm là kể danh hiệu và thứ sáu là kết lại.

1. Phẩm loại

Về phẩm loại, hội chúng này đều là Bồ Tát Ma-ha-tát, nói đầy đủ phải là Bồ-đề-tát-đỏa Ma-ha-tát-đỏa (Bodhisattva Mahāsattva). [Trong bốn chữ Bồ-đề-tát-đỏa], ngài La-thập thấy rườm rà nên lược bỏ hai chữ “đề, đỏa”, [còn lại là Bồ Tát].

Bồ-đề, Hán dịch là đạo; tát-đỏa dịch là tâm,[37] ma-ha dịch là đại. Hết thảy các vị này đều [tự mình] tìm cầu Phật đạo rộng lớn, lại [nỗ lực giáo hóa] chúng sinh cho thuần thục. Đạo tâm (Bồ-đề-tát-đỏa), Đại đạo tâm (Ma-ha Bồ-đề-tát-đỏa) là [danh xưng phân biệt] phẩm loại. Trong hàng Bồ Tát lại cũng phân ra nhiều phẩm loại, như thiên, thông, biệt, viên.[38]

Thích luận dẫn trường hợp ngài Ca-chiên-diên để làm rõ ý nghĩa lấy [sự tu tập thành tựu] sáu ba-la-mật làm giới hạn, cho là viên mãn. Đó là muốn chuyển hóa [sự xấu ác của] chúng sinh, [ví như] máu huyết, thành [các pháp lành, ví như] sữa. Còn như trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm đã tương ưng hết thảy bình đẳng,[39] đây là muốn chuyển hóa sữa thành sữa đặc (lạc).[40]

Lại như trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm đã [có năng lực] du hí thần thông, làm thanh tịnh cõi Phật.[41] Lại như trong kinh Tịnh Danh[42] nói là [những Bồ Tát vừa mới phát tâm đã][43] đạt được [pháp môn] giải thoát không thể nghĩ bàn, đều có thể biến thân hình thành to lớn để ngồi lên tòa cao,[44] lại có thể hạ mình chịu sự chê trách.[45] Đây là muốn chuyển hóa sữa đặc (lạc) thành váng sữa sống (sinh tô), váng sữa chín (thục tô).[46]

Lại cũng trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm liền ngồi dưới gốc Bồ-đề[47] chứng thành Chánh giác, chuyển Pháp luân, hóa độ chúng sinh.[48] Đây là ví như chuyển hóa sinh tô, thục tô thành đề hồ.[49]

Cho nên, [kinh văn] sau đó [trong kệ tụng] nói rằng: “Bồ Tát nghe pháp này, nghi ngờ đều dứt sạch.”[50] Lại [một đoạn khác] nói rằng nếu Bồ Tát chưa nghe kinh Pháp hoa thì chưa phải khéo thực hành đạo Bồ Tát. Nếu nghe kinh này rồi tức là khéo thực hành Bồ Tát đạo.[51]

Lại nữa, kinh Niết-bàn nói rằng: “Bồ Tát không nghe đến Niết-bàn thì thường có hy vọng. Nếu nghe đến Niết-bàn rồi thì mọi hy vọng đều dứt.”

[Theo nghĩa trên] nên lược nói có bốn hàng Bồ Tát [thiên, thông, biệt, viên] như trên.

Theo nghĩa bản tích thì bản là các giai vị của Bồ Tát khó có thể suy lường, hoặc ở bậc Đẳng Giác, hoặc ngang bậc Pháp Vương, như [đồng tử] Thiện Tài vào pháp giới thấy Bồ Tát Văn-thù sắc tượng vô biên, pháp môn sâu xa. Bản là gần gũi chư Phật, tích là trợ giúp đức Thích-ca nên thị hiện làm Bồ Tát, hiện sắc thân mọi nơi, dùng sức tam-muội biến hình rộng khắp, dùng lời thuyết pháp rộng khắp, tùy chỗ thích nghi [của chúng sanh] để giáo hóa không thể nghĩ bàn, chỉ có thể dùng tâm ý để biết, không thể dùng lời nói hết. Cho nên tích là [thị hiện] dẫn dắt có bốn vị [nhũ, lạc, sinh tô, thục tô], nhưng tất cả đều quy về chỉ một vị đề hồ chân thật,[52] ví như búa và đe[53] hợp nhau rèn các chất liệu thô thành khí cụ. Thành vị đề hồ rồi thì thời kỳ hóa độ cũng dừng. Nhưng giai vị từ xưa vốn đã thành tựu rốt ráo, đâu phải ngày nay mới bắt đầu bước vào Đại thừa, cũng chẳng phải có tịch diệt nơi đạo tràng hay lợi căn đốn ngộ,[54] vì dù đốn hay tiệm tất cả cũng đều là hình tích thị hiện.

Giải thích theo quán tâm thì quán Trung đạo cùng lúc quán chiếu cả Không và Giả (Nhị đế) gọi là Đại, thông suốt đến quả Bồ-đề gọi là Đạo, phá trừ năm trụ trần lao[55] gọi là chúng sinh.[56] Đại lược là như vậy.

2. Số lượng

Nói 80.000 người là số lượng [Bồ Tát]. Những kinh khác chúng hội rất nhiều, ở kinh này vì sao lại ít? Hoặc nói rằng chỉ nêu số lượng những vị lớn, hoặc ví như khi đức vua bàn việc cơ mật, không thể đưa ra bàn rộng khắp nước. Đại lược là như vậy.

Lược nói theo quán tâm thì quán một tâm lành đầy đủ mười pháp giới. Mười pháp giới hỗ tương qua lại thành trăm pháp giới, ngàn tánh tướng. [Cho nên], mười điều lành tức là muôn pháp.

Lược nói theo giáo nghĩa thì Bát chánh đạo là tám muôn pháp môn. Đại lược là như vậy.

3. Giai vị

[Kinh nói:] “Tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”[57] Đây là nói rõ về giai vị [của chư Bồ Tát].

A-nậu, Hán dịch là Vô thượng đạo, như trong phần cảnh diệu[58] có nói. Về giai vị thì như trong phần vị diệu[59] có nói.

“Không còn thối chuyển”, lược nói có ba loại không thối chuyển là giai vị, công hạnh và niệm lực, nên phân biệt theo bốn loại [tất đàn]. Như không còn sinh vào ba đường ác, đó là giai vị không còn thối chuyển. Không bị sinh vào những nơi biên địa, đầy đủ các giác quan, không sinh làm thân nữ, đó là công hạnh không còn thối chuyển. Thường nhớ biết về những đời trước, tức là niệm lực không còn thối chuyển. Đầy đủ [ba loại không thối chuyển] như vậy gọi là địa vị A-bệ-bạt-trí (Avaivartika), [Hán dịch là Bất thối chuyển]. Đó là giải thích theo Tạng giáo.

[Theo Thông giáo thì] tâm thứ sáu [ở Nhẫn pháp vị][60] trở về trước còn là hàng Bồ Tát dễ dao động,[61] gốc rễ niềm tin chưa xác lập,[62] nên vẫn còn có thể thối chuyển. Kể từ tâm thứ bảy [ở Thế đệ nhất pháp vị] trở lên, từ Sơ địa đến Lục địa [là Ly dục địa] thì không còn trở lại làm phàm phu hoặc Nhị thừa, gọi là giai vị không còn thối chuyển. Tuy chánh sử [phiền não] đã dứt nhưng chưa rộng tu muôn hạnh, công hạnh vẫn còn có thể thối chuyển. Lên đến Thất địa [là Dĩ biện địa] thì gọi là công hạnh không còn thối chuyển, nhưng vì còn khởi niệm Nhị thừa nên vẫn có niệm thối chuyển. Lên đến Bát địa [là Bích-chi Phật địa] thì sự giáo hóa và công phu tu tập đều song song thành tựu, thể nhập vào dòng nước pháp mà trôi chảy không ngừng, gọi là niệm lực không còn thối chuyển, tức là A-bệ-bạt-trí. Ý nghĩa này thông cả Tam thừa, Thập địa.

Các luận sư phái Địa luận[63] nói rằng, [hàng] Thập trụ là chỗ chứng đắc không còn thối chuyển, Thập hạnh là giai vị không còn thối chuyển, Thập hồi hướng là công hạnh không còn thối chuyển, Thập địa là niệm lực không còn thối chuyển.[64] Đây là ý nghĩa theo Biệt giáo, không phù hợp với ý nghĩa trong kinh này nên không vận dụng.

Kinh Anh lạc[65] nói: “Đạt đến Sơ địa thì ba pháp quán[66] cùng lúc hiện tiền, tâm thường vắng lặng, tự nhiên nhập vào dòng chảy.” Đây là ý nghĩa không thối chuyển theo Biệt giáo, cũng không vận dụng ở đây.

Còn như trong kinh Hoa nghiêm nói rõ, Bồ Tát Sơ trụ đạt được một thân cho đến vô lượng thân Như Lai đều đầy đủ ba loại không thối chuyển. Đây là ý nghĩa không thối chuyển theo Viên giáo, là lẽ hợp nhất chân thật về sự, nay vận dụng để phân biệt xác định các giai vị.

Theo nghĩa bản tích thì bản là các giai vị vốn đều vắng lặng dứt sạch, đến Thập địa còn không có huống chi là Sơ trụ, lại chẳng có không thối chuyển ở Sơ trụ, huống chi lại có [các nghĩa của] Biệt giáo hay Thông giáo. Các giai vị theo Biệt giáo và Thông giáo là phù hợp để giải thích về sự liệt kê chúng hội ở các kinh khác, riêng các giai vị của Viên giáo chính là ở trong kinh này. Các bậc thầy luận giải những kinh khác đã không có sự hiểu biết về tích, làm sao biết được về bản? Chỗ xưng tán của họ đã sai lầm, hỏng mất ngay trong nội dung, nên hóa ra lại hủy báng theo hai cách nói tăng thêm hoặc giảm bớt, làm sao có thể gọi là xưng tán điều tốt đẹp?

Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán [Không, Giả và Trung đạo] là ba điều không thối chuyển. Lại nữa, một tâm đồng thời tu ba pháp quán tức là một tâm đồng thời có ba điều không thối chuyển. Đại lược là như vậy.

4. Xưng tán đức

Theo các nhà cựu giải[67] thì kể từ câu “đều đạt được đà-la-ni” là bắt đầu phần xưng tán đức. Nay lấy từ câu “không còn thối chuyển” đã có đủ cả hai ý [nói về giai vị và xưng tán đức], cho nên thuộc phần trước là nói về giai vị, còn mở đầu phần sau là xưng tán đức.

Cũng theo các nhà cựu giải thì phần xưng tán đức có 12 câu,[68] phân làm bốn ý [chính]. Ba câu đầu tiên xưng tán đức độ trong hiện tại.[69] Ba câu tiếp theo xưng tán đức hạnh trong quá khứ.[70] Bốn câu tiếp theo xưng tán tánh thể trong tự thân của các vị[71] và hai câu sau cùng xưng tán danh xưng bên ngoài.[72]

Bốn ý trên tuy khác biệt nhưng điểm chính đều nói về đức độ [của các vị] nên gọi là xưng tán đức.

Phần xưng tán đức độ trong hiện tại lại có hai ý. Câu đầu tiên là xưng tán công hạnh của tự thân các vị, [“đều đạt được đà-la-ni”]. Hai câu tiếp theo là xưng tán việc giáo hóa chúng sinh, [“có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển”].

Phần xưng tán đức hạnh [trong quá khứ] cũng có ba ý. Câu đầu tiên xưng tán căn bản của đức hạnh, [“cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật”], vốn từ nơi chư Phật mà được trí tuệ Bát-nhã. Câu tiếp theo xưng tán công hạnh vốn có, [“ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức”], là công hạnh gieo trồng phước đức. Nhờ có phước đức nên có thể giúp thêm [cho việc tu tập] trí tuệ. Câu thứ ba nói việc được chư Phật khen ngợi, [“thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”].

Phần xưng tán tánh thể tự thân cũng có ba ý. Câu đầu tiên nêu lòng từ bi [“dùng tâm từ để tu thân”], để xưng tán Ứng [hóa] thân. Hai câu giữa, [“khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao”], là xưng tán Báo thân của tâm trí tuệ. Câu sau cùng, [“đến bờ giải thoát”] là xưng tán Pháp thân.

Phần xưng tán danh xưng cũng có hai ý. Câu đầu tiên, [“danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới”] là xưng tán danh xưng [các ngài] được nghe biết rộng khắp. Câu thứ hai, [“thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh”] là xưng tán việc [các ngài] thường cứu độ chúng sinh.

Cách phân chia câu văn như trên [của các nhà luận giải xưa] có hình thức rất rõ ràng, nhưng khảo luận về tông thể thì hoàn toàn không có tôn chỉ thú hướng.

Nếu là xưng tán theo Thông giáo, thì Thông giáo không có Ba thân, cũng không nhập trí tuệ Phật, danh xưng cũng không rộng khắp, hết thảy các nghĩa đều không thành tựu.

Nếu nói là xưng tán theo Biệt giáo, thì Sơ địa của Biệt giáo đã vượt hơn hàng Nhị thừa, vì sao nói đến Thất địa còn khởi niệm Thanh văn, Bích-chi Phật?

Nếu nói là xưng tán theo Viên giáo, thì lẽ ra chẳng nên nói từ Thất địa trở xuống không có đức không thối chuyển.

[Xét kỹ] tới lui[73] đều không phù hợp, vậy rốt cùng biết tán thán ai? Do vậy nên [những nghĩa như trên] ở đây không vận dụng. Nay sẽ lấy [trong phần này] 13 câu,[74] phân tích theo hai cách để hiểu nghĩa văn kinh.[75] Thứ nhất là theo trình tự tu tiến thì lược nói ý nghĩa [mười giai vị của] Thập địa. Thứ hai là theo cách mở rộng một nghĩa thì lược nói ý nghĩa [một giai vị] Sơ trụ.

1. [Như vậy], câu kinh “không còn thối chuyển” là vừa kết lại phần trước, tức là nói rõ giai vị, vừa mở đầu phần sau, tức là xưng tán đức, được dùng để xưng tán [Bồ Tát] Sơ địa. Sơ địa có tên là Hoan hỷ [địa],[76] hoan hỷ vì không còn thối chuyển rơi vào [phân biệt] hai bên, thể nhập Trung đạo, được ba sự không thối chuyển.[77] Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Sơ địa, tức Hoan hỷ địa.

2. Câu “đều đạt được đà-la-ni” là xưng tán thán Nhị địa. Nhị địa có tên là Ly cấu [địa],[78] cũng có tên là Ly đạt [địa]. Ly là lìa bỏ và ngăn chặn được tất cả những điều ác; đạt là đạt được và duy trì tất cả những việc lành. Đó là ý nghĩa của đà-la-ni. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Ly cấu địa.

3. Câu “có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng” là xưng tán Tam địa. Tam địa có tên là Minh địa.[79] Bên trong trí tuệ sáng suốt, bên ngoài mới có tài biện luận giảng thuyết. Muốn biết về trí tuệ [bên trong] thì chính là ở nơi sự giảng thuyết [bên ngoài]. Thuyết giảng có nhiều cách khác nhau, trong đó ưa thích thuyết giảng là hơn hết. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán giai vị thứ ba [của Thập địa] là Minh địa.

4. Câu “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển” là xưng tán Tứ địa. Tứ địa có tên là Diệm địa.[80] Diệm [là ngọn lửa,] có công năng phá trừ bóng tối, cũng có công năng thiêu đốt. Chuyển pháp luân là tự làm tiêu tan lậu hoặc của chính mình, giống như thiêu đốt, lại phá trừ sự si mê của người khác, giống như phá trừ sự tối tăm. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán giai vị thứ tư [trong Thập địa] là Diệm địa.

5. Câu “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật” là xưng tán Ngũ địa. Ngũ địa có tên là Nan thắng địa.[81] Địa vị này đã đạt được thiền định thâm sâu, sử dụng sức thần thông khó [có ai] sánh kịp, khó [có ai] vượt thắng được, chỉ trong khoảng thời gian một niệm ngắn ngủi có thể biến hiện đến khắp mười phương để cúng dường chư Phật. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán thán Ngũ địa.

6. Câu “ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức” là xưng tán Lục địa. Lục địa có tên là Hiện tiền địa.[82] Do đạt được thiền định nên thường cúng dường chư Phật, nhờ phước đức đó giúp phát triển hạt giống trí tuệ, hạt giống trí tuệ phát triển hiện tiền. Trí tuệ là gốc công đức, như mang cây trồng xuống đất. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Lục địa.

7. Câu “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán” là xưng tán giai vị thứ bảy, Viễn hành địa.[83] Địa vị này thành tựu hai trí,[84] phương tiện khéo léo vượt hơn tất cả, rộng tu các pháp lợi ích, tương xứng, thể hội với tâm Phật. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Thất địa.

8. Câu “dùng tâm từ để tu thân” là xưng tán Bát địa, tức là Bất động địa.[85] [Địa vị này] trí tuệ chân chánh không còn dao động, không ra ngoài ba cõi, thường dùng tâm từ để tu sửa thân, hiện vào trong năm đường [cứu khổ],[86] tu sửa miệng thuyết pháp [để giáo hóa chúng sanh], tu sửa tâm thiết lập phương tiện [để hóa độ chúng sanh]. Kinh Pháp hoa chân chánh trọn đủ tu sửa ba nghiệp. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Bát địa.

9. Câu “khéo thể nhập trí tuệ Phật” là xưng tán Cửu địa. Cửu địa có tên là Thiện tuệ địa.[87] [Địa vị này quán chiếu] vào sâu được thực tiễn, khéo thấu triệt căn nguyên nguồn gốc. Danh xưng này hết sức phù hợp với ý nghĩa [câu này], cho nên biết đây là xưng tán Cửu địa.

10. Câu “thông đạt trí tuệ lớn lao” là xưng tán Thập địa. Thập địa có tên là Pháp vân địa.[88] Pháp thân như hư không, thiền định như đám mây lớn, trí tuệ như cơn mưa lớn. Khéo thể nhập pháp Phật gọi là tuệ, khéo vận dụng pháp Phật gọi là trí. Do [tính chất] hỗ tương mà nêu [câu này để xưng tán Thập địa].

11. Câu “đạt đến bờ giải thoát” là xưng tán phẩm đức bên trong của [hàng Bồ Tát] Thập địa, đạt đến bờ Tam đế bên kia,[89] trong nhân nói được quả,[90] lại đạt đến chỗ ấy rồi cũng chẳng trụ lại lâu. [Do ý nghĩa đó nên biết câu này xưng tán phẩm đức bên trong của Bồ Tát Thập địa.]

12. Câu “danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới” là xưng tán phẩm đức bên ngoài của [hàng Bồ Tát] Thập địa. Do phẩm đức bên trong sâu rộng rãi nên danh tiếng được nghe biết đến ở khắp mọi nơi, đó là [phẩm đức] bên trong và bên ngoài tương xứng nhau.

Nếu mở rộng đến giai vị Đẳng giác[91] thì hai câu này cũng có thể được hiểu giống như vậy.

13. Câu “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh” [là xưng tán chung hết thảy Thập địa]. Các địa vị khác tuy cứu độ chúng sinh nhưng chỉ từ một pháp giới cho đến chín pháp giới, không gọi là “thường cứu độ”. [Bồ Tát] Thập Địa vượt hơn nên gọi là “thường cứu độ”. Những địa vị khác cũng đều có đầy đủ các công đức nhưng nay không đưa ra giải thích, vì lòng người thích sự khác lạ, y theo danh xưng của Thập địa là thuận tiện. Hơn nữa, ý nghĩa theo trình tự tu tiến thì dễ giải thích, nên mới đưa ra cách phân tích văn kinh như thế này.

Tiếp theo giải thích sự xưng tán theo cách mở rộng, chỉ lược nói về Sơ trụ, các giai vị khác đều dựa theo đây có thể giải thích được.

Sơ [trụ có tên là] Phát tâm trụ, một [tâm] phát khởi thì hết thảy [tâm] đều phát khởi, vượt ra khỏi hai bên phân biệt, chuyển phàm lên thánh, nhập vào Trung đạo, trong tâm vắng lặng dứt bặt, mỗi niệm đều lưu nhập biển tuệ nhất thiết trí,[92] cho nên nói là “không còn thối chuyển”.

Sơ trụ [là địa vị đã] ngăn chặn, lìa bỏ các tướng bám chấp cùng các che chướng vô tri, vô minh..., đạt được và duy trì các phẩm đức Bát-nhã, giải thoát, pháp thân..., cho nên nói là “đều đạt được đà-la-ni”.

[Hàng Bồ Tát] Thập tín với hiểu biết tương tự[93] mà còn có thể dùng âm thanh vi diệu vang khắp đại thiên thế giới,[94] huống chi là [Bồ Tát] chân thật đạt được công đức khẩu mật,[95] cho nên nói là “có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng”.

[Bồ Tát] Sơ trụ có thể phân thân hiện làm Phật ở trăm thế giới để làm Phật, nếu luận đến chỗ thật sự [hóa hiện] thì vô lượng vô biên. Vì có thể hiện thân làm Phật thuyết pháp giáo hóa, cho nên nói là “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển”.

[Bồ Tát] Sơ trụ đạt được thần lực không thể nghĩ bàn, có thể phụng sự chư Phật ở khắp các pháp giới, cho nên nói là “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật”.

[Bồ Tát] Sơ trụ đạt được căn bản của thật tướng, thường gieo trồng đủ các phước đức, [nên nói “ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức”.

[Bồ Tát] Sơ trụ khai mở tri kiến Phật, [khai mở] tri kiến rồi thì [nhận hiểu] pháp tương đồng với chư Phật, cho nên nói “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.

[Bồ Tát] Sơ trụ dùng đức từ vô duyên[96] hóa hiện sắc thân khắp mọi nơi, tương ứng các pháp giới, cho nên nói “dùng tâm từ để tu thân”.

[Bồ Tát] Sơ trụ nhập được vào kho tàng [giáo pháp] bí mật cho nên nói là “khéo thể nhập trí tuệ Phật”.

[Bồ Tát] Sơ trụ trong một tâm đạt được ba trí,[97] không còn gì có thể gây chướng ngại, cho nên nói là “thông đạt trí tuệ lớn lao”.

[Bồ Tát] Sơ trụ đối với các phần sự lý đều đã rốt ráo, cho nên nói rằng “đến bờ giải thoát”.

[Bồ Tát] Sơ trụ công đức tròn đầy chân thật tương xứng với danh xưng, cho nên nói “danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới”.

[Bồ Tát] Sơ trụ thường làm chỗ nương tựa, noi theo cho [chúng sanh] trong mười pháp giới, cứu giúp làm cho an ổn, cho nên nói là “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh”.

[Bồ Tát] Sơ trụ còn có vô lượng vô biên đủ loại công đức không thể nghĩ bàn, ở đây chỉ lược nói qua 13 câu kinh như vậy. Từ giai vị Nhị trụ [là Trị địa trụ] cho đến bậc Đẳng giác cũng đều [đầy đủ công đức] như vậy. Cho nên Đại phẩm nói rằng: “Từ chữ A ban đầu[98] có đủ 41 phẩm tính của chữ, đến chữ Trà ở sau cuối lại cũng đầy đủ các phẩm tính của chữ như vậy. [Những chữ] ở khoảng giữa cũng đều như vậy. Chữ như nhau, câu như nhau, phẩm tính cũng đều như nhau.”[99]

● Hỏi: “Phần này xưng tán phẩm đức đoạn hoặc. Tạng giáo không đoạn hoặc, nên có thể không xưng tán. Nhưng Thanh văn còn được xưng tán [việc thị hiện hình] tích, đến như Thông giáo, Biệt giáo vì sao chẳng xưng tán đức?”

● Đáp: “Thông giáo xưng tán chỗ [hình] tích nên mới có nghĩa này. Nhưng nay kinh [Pháp hoa] này chính là nêu rõ chỗ rốt ráo nên không xưng tán phương tiện.”

● Hỏi: “Vì sao những câu nói về công đức đều chỉ xưng tán [hàng Bồ Tát] Sơ trụ?”

● Đáp: “Các giai vị khác cũng đều như thế, đâu chỉ là riêng Sơ trụ.”

● [Hỏi:] “Các nhà luận giải xưa nói rằng Bát địa có nhiều công đức, điều đó không có gì để nghi. [Nhưng] nay Viên giáo xưng tán Sơ trụ không thiếu một công đức nào. Sơ trụ còn như vậy, huống chi các giai vị sau đó?”

● [Đáp:] Luận Pháp hoa[100] nói: Pháp môn phân chia trên dưới [chẳng qua chỉ là] tướng chung (tổng tướng) và tướng riêng (biệt tướng) mà thôi. Nên biết, câu mở đầu “không còn thối chuyển” là tướng chung. [Tướng chung] “không còn thối chuyển” này có mười cách thị hiện.

1. Nghe pháp không còn thối chuyển, tức là “đều đạt được đà-la-ni”.

2. Vui thích thuyết giảng không còn thối chuyển, tức là “có tài biện luận, vui thích thuyết giảng”.

3. Thuyết giảng không còn thối chuyển, tức là “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển”.

4. Nương theo thiện tri thức không còn thối chuyển, tức là “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật”, [cũng là] “ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức”.

5. Dứt trừ lòng nghi không còn thối chuyển, tức là “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.

6. Thể nhập không còn thối chuyển về sự, tức là “dùng tâm từ tu thân”.

7. Thể nhập cảnh giới như thật của trí tuệ rõ biết tất cả không còn thối chuyển, tức là “khéo thể nhập trí tuệ Phật”.

8. Nương theo [chỗ thấy biết] không có tự ngã, hết thảy các pháp tự thể đều là không nên không còn thối chuyển, tức là “thông đạt trí tuệ lớn lao”.

9. Thể nhập cảnh giới như thật không còn thối chuyển, tức là “đến bờ giải thoát”.

10. Làm được những việc nên làm không còn thối chuyển, tức là “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh”.

Cho nên, câu mở đầu [“không còn thối chuyển”] đó là tướng chung, thuộc về pháp trên. Tiếp theo những câu còn lại là tướng riêng, thuộc về pháp dưới. Trong phần giảng giải theo cách mở rộng xưng tán các công đức của [hàng Bồ Tát] Sơ trụ cũng là tương đồng với ý này.

Luận [Pháp hoa] lại nói: “Thứ hai là pháp môn thâu nhiếp mọi sự việc.[101] [Đây là nói việc] chư Bồ Tát [tùy theo trường hợp mà lựa chọn] an trụ ở những địa vị thanh tịnh nào, vận dụng những phương tiện nào, ở những cảnh giới nào, nên làm những việc gì.” Nếu theo nghĩa này thì việc xưng tán công đức chư Bồ Tát theo trình tự tu tiến từ thấp lên cao cũng không có gì trở ngại.

Theo quán tâm giải thích về sự xưng tán đức thì ý nghĩa “không còn thối chuyển” cũng giống như đã nói.

Về ý nghĩa đà-la-ni thì quán không là Toàn Đà-la-ni, quán giả là Bá thiên [vạn ức] Toàn Đà-la-ni, quán trung [đạo] là Pháp âm phương tiện Đà-la-ni.[102]

Lại nữa, theo pháp quán không để quán tâm thì thấy [tâm] chỉ là tên gọi, đó là Văn trì Đà-la-ni. Theo pháp quán giả để quán tâm thì trong vô lượng tâm, hết thảy các pháp tâm vương, tâm sở đều là pháp môn, đó là Hành trì Đà-la-ni. Theo pháp quán trung [đạo] để quán tâm thì tâm tức là thật tướng, đó là Nghĩa trì Đà-la-ni.

[Về ý nghĩa “có tài biện luận, vui thích thuyết giảng”, thì] theo pháp quán giả để quán tâm thì [tâm] có đủ các pháp trong mười pháp giới, tức là Pháp vô ngại biện. Theo pháp quán trung để quán tâm thì mười pháp giới đều thể nhập thật tướng, tức là Nghĩa vô ngại biện. Theo pháp quán không để quán tâm thì mười pháp giới chỉ là tên gọi, lời nói, tức là Từ vô ngại biện.

[Lại nữa,] quán một tâm tức là ba tâm, ba tâm tức là một tâm, một cảnh giới là hết thảy cảnh giới, xoay chuyển không ngăn ngại, đó là Nhạo thuyết vô ngại biện.

[Về ý nghĩa “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển” thì] quán không là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về giai vị, quán giả là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về công hạnh, quán trung là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về niệm lực.

[Về ý nghĩa “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật” thì] cúng dường Phật là thị hiện tùy thuận lời Phật dạy. Ngày nay [chúng ta] theo lời Phật dạy tu ba pháp quán tâm,[103] đó là cúng dường Phật. Phá năm trụ địa[104] nên được giải thoát, đó là cúng dường Pháp. Dung hòa lẽ Tam đế[105] tức là cúng dường Tăng.

Lại nữa, các tâm công hạnh giúp [phát triển] tâm quán chiếu với trí tuệ, tức là cúng dường Phật. Tâm quán với trí tuệ khai mở cảnh giới, tức là cúng dường Pháp. Dung hòa được cảnh, trí và tâm, tức là cúng dường Tăng.

[Về ý nghĩa “ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức” thì] tâm thật tướng là gốc của tâm quán với trí tuệ, tâm quán với trí tuệ là gốc của các tâm công hạnh. Nắm chắc được gốc rồi thì sẽ trồng lên được cây, cho nên nói là “gieo trồng các gốc công đức”.

[Về ý nghĩa “được chư Phật ngợi khen xưng tán” thì] tâm quán chiếu với trí ngấm ngầm dò sâu nơi cảnh giới, cảnh giới ghi lại dấu ấn nơi trí quán chiếu. Trí có sự quán chiếu thường [rõ biết] hợp với cảnh giới, đó là “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.

[Về ý nghĩa “dùng tâm từ tu thân” thì tu tập] quán không là sự huân tập của tâm từ pháp duyên, quán giả là sự huân tập của tâm từ chúng sinh duyên, quán trung là sự huân tập của tâm từ vô duyên.

[Về ý nghĩa “khéo thể nhập trí tuệ Phật” thì tu tập] quán không nhập vào trí tuệ Phật theo Thông giáo, quán giả nhập vào trí tuệ Phật theo Biệt giáo, quán trung nhập vào trí tuệ Phật theo Viên giáo.

[Về ý nghĩa “đến bờ giải thoát” thì tu tập] quán không đến bờ giải thoát Nhất thiết trí, quán giả đến bờ giải thoát Đạo chủng trí, quán trung đến bờ giải thoát Nhất thiết chủng trí.

[Về ý nghĩa “danh xưng được nghe biết khắp” thì tu tập] quán Không nghe nơi Chân đế, quán giả nghe nơi Tục đế, quán trung nghe được khắp đệ nhất nghĩa đế của Trung đạo, lại cũng nghe khắp cả Tam đế.

[Về ý nghĩa “thường cứu độ trăm ngàn chúng sanh” thì tu tập] quán không quán cứu độ trăm ngàn chúng sinh khỏi bốn trụ địa phiền não, quán giả cứu độ trăm ngàn chúng sinh khỏi trần sa phiền não, quán trung cứu độ trăm ngàn chúng sinh khỏi vô minh.

[Tu tập đạt được] trong một tâm đủ ba pháp quán[106] có vô lượng công đức, xưng tán không thể cùng tận, chỉ lược nói qua như vậy.

KINH VĂN

Danh hiệu của các vị là: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đắc Đại Thế, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bất Hưu Tức, Bồ Tát Bảo Chưởng, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Bảo Nguyệt, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Mãn Nguyệt, Bồ Tát Đại Lực, Bồ Tát Vô Lượng Lực, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Bạt-đà-bà-la, Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Bảo Tích, Bồ Tát Đạo Sư... Các vị Đại Bồ Tát như vậy, cả thảy 80.000 vị cùng tham dự pháp hội.

5. Danh hiệu

Danh hiệu lớn lao của các bậc đại sĩ, hoặc dựa theo pháp môn tu tập, hoặc dựa theo công hạnh đức độ, hoặc dựa theo bản nguyện [của mỗi vị]. Tuy là một tên gọi nhưng có đủ vô lượng nghĩa. Nay dựa theo kinh điển, dựa theo sự quán xét để phân tích ý nghĩa danh hiệu của 18 vị Bồ Tát.

Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi

Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Đức. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn[107] nói: “Thấy rõ ràng tánh Phật, như Bồ Tát Diệu Đức.” Kinh Vô hành[108] gọi là Mãn-thù-thi-sư-lợi.[109] Kinh Phổ Siêu gọi là Nhu thủ.[110] Kinh Tư ích nói: “Tuy giảng thuyết các pháp mà chẳng khởi tướng pháp, chẳng khởi tướng không phải pháp. Cho nên gọi là Diệu Đức.”[111]

Kinh Bi Hoa chép [lời nguyện của Bồ Tát trước đức Phật Bảo Tạng] rằng: “‘Nguyện khi con thực hành đạo Bồ Tát, những chúng sinh được con giáo hóa trong khắp mười phương được thành Chánh giác trước con, nguyện cho con có thể dùng thiên nhãn nhìn thấy tất cả. Quốc độ của con khi ấy chỉ toàn là các Bồ Tát nhất sinh [bổ xứ], đều là những người do con khuyên bảo mà phát tâm đạo. Con thực hành đạo Bồ Tát không có hạn kỳ.’ Phật Bảo Tạng nói: ‘Ông tạo công đức hết sức sâu xa, lại phát nguyện sẽ được quốc độ nhiệm mầu, nên nay ta đặt tên cho ông là Văn-thù-sư-lợi. Ông sẽ thành Phật tại thế giới Hoan Hỷ ở phương bắc, hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma-ni Bảo Tích Phật.’”[112] Cho đến hiện nay [chúng sanh] được nghe danh hiệu liền dứt trừ bốn tội nặng. Ngài thị hiện làm Bồ Tát để góp phần [trong việc hoằng hóa của] đức Phật Thích-ca.

Giải thích theo quán tâm thì về tánh và lý, cả ba công đức bí mật [của thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp][113] đều chẳng đồng chẳng khác, không trước không sau,[114] nên gọi là Diệu Đức.

Bồ Tát Quán Thế Âm

Quán Thế Âm, tên Phạn ngữ [phiên âm] là Bà-lũ-cát-để-thuế (Avalokiteśvara). Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sinh nào được gặp [Bồ Tát] thì tức thời quyết định sẽ đạt được giác ngộ. Những chúng sinh nào xưng niệm danh hiệu ngài đều được thoát khỏi những sự khổ nạn, nên có tên là Quán Âm.”[115]

Kinh Bi Hoa chép [lời nguyện của Bồ Tát trước đức Phật Bảo Tạng] rằng: “Nếu có chúng sinh nào khi chịu các sự khổ não, xưng danh hiệu con, nhớ nghĩ đến con, được con dùng thiên nhĩ để nghe, thiên nhãn để thấy rồi, không được thoát khổ thì con không thành Chánh giác.” Đức Phật Bảo Tạng Phật nói: “Ông quán sát hết thảy chúng sinh, khởi sinh tâm đại bi, nay đặt tên cho ông là Quán Thế Âm.”[116] Phần tiếp theo tự giải thích được ý nghĩa danh hiệu [Quán Thế Âm]:[117] Giải thích theo quán tâm thì Tam trí[118] là “quán”, Tam đế[119] là “thế”, Tam quán[120] là gốc của ngôn ngữ nên gọi là “âm”.

Bồ Tát Đắc Đại Thế

[Về Bồ Tát] Đắc Đại Thế, kinh Tư ích nói: “Khi ta đặt chân đến nơi nào thì chấn động đại thiên thế giới cùng những cung điện của ma. Cho nên có tên là Đại Thế Chí.”[121]

Kinh Bi Hoa [chép lời nguyện của Bồ Tát Đắc Đại Thế trước đức Phật Bảo Tạng rằng]: “Nguyện cho thế giới của con cũng giống như của Bồ Tát Quán Thế Âm, chẳng có gì khác.” Đức Phật Bảo Tạng nói: “Do ông phát nguyện được cõi thế giới lớn lao, nên đặt tên cho ông là Đại Thế Chí.”[122]

Giải thích theo quán tâm thì Tam chỉ[123] là chân, đặt vào đất Tam đế[124] thì chấn động mười pháp giới, hết thảy nơi nào có kiến ái phiền não đều phải nghiêng ngả rúng động. Đại lược là như vậy.

Bồ Tát Bất Hưu Tức

[Về Bồ Tát Bất Hưu Tức,][125] kinh Tư ích nói: “Nếu lấy số kiếp nhiều như cát sông Hằng làm một ngày đêm, rồi 30 ngày như vậy là một tháng, 12 tháng là một năm, trải qua trăm ngàn ức ức kiếp như thế mới được gặp một vị Phật, [lại trải qua thời gian dài] cho đến gặp được chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, thường tu hành các hạnh thanh tịnh, tu tập các công đức, sau đó mới được thụ ký. [Trong suốt thời gian đó] tâm chẳng dừng nghỉ, nên có tên là Bất Hưu Tức.”[126]

Giải thích theo quán tâm thì quán không chẳng trụ nơi không, ra khỏi [cảnh] giả chẳng trụ nơi giả mà thể nhập trung đạo cũng chẳng trụ nơi trung đạo, cùng lúc quán chiếu nhị đế, đó gọi là Bất Hưu Tức.

Bồ Tát Bảo Chưởng

Kinh Phổ siêu[127] nói: “Mặc áo giáp đức hạnh cho đến khi đạt trí tuệ Phật, không gì có thể cản trở phá hoại làm cho từ bỏ Đại thừa,[128] dù trong giấc mộng cũng không hướng theo Nhị thừa. Thường dùng tâm chân thật và các tâm thông tuệ để vì người khác mà tuyên thuyết, giảng nói. Đối với trân bảo tâm không tham tiếc. Cho nên có tên là Bảo Chưởng.”[129]

Giải thích theo quán tâm thì Tam đế không thể nghĩ bàn gọi là Bảo, trong một tâm có đủ ba quán gọi là Chưởng. Dùng Chưởng của quán như vậy để nắm giữ Bảo của đế như vậy, lợi mình lợi người, cho nên gọi là Bảo Chưởng.

Bồ Tát Dược Vương

Kinh Bi Hoa [kể chuyện người đệ tử nhỏ nhất của Phạm chí Bảo Hải tên là Trì Lực Tiệp Tật phát nguyện trước Phật Bảo Tạng] rằng: “Nguyện trong Hiền kiếp có 1004 vị Phật, con đều xin cúng dường ngay từ khi mỗi đức Phật vừa thành đạo. Khi chư Phật ấy nhập diệt, con đều xây tháp phụng thờ mỗi vị. Vào lúc Kiếp tận, [chúng sinh chịu] khổ não con đều sẽ cứu giúp. Khi có nạn đao binh dịch bệnh, con sẽ làm Đại y vương [chữa trị cho chúng sanh], rồi sau đó mới thành Phật.” Khi ấy, đức Phật Bảo Tạng nói: “[Theo đại nguyện của ông] nên nay đặt tên cho ông là Hỏa Tịnh Dược Vương. Sau này thành Phật hiệu là Lâu Chí Như Lai.”[130] Theo quán tâm giải thích thì đại lược là như vậy.

Từ đây, phần giải thích có lược bớt 7 vị Bồ Tát.[131]

Bồ Tát Bạt-đà-la

Bồ Tát Bạt-đà-bà-la (Bhadrapāla), Hán dịch là Thiện Thủ, cũng còn gọi là Hiền Thủ.

Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sinh nào được nghe danh hiệu [Bồ Tát này], nhất định đều sẽ thành Chánh giác, cho nên có danh hiệu là Thiện Thủ.”[132]

Theo quán tâm thì giải thích rằng: “Phép quán Trung đạo chân chánh là đứng đầu trong các việc lành, cho nên gọi là Thiện Thủ.”

Bồ Tát Di-lặc

Bồ Tát Di-lặc (Maitreya), Hán dịch là Từ Thị. Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sinh nào gặp [Bồ Tát] liền được pháp Tam-muội Từ tâm, cho nên gọi là Từ Thị.”

Kinh Hiền ngu nói: “Đức vua nhìn thấy người dạy voi liền khởi sinh tâm từ, từ đó có tên là Từ Thị.”

Kinh Bi Hoa nói: “Phát nguyện trong kiếp đao binh hỏa tai cứu hộ chúng sinh.”

Nay giải thích theo quán tâm,quán Trung đạo chân chánh là vô duyên đại từ. Sức mạnh căn lành của tâm từ làm cho các tâm sở đều nhập vào đồng thể đại từ, trong các pháp lìa khỏi mọi điều bất thiện, cho nên gọi là Từ Thị.

Lại nói rằng Từ là họ [của Bồ Tát], còn tên là A-dật-đa, Hán dịch là Vô Thắng. Phần tiếp theo đại lược là như vậy.

Chỗ này lược bớt không giải thích về [danh xưng Bồ Tát] Bảo Tích.

Bồ Tát Đạo Sư

Bồ Tát Đạo Sư,[133] trong kinh Tư ích nói rằng: “Đối với những chúng sinh sa đọa vào đường tà, [Bồ Tát] sinh tâm đại bi cứu giúp đưa vào chánh đạo, chẳng cầu sự báo ân, nên có tên là Đạo Sư.”[134]

Giải thích theo quán tâm thì trí tuệ nhiệm mầu của ba pháp quán [không, giả, trung] dẫn dắt hết thảy mọi hành vi, không rơi vào [phân biệt] hai bên, đều nhập vào chánh quán, cho nên gọi là Đạo Sư.

Đối với [một số danh xưng của] các vị trong phần này chưa giải thích, đợi đến phần sau sẽ quay lại giải thích.

6. Kết lại

Từ chữ “như thị” trở đi[135] là câu văn kết lại phần này.

___________________________________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Chỗ này làm rõ thêm sự tồn nghi về số lượng các vị A-la-hán, vì nếu số lượng các vị được ít người biết đến là 2.000 vị, thì không thể nào những vị nổi tiếng, nhiều người biết đến hơn lại đến 12.000. Cho nên số lượng 1.200 là hợp lý hơn.

[2] Văn Cú Ký giải thích chỗ này nói công dụng và vô công dụng là xét theo các trụ địa trước hoặc sau.

[3] Văn Cú Ký giải thích cụ túc hay chưa cụ túc là nói các địa vị Đẳng giác, Diệu giác.

[4] Câu hỏi này của ngoại đạo là muốn hỏi khó, vì quả vị A-la-hán vốn được gọi là Vô học, nên ở đây chất vấn vì sao các vị vẫn còn phải tiếp tục theo Phật học pháp.

[5] Trong câu trả lời, đức Phật giải thích rõ ý nghĩa vô học.

[6] Ngũ phương tiện của tông Thiên Thai bao gồm: 1. Xưng danh vãng sinh niệm Phật tam muội môn; 2. Quán tướng diệt tội niệm Phật tam muội môn; 3. Chư cảnh duy tâm niệm Phật tam muội môn; 4. Tâm cảnh câu ly niệm Phật tam muội môn; 5. Tính khởi viên thông niệm Phật tam muội môn.

[7] Theo giáo lý tông Thiên Thai thì có 10 pháp giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, cõi người, cõi trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật. Trong mỗi pháp giới này lại có đủ 10 pháp giới như vậy, hình thành 100 pháp giới (bách giới). Mỗi pháp giới lại có đủ 10 loại sự lý (thập như thị) là tướng, tính, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, bản mạt cứu cánh, như vậy trong 100 pháp giới có đủ 1.000 như thị (bách giới thiên như). Lại quán sắc và tâm trong mỗi như thị nên đủ số 2.000.

[8] Kinh văn ở đây dùng chữ “quyến thuộc” nhưng không theo nghĩa thế tục, mà là để chỉ các vị tỳ-kheo-ni tu tập dưới sự dẫn dắt của các vị này, cho nên chúng tôi dịch là ni chúng.

[9] Phần trước sau khi trình bày các vị tỳ-kheo thì kết lại bằng câu “chúng sở tri thức” (mọi người đều biết đến), cho nên xác định được là nhiều người biết đến. Phần nói về chúng tỳ-kheo-ni không có câu văn này nên không dựa vào đâu để phân chia việc nhiều hay ít người biết đến các vị.

[10] Câu này là biện bác về cách chú giải trước đây, theo đó phân chia chúng tỳ kheo ở trước là đại danh văn (nhiều người biết), tiểu danh văn (ít người biết) và gọi chúng tỳ-kheo-ni là vô danh văn (không có danh tiếng, không ai biết đến).

[11] Kinh Thập nhị du (十二 遊經), gọi đầy đủ là Phật thuyết Thập nhị du kinh (佛說十二 遊經) (ĐCT, T4, 195).

[12] Kinh Vị tằng hữu, tức Phật thuyết Vị tằng hữu nhân duyên kinh (佛說未曾有因緣經) (ĐCT, T17, 754). Tuy nhiên, đúng ra thì trong kinh này nói La-hầu-la là con của bà Da-du-đà-la. Khi đức Phật sai ngài Mục-kiền-liên về thành Ca-tỳ-la để vấn an phụ vương, ngài cũng dặn dò: “因復慰喻羅睺羅母耶輸陀羅。令割恩愛放羅睺羅令作沙彌。 Nhân phục ủy dụ La-hầu-la mẫu Da-du-đà-la, linh cát ân ái phóng La-hầu-la linh tác sa-di.” (tr.575b, d.24-25) Kinh Thụy ứng, tức Phật thuyết Thái tử thụy ứng bản khởi kinh (佛說太子瑞應本起經) (ĐCT, T3, 185). Kinh này kể cả tiền thân đức Phật khi mua hoa của cô gái tên Cù-di và kết thành nhân duyên vợ chồng từ đó, cho đến khi ngài đản sinh là thái tử Tất-đạt-đa vẫn gặp lại và kết thành vợ chồng. Chúng tôi e rằng kinh này gọi tên người mẹ La-hầu-la là Cù-di chỉ vì muốn sử dụng tên của bà trong tiền thân vừa kể ở trước.

[13] Vì trong ba vị phu nhân thì Cù-di là thứ nhất, tức có địa vị lớn nhất, nên gọi là đại mẫu của La-hầu-la.

[14] Cù-tỳ-đà (瞿毘陀), tức Cù-tỳ-la (瞿毘羅), cô bảo nữ đã nhắc đến ở phần trước khi nói về nỗi oan của Da-du-đà-la.

[15] Nguyên tác dùng “bác địa - 博地“ chỉ cõi người, nhân gian, trong ngữ cảnh này ý nói người phàm, không có quả vị tu tập.

[16] Pháp hoa văn cú ký giải thích rằng, phu nhân Lộc-dã không sinh con nên nêu ra trong quán không, phu nhân Da-du-đà-la có sinh con nên nêu ra trong quán giả, phu nhân Cù-di có địa vị cao nhất trong ba người nên nêu ra trong quán trung đạo.

[17] Lạc (酪): sữa được nấu cho đặc lại thành cao sữa, sữa đặc. Ở đây hàm ý từ một nguyên liệu ban đầu (sữa) đã được chuyển thành một sản phẩm có chất lượng tốt đẹp hơn nhiều (lạc).

[18] Phương đẳng: chỉ giáo pháp Đại thừa.

[19] Nguyên tác dùng Ma-ha-diễn (摩呵衍), phiên âm từ chữ Mahā-yāna để chỉ giáo pháp Đại thừa.

[20] Nguyên tác dùng “半字法 - bán tự pháp” (pháp như nửa chữ), chỉ các pháp quyền thừa, chưa trọn nghĩa, chưa phải nghĩa rốt ráo trọn vẹn. Đây là lấy theo cách dùng trong kinh Đại Bát Niết-bàn. Bán tự (nửa chữ) là pháp chưa rốt ráo, mãn tự (trọn chữ) là pháp rốt ráo.

[21] Nguyên tác dùng “四枯雙樹 - tứ khô song thọ“ (bốn cây khô mọc sóng đôi), dựa theo ý nghĩa câu chuyện sau khi đức Phật nhập Niết-bàn thì trong 8 cây sa-la mọc sóng đôi quanh chỗ Phật nhập diệt có 4 cây khô héo, bốn cây tiếp tục tươi tốt. Bốn cây khô héo là biểu trưng cho bốn pháp mà Phật đã dạy sẽ không còn phát triển. Đó là các pháp: khổ, không, vô thường và vô ngã. Bốn cây tiếp tục tươi tốt là biểu trưng cho bốn pháp sẽ tiếp tục phát triển. Đó là các pháp: thường, lạc, ngã và tịnh. Điều này có nghĩa là các pháp quyền thừa đã qua giai đoạn dẫn dắt, không còn nhiều lợi ích nữa sau khi đức Phật đã thuyết dạy các pháp rốt ráo.

[22] Nguyên tác dùng “半滿法 - bán mãn pháp”. Mãn pháp là pháp trọn vẹn, rốt ráo, nhưng ở đây chưa hoàn toàn rốt ráo nên gọi là “bán mãn pháp”.

[23] Nhị thừa chỉ hai thừa Thanh văn và Duyên giác. Nguyên tác dùng chữ “獨善 - độc thiện” là cách nói của Nho gia để chỉ khuynh hướng chỉ tập trung vào việc hoàn thiện riêng bản thân mình mà không quan tâm đến cộng đồng, đến người khác. Ở đây chỉ đến khuynh hướng tu tập của hàng Nhị thừa chỉ nhằm giải thoát tự thân, không chú trọng nhiều đến việc giáo hóa chúng sinh, cho nên gọi là nhỏ hẹp.

[24] Nguyên tác là “四榮雙樹 - tứ vinh song thụ” (bốn cây tươi tốt mọc sóng đôi). Ý nghĩa đã được giải thích ở phần trên. Bốn cây tươi tốt này biểu trưng cho các pháp thường, lạc, ngã, tịnh.

[25] Nguyên tác dùng “常住滿字 - thường trụ mãn tự”, chỉ giáo pháp thường trụ viên mãn, rốt ráo trọn vẹn.

[26] Nguyên tác là “非枯非榮 - phi khô phi vinh”, có nghĩa là phủ nhận cả hai trường hợp vừa nêu ở trước để đạt đến ý nghĩa chân thật rốt ráo viên mãn.

[27] Nguyên tác là “主將之功畢 - chủ tướng chi công tất” (công việc của vị chủ tướng đã hoàn tất). Theo hình ảnh so sánh được dùng trong ngữ cảnh này, chủ tướng chính là đức Phật ra đời và công việc ở đây là sự giáo hóa chúng sinh.

[28] Nguyên tác dùng chữ “化 - hóa” để chỉ sự nhập diệt, diệt độ, xả bỏ báo thân.

[29] Tâm sở (心所), chỉ các tâm niệm khác nhau khởi sinh tương ứng với các tâm lý khác nhau. Nguyên tác Văn Cú dùng theo cách gọi cũ là tâm sổ (心數) với cùng ý nghĩa, nhưng về sau không ai dùng như vậy nữa mà chỉ dùng tâm sở (心所).

[30] Theo Pháp hoa văn cú ký thì hai tâm sở ỷ (猗) và giác (覺) tương đương với tàm (慚) và quý (愧) theo Tân dịch.

[31] Tức 10 đại địa pháp (大地法), Phạn ngữ là mahābhūmikā-dharma, chỉ mười tác dụng tâm lý tương ưng và đồng sinh khởi với tâm vương.

[32] Khác với các thiện tâm sở như đã kể trên chỉ kết hợp với các tâm thiện, các thông tâm sở (通心數) này có thể kết hợp với cả tâm thiện hoặc tâm xấu ác (bất thiện) nên gọi là thông.

[33] Tâm sở ở đây là nói các thông tâm sở thiện, tức là 10 thông tâm sở vừa kể trên kết hợp với tâm thiện.

[34] Nguyên tác dùng “Phổ Hiền quán”, chỉ đến kinh Phật thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát hành pháp (佛說觀普賢菩薩行法經). Đoạn trích này trong kinh có thứ tự ngược lại và nằm cách xa nhau: “我心自空罪福無主... 觀心無心法不住法。 - Ngã tâm tự không tội phúc vô chủ... Quán tâm vô tâm pháp bất trụ pháp.” (ĐCT, T9, 277, tr.392c, d.26-28)

[35] Ý nghĩa ở đây là việc hóa độ chúng sinh chính là dứt trừ các tâm sở trần lao phiền não, cho nên khi chưa dứt hết thì chưa thành Chánh giác.

[36] Bốn chúng xuất gia và tại gia: chỉ bốn chúng gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc (cư sĩ nam) và ưu-bà-di (cư sĩ nữ).

[37] Theo một cách hiểu phổ biến hơn thì bồ-đề (bodhi) được dịch là giác ngộ, tỉnh thức và tát-đỏa (sattva) được dịch là chúng sinh hay hữu tình.

[38] Thông, biệt và viên chỉ các giai vị Bồ Tát theo Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Riêng chữ thiên (偏) có nghĩa là thiên lệch, có thể chỉ các vị Bồ Tát tiền Thông giáo, được xem là căn cơ chậm lụt, tương đương với các hành giả Tiểu thừa thuộc Tạng giáo.

[39] Đoạn này dẫn theo Diệu Pháp Liên Hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義), thuộc ĐCT, T33, 1716, trang 703b, d.8 và 9. “大品云。有菩薩初發心與薩婆若相應。” Phần trích dẫn thiếu chữ “初 - sơ“ để chỉ vị Bồ Tát mới phát tâm. Hai chữ “薩婆 – tát-bà” được phiên âm từ Phạn ngữ sarva, có nghĩa là “hết thảy, dành cho tất cả”, trong ngữ cảnh này được hiểu là bình đẳng, thấy biết tất cả các pháp đều bình đẳng.

[40] Văn Cú ký cho rằng ở đây sữa đặc (lạc) là muốn chỉ hàng Bồ Tát Thông giáo. Theo đây suy ra thì ví dụ trước nói chuyển “máu thành sữa” là để chỉ hàng Bồ Tát tiền Thông giáo hay Bồ Tát phát tâm vẫn còn thiên lệch.

[41] Tương tự như câu trên, câu này vẫn dẫn hoàn toàn theo Diệu Pháp Liên Hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義) và cũng thiếu chữ “sơ”. Nguyên văn là: “有菩薩初發心如遊戲神通淨佛國土。” (Sách đã dẫn, trang 703b, d.9 và 10)

[42] Kinh Tịnh danh (淨名), tức kinh Duy-ma-cật sở thuyết (維摩詰所說經), thuộc ĐCT, T14, 475.

[43] Trong kinh Duy-ma-cật gọi là các vị Bồ Tát “新發意 - tân phát ý”, cũng tức là sơ phát tâm.

[44] Nội dung trích dẫn này là lấy từ phẩm Bất Tư Nghị (không thể nghĩ bàn). Trong đoạn kinh này, ngài Duy-ma-cật hiện thần lực đưa 32.000 tòa ngồi hết sức cao rộng về gian tịnh thất của ngài, khiến các vị đệ tử Thanh văn và hàng Bồ Tát mới phát tâm đều không thể lên ngồi được. Khi ấy, Duy-ma-cật hướng dẫn các vị này đảnh lễ đức Phật Tu-di Đăng Vương, sau đó liền có thể biến thân hình to lớn tương đương để có thể lên ngồi trên các tòa cao đó. (於是新發意菩薩及大弟子即為須彌燈王如來作禮,便得坐師子座 – Ư thị tân phát ý Bồ Tát cập đại đệ tử tức vi Tu-di Đăng Vương Như Lai tác lễ, tiện đắc tọa sư tử tòa.”

[45] Đây là nói trong lúc ngài Duy-ma-cật thị hiện thuyết giảng giáo pháp, các vị Bồ Tát sơ phát tâm (cũng như các đại đệ tử Thanh văn) có nhiều lần chịu lắng nghe những lập luận chê trách của ngài Duy-ma-cật, mục đích là để hiển dương giáo pháp Đại thừa.

[46] Văn Cú Ký giải thích rằng ở đây sinh tô và thục tô được dùng để ví như hàng Bồ Tát thuộc Biệt giáo.

[47] Nguyên tác dùng “道樹 - đạo thọ” chỉ cây bồ-đề, vì chữ bồ-đề được dịch thành chữ đạo.

[48] Tương tự những câu trên, câu này cũng dẫn theo Diệu Pháp Liên Hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義) nhưng trình bày lại ý này khác hơn và cũng thiếu chữ “sơ”. Nguyên văn là: “有菩薩初發心即坐道場為如佛。 - Hữu Bồ Tát sơ phát tâm tức tọa đạo trường vi như Phật.” (Có Bồ Tát vừa mới phát tâm đã ngồi nơi đạo trường làm được như Phật.)

[49] Văn Cú Ký giải thích rằng đề hồ ở đây được dùng để ví với hàng Bồ Tát thuộc Viên giáo.

[50] Nguyên văn trong kinh Pháp hoa: “菩薩聞是法,疑網皆已除 – Bồ Tát văn thị pháp, nghi võng giai dĩ trừ.” (ĐCT, T9, 262, tr.10a, d.20).

[51] Đoạn này chỉ dẫn theo ý kinh. Nguyên văn kinh đoạn này là: “多有人在家、出家行菩薩道,若不能得見聞、讀誦、書持、供養是法華經者,當知是人未善行菩薩道;若有得聞是經典者,乃能善行菩薩之道。 - Đa hữu nhân tại gia, xuất gia hành Bồ Tát đạo, nhược bất năng đắc kiến văn, độc tụng, thư trì, cúng dường thị Pháp hoa kinh giả, đương tri thị nhân vị thiện hành Bồ Tát đạo, nhược hữu đắc văn thị kinh điển giả, nãi năng thiện hành Bồ Tát chi đạo.” (ĐCT, T9, 262, tr.31c, d.3 - d.6.)

[52] Ở đây dùng lại các ví dụ so sánh trên để nói, bốn vị của sữa chế thành là ví như các giai vị của hàng Bồ Tát, một vị đề hồ ngon nhất, quý nhất là ví như quả Phật.

[53] Nguyên tác dùng “鎚碪 - chùy châm” (búa và đe). Văn Cú Ký giải thích rằng ở đây so sánh đức Phật ra đời giáo hóa với sự giúp sức của chư Bồ Tát giống như búa và đe phối hợp nhau để có thể rèn các chất liệu thô thành khí cụ hữu dụng. (ĐCT, T34, 1719, tr.182c, d.14 -17)

[54] Nguyên tác dùng “高山先照 - cao sơn tiên chiếu”, chỉ hàng lợi căn đốn ngộ, khi gặp Phật pháp thì ngộ đạo trước tiên, lấy ý từ kinh Hoa nghiêm được dẫn lại trong Ma-ha Chỉ quán, quyển 1: “Ví như mặt trời mọc lên, trước hết chiếu sáng trên núi cao, tiếp đến chiếu nơi hang núi, cuối cùng mới chiếu sáng đồng bằng. Đồng bằng ví như chúng sinh chưa biết đạo, hang núi ví như hàng tiệm tu, núi cao là hàng căn cơ đốn ngộ.”

[55] Năm trụ trần lao: tức năm trụ địa, bao gồm bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới), Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới) và Vô minh trụ địa (hết thảy vô minh trong Tam giới). Năm yếu tố này là căn bản khởi sinh của tất cả phiền não nên gọi là năm trụ địa hay năm trụ trần lao.

[56] Ở đây giải thích ba ý trong danh xưng Đại Bồ Tát (Ma-ha Bồ-đề-tát-đỏa). Chữ tát-đỏa được dịch là “chúng sanh” thay vì dịch là “tâm” như ở đoạn trước.

[57] A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (阿耨多羅三藐三菩提), phiên âm từ Phạn ngữ Anuttara-samyak-saṃbodhi, thường được dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ quả vị Phật.

[58] Cảnh diệu (境妙), cảnh nhiệm mầu vi diệu, chỉ đối tượng của trí là cảnh bên ngoài. Đây là một trong Thập diệu theo cách giảng giải của Đại sư Trí Khải về kinh Pháp hoa. Cảnh được thuyết giảng trong kinh Pháp hoa là mầu nhiệm, vi diệu so với được thuyết giảng trong các kinh trước đó, cho nên nói là cảnh diệu. Theo Tích môn của tông Thiên Thai thì 14 phẩm đầu của kinh Pháp hoa là nói về Thập diệu, bao gồm: cảnh diệu, trí diệu, hạnh diệu, vị diệu, tam pháp diệu, cảm ứng diệu, thần thông diệu, thuyết pháp diệu, quyến thuộc diệu và lợi ích diệu. Ở đây dẫn các nghĩa này để nói về Vô thượng đạo.

[59] Vị diệu (位妙), quả vị nhiệm mầu vi diệu, là thứ tư trong Thập diệu đã nói trên.

[60] Tâm thứ sáu (六心) tức địa vị thứ sáu trong Thất gia hành vị, bao gồm: 1. Ngũ đình tâm vị; 2. Biệt tướng niệm trụ vị; 3. Tổng tướng niệm trụ vị; 4. Noãn pháp vị; 5. Đỉnh pháp vị; 6. Nhẫn pháp vị; 7. Thế đệ nhất pháp vị. Đây cũng được gọi là Thất phương tiện vị.

[61] Nguyên tác là “輕毛菩薩 - khinh mao Bồ Tát”, theo ý nghĩa cho rằng hàng Bồ Tát ở giai đoạn này công phu chưa vững chãi, vẫn còn dễ bị dao động theo ngoại cảnh, giống như chiếc lông rất nhẹ (khinh mao) dễ dàng bị thổi bay theo chiều gió.

[62] Nguyên tác là “信根未立 - tín căn vị lập”, nghĩa là niềm tin căn bản còn chưa được thiết lập vững chãi.

[63] Nguyên tác dùng “地師- Địa sư” chỉ các luận sư của phái Địa luận (地論宗), một trong 13 tông phái chính tại Trung Hoa. Tông phái này xây dựng học thuyết dựa trên Thập địa kinh luận (十地經論), cũng thuộc về Đại thừa. Những vị truyền bá, giảng dạy học thuyết, tư tưởng của tông phái này được gọi là Địa luận sư (地論師) hay Địa sư (地師), đôi khi cũng gọi là Địa nhân (地人).

[64] Đây là dẫn theo 52 giai vị tuần tự tu tiến của hàng Bồ Tát theo kinh Thủ-lăng-nghiêm, bao gồm Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác.

[65] Kinh Anh lạc, tức Bồ Tát Anh lạc kinh (菩薩瓔珞經).

[66] Ba pháp quán (tam quán), tức quán Không, quán Giả và quán Trung đạo.

[67] Nguyên tác là “舊云 - cựu vân” (trước đây nói rằng). Cựu ở đây chỉ các nhà cựu giải, những vị đã luận giải kinh Pháp hoa từ trước đó.

[68] Mười hai câu này theo kinh văn là bắt đầu từ câu “皆得陀羅尼 - giai đắc đà-la-ni” cho đến câu thứ mười hai là “能度無數百千眾生 - năng độ vô số bá thiên chúng sanh”. Về ý nghĩa mỗi câu, xin xem phần Việt dịch Kinh văn.

[69] Ba câu xưng tán hiện tại là: “皆得陀羅尼, 樂說辯才, 轉不退轉法輪 - Giai đắc đà-la-ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển bất thối chuyển pháp luân”.

[70] Ba câu xưng tán đức hạnh quá khứ là: “供養無量百千諸佛, 於諸佛所殖眾德本, 常為諸佛之所稱歎 - Cúng dường vô lượng bá thiên chư Phật, ư chư Phật sở thực chúng đức bản, thường vi chư Phật chi sở xưng thán”.

[71] Bốn câu này là: “以慈修身, 善入 佛慧, 通達大智, 到於彼岸 - Dĩ từ tu thân, thiện nhập Phật tuệ, thông đạt đại trí, đáo ư bỉ ngạn”.

[72] Hai câu này là: “名稱普聞無量世界, 能度無數百千眾生- danh xưng phổ văn vô lượng thế giới, năng độ vô số bá thiên chúng sanh”.

[73] Nguyên tác dùng “進退 - tấn thối” (tới lui), ở đây hàm ý “tới” là tiến lên, xét theo nghĩa của Biệt giáo, Viên giáo, còn “lui” là lùi lại, xét theo nghĩa của Tạng giáo, Thông giáo. Sau khi xét kỹ tới lui như vậy thì thấy những luận giải trên không phù hợp với giáo nghĩa của bất cứ tông chỉ nào trong Tứ giáo.

[74] Tức là 12 câu trong kinh văn như phần phân tích trên, cộng thêm một câu trước đó là “bất thối chuyển”.

[75] Nguyên tác là “橫竪消文 - hoành thụ tiêu văn”, hiểu theo nghĩa đen là phân tích nghĩa văn theo hai chiều ngang dọc. Ngang và dọc ở đây là theo ý nghĩa về thời gian, cho nên chiều ngang (hoành) có nghĩa là phân tích ý nghĩa ở cùng một thời điểm, cũng có nghĩa là mở rộng ý nghĩa, còn chiều dọc (thụ) có nghĩa là phân tích ý nghĩa theo trình tự thời gian, cũng có nghĩa là theo trình tự tu tiến qua từng giai vị.

[76] Hoan hỷ địa (歡喜地 - Phạn ngữ: Pramuditā-bhūmi), còn có các tên khác là Cực hỷ địa, Hỷ địa, Duyệt dự địa.

[77] Ba sự không thối chuyển (三不退 - tam bất thối), tức là giai vị không thối chuyển, công hạnh không thối chuyển và niệm lực không thối chuyển.

[78] Ly cấu địa (離垢地 - Phạn ngữ: Vimalā-bhūmi), còn có các tên khác là Vô cấu địa, Tịnh địa.

[79] Tức Phát quang địa (發光地 – Phạn ngữ: Prabhākarī-bhūmi), còn có các tên khác là Minh địa, Hữu quang địa, Hưng quang địa.

[80] Tức Diệm tuệ địa (焰慧地 - Phạn ngữ: Arciṣmatī-bhūmi), còn có các tên khác là Diệm địa, Tăng diệu địa, Huy diệu địa.

[81] Nan thắng địa (難勝地 - Phạn ngữ: Sudurjayā-bhūmi), cũng gọi là Cực nan thắng địa.

[82] Hiện tiền địa (現前地 - Phạn ngữ: Abhimukhī-bhūmi), còn có các tên khác là Hiện tại địa, Mục kiến địa, Mục tiền địa.

[83] Viễn hành địa (遠行地 - Phạn ngữ: Dūraṃgamā-bhūmi), còn có các tên khác là Thâm hành địa, Thâm nhập địa, Thâm viễn địa, Huyền diệu địa.

[84] Hai trí (nhị trí), chỉ quyền trí (cũng gọi là phương tiện trí) và thật trí.

[85] Bất động địa (不動 地 - Phạn ngữ: Acalā-bhūmi).

[86] Năm đường (ngũ đạo), chỉ chung các cảnh giới tái sinh của chúng sinh, thường là bao gồm cõi trời, cõi người, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ và cõi súc sinh.

[87] Thiện tuệ địa (善慧地 - Phạn ngữ: Sādhumatī-bhūmi), còn có các tên khác là Thiện tai ý địa, Thiện căn địa.

[88] Pháp vân địa (法雲地 - Phạn ngữ: Dharmameghā-bhūmi), cũng gọi là Pháp vũ địa.

[89] Tức là thấu triệt cả ba pháp quán Không, quán Giả và quán Trung đạo. Tông Thiên Thai gọi ba pháp quán này là Tam đế vì giúp hành giả nhận thức được ý nghĩa chân thật của thực tại.

[90] Tức là thấu triệt lẽ nhân quả, từ nơi nhân hiện tại có thể rõ biết được quả trong tương lai.

[91] Sau khi vượt qua Thập địa thì đến hai giai vị trước khi thành tựu quả Phật là Đẳng giác và Diệu giác, 2 câu 11 và 12 có thể hiểu là xưng tán 2 giai vị này.

[92] Nguyên tác dùng “薩婆若 - tát-bà-nhã”, phiên âm từ Phạn ngữ sarvajña, Hán dịch là nhất thiết trí, nghĩa là trí tuệ thấy biết hết thảy các pháp.

[93] Ở đây chỉ các vị Bồ Tát Thập tín bước vào giai đoạn được gọi là Thập tín tương tự đạo (十信相似道), đoạn trừ được Kiến hoặc, Tư hoặc trong Ba cõi, sáu căn thanh tịnh, ba quán (không, giả, trung) viên dung, phát khởi trí tuệ chân chứng tương tự với giai vị Sơ trụ, cho nên nói là có hiểu biết tương t

[94] Đại thiên thế giới: Nguyên tác dùng “三千界 - tam thiên giới” là cách nói tắt của “三千大千世界 - tam thiên đại thiên thế giới”. Theo giải thích trong kinh luận thì 1.000 thế giới hợp lại thành một tiểu thiên thế giới, 1.000 tiểu thiên thế giới hợp lại thành một trung thiên thế giới, 1.000 trung thiên thế giới hợp lại thành một đại thiên thế giới. Do sự cấu thành của một đại thiên thế giới là 3 lần của số 1.000, nên gọi là “tam thiên đại thiên thế giới”. Như vậy, thuật ngữ này chỉ cho một đại thiên thế giới, trong đó bao gồm 1 tỷ thế giới (3 lần số ngàn). Do vậy cách chuyển dịch “ba ngàn đại thiên thế giới” là không đúng, vì khiến người đọc hiểu sai.

[95] Khẩu mật (口密), là một trong Tam mật, bao gồm thân mật, khẩu mật và ý mật, tức là ba nghiệp của chư Phật Bồ Tát, vì rất siêu việt, không thể dùng trí tuệ, nhận thức của phàm phu để hiểu được, do đó gọi là mật.

[96] Nguyên tác dùng “無緣慈 - vô duyên từ”, chỉ tâm từ tuyệt đối chân thật, không phụ thuộc vào bất cứ ngoại duyên bên ngoài nào nên gọi là vô duyên. Đại Trí độ luận nói: “Tâm từ bi có ba loại là chúng sinh duyên, pháp duyên và vô duyên. Tâm từ của hàng phàm phu là chúng sinh duyên, của hàng Nhị thừa thì khởi đầu là chúng sinh duyên, sau đó là pháp duyên. Chư Phật và Đại Bồ Tát thấu triệt lẽ không, nên tâm từ gọi là vô duyên từ.”

[97] Nguyên tác dùng “一 心三智 - nhất tâm tam trí”, chỉ việc cùng lúc đạt được cả ba trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.

[98] Ở đây nói đến bảng chữ cái trong tiếng Phạn, chữ A là đầu tiên, chữ trà là cuối cùng. Ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (thầy của Đại sư Trí Khải) có soạn sách Tứ thập nhị tự môn nghĩa (四十二字門義) nay không còn nữa, nhưng nội dung được biết là giải thích phối hợp 42 mẫu tự của Phạn ngữ với 42 giai vị tu hành của hàng Bồ Tát.

[99] Ở đây so sánh tính chất bình đẳng trong công năng của chữ viết với các pháp môn tu tập và giai vị của hàng Bồ Tát, tuy có phân chia khác biệt về hình thức nhưng công năng hướng đến sự giải thoát đều bình đẳng như nhau.

[100] Luận Pháp hoa, tức Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận Ưu Ba Đề Xá (妙法蓮華經論優波提舍) (ĐCT, T26, 1520). Phần này chỉ trích ý, không phải nguyên văn.

[101] Ở đây nói “thứ hai” vì trước đó trong nguyên tác có “thứ nhất” là “pháp môn phân chia trên dưới” (上支下支門 - thượng chi hạ chi môn). Mục thứ hai này nguyên văn là “攝取事 門 - nhiếp thủ sự môn”. Do Văn Cú chỉ lược lấy ý, không trích dẫn nguyên văn nên có những chỗ khó hiểu như thế này.

[102] Đây là ba pháp đà-la-ni được trình bày trong phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm (thứ 28) của kinh Pháp hoa, bao gồm: Toàn Đà-la-ni (旋陀羅尼), Bá thiên vạn ức Toàn Đà-la-ni (百千萬億旋陀羅尼) và Pháp âm phương tiện Đà-la-ni (法音方便陀羅尼). Toàn Đà-la-ni có công năng chuyển hóa tâm bám chấp hình tướng của phàm phu để đạt đến nhận thức đúng thật về tánh không của tất cả các pháp, nên tương đương với quán Không trong Tam quán của tông Thiên Thai. Hai đà-la-ni còn lại tương ứng với quán giả và quán Trung đạo, như được trình bày trên. Ba pháp đà-la-ni này được đưa vào giải thích trong Phật Quang Đại từ điển ở mục từ Tam đà-la-ni (三陀羅尼), nhưng ở tên đà-la-ni thứ 2 bị bỏ sót chữ “toàn”, thành là Bá thiên vạn ức Đà-la-ni (百千萬億陀羅尼), là một danh xưng không có nghĩa. Bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Quảng Độ do căn cứ bản Hán văn (có lẽ không tra cứu so sánh kinh văn) nên cũng bỏ sót y như vậy. Ngoài ra, bản dịch kinh Pháp hoa của Hòa thượng Thích Trí Tịnh không biết vì sao gọi đây là “Triền Đà-la-ni” (纏陀羅尼 - vốn là một pháp đà-la-ni khác) và bỏ sót không đề cập đến Bá thiên vạn ức Toàn Đà-la-ni (百千萬億旋陀羅尼).

[103] Ba pháp quán tâm: tức là quán không, quán giả và quán Trung đạo.

[104] Nguyên tác nói “五住 - ngũ trụ”, tức ngũ trụ địa hoặc (五住地惑), cũng gọi là ngũ trụ địa phiền não, chỉ cho 5 phiền não: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa.

[105] Tam đế: là ba sự thật được nhận biết do thực hành Tam quán, tức là Không đế, Giả đế và Trung đế. Dung hòa Tam đế cũng gọi là Tam đế viên dung (三諦圓融), tức là dung nhiếp cả ba đế thành một đế vì quán chiếu thấy không tức là giả cũng tức là trung. Đây là Tam quán theo Viên giáo.

[106] Nguyên tác là “一心三觀 - nhất tâm tam quán”, tức là trong một tâm đạt được đủ ba pháp quán là quán không, quán giả và quán trung. Thành tựu của pháp quán như vậy là “tam đế viên dung” (三諦圓融) như đã nói ở trước.

[107] Nguyên tác dùng “Đại kinh”, có lẽ chỉ Đại Bát Niết-bàn kinh, vì trong kinh này có câu kinh được trích dẫn này: “了了見佛性,猶如妙德等 - liễu liễu kiến Phật tánh, do như Diệu Đức đẳng”. (ĐCT, T12, 374, tr.485b, d.2)

[108] Kinh Vô hành, tức kinh Chư pháp vô hành (諸法無行經), 2 quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch (ĐCT, T15, 650). Tuy nhiên, trong kinh này dùng danh xưng là Bồ Tát Diệu Đức. (750a, d.15-16.)

[109] Chỗ này có lẽ Văn Cú bị nhầm vì trích dẫn theo Phiên dịch danh nghĩa tập, nguyên văn là “無行經名滿殊尸師利。 - Vô hành kinh danh Mãn-thù-thi-sư-lợi”. (ĐCT, T54, 2131, tr.1061b, d.20.) Hơn nữa, Văn Cú cũng bỏ sót một chữ mà gọi là Mãn-thù-thi-lợi (滿殊尸利).

[110] Kinh Phổ siêu, tức Văn-thù-chi-lợi Phổ siêu Tam-muội kinh (文殊支利普超三昧經). Văn Cú không trích dẫn trực tiếp mà trích lại từ Phiên dịch danh nghĩa tập (sách đã dẫn), từ phần Bồ Tát biệt danh thiên (菩薩別名篇). Đây là thiên thứ sáu, nói về các danh hiệu khác nhau của các vị Bồ Tát, trong đó khi nói về Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi có câu: “普超經名濡首。” (Phổ siêu kinh danh Nhu Thủ.) Nhưng sự nhầm lẫn này có thể thấy rõ ràng vì kinh Phổ siêu đã gọi tên Bồ Tát là Văn-thù-chi-lợi (文殊支利) ngay trong tên kinh và không có đoạn nào sử dụng danh xưng Nhu Thủ.

[111] Kinh Tư ích, tức kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn (思益梵天所問經), 4 quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch ( ĐCT, T15, 586). Phần được trích dẫn nằm trong quyển 3 của kinh này, ở trang 49a, từ dòng 18 đến dòng 20, nguyên văn là: “文殊師利法王子言:若菩薩雖說諸法而不起法相, 不起非法相, 是名菩薩。 - Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử ngôn: Nhược Bồ Tát tuy thuyết chư pháp nhi bất khởi pháp tướng, bất khởi phi pháp tướng, thị danh Bồ Tát.” (Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi nói: Bồ Tát nào tuy giảng thuyết các pháp mà không khởi tướng pháp, không khởi tướng không phải pháp, đó gọi là Bồ Tát.) Câu kinh này nằm trong phần nội dung các vị Bồ Tát lần lượt đưa ra những định nghĩa “thế nào là Bồ Tát” và đây là định nghĩa của Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi. Như vậy, phần trích dẫn của Văn Cú đã không chính xác, vì kinh này gọi tên Bồ Tát là Văn-thù-sư-lợi và câu kinh không liên quan gì đến danh xưng Diệu Đức.

[112] Kinh Bi Hoa (悲華經), tức Đại bi liên hoa kinh (大悲蓮華經), 10 quyển, do ngài Đàm-vô-sấm dịch ( ĐCT, T3, 157). Phần trích dẫn được đề cập ở đây nằm trong quyển 3, Phẩm Bồ Tát thụ ký, là phẩm thứ tư. Nội dung phát nguyện và được thụ ký của Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (khi ấy là vị vương tử thứ ba, con của Chuyển luân Thánh vương Vô Tránh Niệm) là một đoạn khá dài, ở đây Văn Cú chỉ trích một vài ý, không phải nguyên văn kinh, và sự trích dẫn có nhầm lẫn nên chúng tôi e rằng đã trích từ một nguồn khác mà không phải trực tiếp từ kinh văn. Đây là đoạn nguyên văn lời đức Phật Bảo Tạng trong kinh Bi Hoa: “汝善男子!為眾生故自發如是尊重之願取妙國土, 以是故今號汝為文殊師利 。於未來世過二恒河沙等無量無邊阿僧祇劫, 入第三無量無邊阿僧祇劫, 於此南方有佛世界名曰清淨無垢寶寘, 此散提嵐界亦入 其中。彼世 界中有種種莊嚴, 汝於此中當成阿耨多羅三藐三菩提, 號普現如來應正遍知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師佛世 尊. - Nhữ thiện nam tử! Vị chúng sinh cố tự phát như thị tôn trọng chi nguyện thủ diệu quốc độ, dĩ thị cố kim hiệu nhữ vi Văn-thù-sư-lợi. Ư vị lai thế quá nhị hằng hà sa đẳng vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nhập đệ tam vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, ư thử nam phương hữu Phật thế giới danh viết Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Trí, thử San-đề-lam giới diệc nhập kì trung. Bỉ thế giới trung hữu chủng chủng trang nghiêm, nhữ ư thử trung đương thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hiệu Phổ Hiện Như Lai, Ứng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.” (Trang 188a, dòng 27 đến 188b, dòng 6.) Như vậy, ngài Văn-thù-sư-lợi được thụ ký thành Phật ở thế giới phương nam tên là Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Trí và khi thành Phật sẽ có danh hiệu là Phổ Hiện Như Lai. Các chi tiết này khác với trích dẫn của Văn Cú.

[113] Nguyên tác dùng “三德祕密 - tam đức bí mật”. Tam bí mật, cũng gọi là tam mật, tức là ba nghiệp thân, khẩu, ý của chư Phật, Bồ Tát, vì trí tuệ phàm phu và Nhị thừa không thể đo lường nhận hiểu nên gọi là bí mật.

[114] Nguyên tác dùng “不縱不橫 - bất tung bất hoành” (không ngang không dọc), đây là lấy ý từ kinh luận mô tả chữ y (乊) trong Phạn ngữ gồm 3 dấu chấm, không nằm ngang cũng không nằm dọc, được dùng để biểu đạt ý nghĩa “不一 不異,或非前 非後 - bất nhất bất dị, phi tiền phi hậu”. Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, phẩm Thọ mạng, phần 2 có đoạn: “Sao gọi là tạng bí mật? Ví như chữ Y (乊), nếu viết ba chấm theo hàng ngang hay theo hàng dọc thì đều chẳng thành chữ Y. Phải như ba con mắt nơi gương mặt của thần Ma-hê-thủ-la mới thành hình dạng chữ Y. Nếu tách riêng biệt ba chấm cũng chẳng thành chữ Y.”

[115] Trích dẫn này cũng không chính xác với kinh văn trong Tư ích Phạm thiên sở vấn kinh (đã dẫn trước). Nguyên văn đoạn này trong kinh là: “觀世音菩薩言:若菩薩眾生見者, 即時畢定於阿耨多羅三藐三菩提, 又稱其名者得免眾苦,是名菩薩。 - Quán Thế Âm Bồ Tát ngôn: Nhược Bồ Tát chúng sinh kiến giả tức thời tất định ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hựu xưng kỳ danh giả đắc miễn chúng khổ, thị danh Bồ Tát.” (Bồ Tát Quán Thế Âm nói: “Bồ Tát nào mà chúng sinh nhìn thấy liền lập tức khởi tâm quyết định đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại xưng niệm danh hiệu liền được thoát mọi khổ nạn, đó gọi là Bồ Tát.) (Xem trang 48b, d òng 29 đến 48c, dòng 3, kinh đã dẫn trước.) Đây là lời của Bồ Tát Quán Thế Âm, đưa ra một định nghĩa về “thế nào là Bồ Tát” và không liên quan đến danh xưng của ngài.

[116] Phần này cũng chỉ trích ý từ kinh Bi Hoa, không phải trích nguyên văn.

[117] Trong nguyên tác đến đây là hết phần thượng của quyển 2, bắt đầu phần hạ.

[118] Tam trí (三智), là ba trí gồm Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.

[119] Tam đế (三諦), tức ba đế gồm Không đế, Giả đế và Trung đế.

[120] Tam quán (三觀), tức ba pháp quán gồm Không quán, Giả quán và Trung quán.

[121] Câu trích dẫn này từ kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn (đã dẫn trước) không hoàn toàn chính xác. Đây là Nguyên tác kinh văn: “得大勢菩薩言:若菩薩所投足處, 震動三千大千世界及魔宮殿, 是名菩薩。 - Đắc Đại Thế Bồ Tát ngôn: Nhược Bồ Tát sở đầu túc xứ, chấn động tam thiên đại thiên thế giới cập ma cung điện, thị danh Bồ Tát.” (Bồ Tát Đắc Đại Thế nói: “Nếu Bồ Tát đặt chân đến nơi đâu đều chấn động thế giới đại thiên cùng những cung điện của ma, đó gọi là Bồ Tát.” (Xem trang 48c, dòng 3-4, kinh đã dẫn trước.) Đây là lời của Bồ Tát Đắc Đại Thế, đưa ra một định nghĩa về “thế nào là Bồ Tát” và không liên quan đến danh xưng Đại Thế Chí.

[122] Phần này trích ý từ kinh Bi Hoa, không dẫn nguyên văn kinh, và nội dung có chỗ không chính xác. Đây là nguyên văn câu kinh ghi lời thụ ký của đức Phật Bảo Tạng: “善男子! 由汝願取大世界故,因字汝為得大勢。 - Thiện nam tử! Do nhữ nguyện thủ đại thế giới cố, nhân tự nhữ vi Đắc Đại Thế.” (Xem trang 186c, dòng 11-12, kinh đã dẫn.) Như vậy, trong lời nguyện của Bồ Tát là “nguyện được thế giới lớn lao”, tương ứng với danh hiệu được đức Phật ban cho là Đắc Đại Thế (được thế giới lớn lao). Văn Cú dẫn lại thành “願取大千世界 – nguyện thủ đại thiên thế giới” thì ý nghĩa hoàn toàn khác biệt và không phù hợp với danh xưng. Cuối cùng, ta thấy kinh văn nói đến Đắc Đại Thế chứ không có danh xưng Đại Thế Chí.

[123] Tam chỉ (三止), ba sự ngăn dứt, dừng lại, tương ứng với ba pháp quán không, giả và trung. Thứ nhất là thể chân chỉ (體真止), tương ứng với quán không, vì thấy được tướng chân thật nên gọi là thể chân. Thứ hai là phương tiện tùy duyên chỉ (方便隨緣止), cũng gọi tắt là phương tiện chỉ, tương ứng với quán giả, vì tuy thấy được tất cả đều giả tạm nhưng vẫn phương tiện tùy duyên để tu tập và làm lợi ích cho chúng sinh. Thứ ba là tức nhị biên phân biệt chỉ (息二邊分別止), tương ứng với quán trung đạo, vì ngăn dứt được hoàn toàn nhận thức phân biệt hai bên, không rơi vào bám chấp.

[124] Tam đế (三諦), tức Không đế, Giả đế và Trung đạo đế. Câu này hàm ý nhờ tu Tam quán đạt Tam chỉ nên thấu triệt được Tam đế.

[125] Trong kinh văn còn có Bồ Tát Thường Tinh Tấn được kể ra trước vị Bồ Tát này. Văn Cú Ký giải thích rằng do danh xưng Thường Tinh Tấn và Bất Hưu Tức có nghĩa như nhau nên lược bớt.

[126] Đoạn trích này không chính xác với kinh văn trong kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn. Nguyên văn đoạn kinh này là: “無疲倦菩薩言:若恒河沙等劫 為一日一夜,以 是三十日為一月,十二月為歲;以是歲數,若過百千萬億劫得值一佛;如是於恒河沙等佛所,行諸梵行修集功德,然後受阿耨多羅三藐三菩提記,心不休息無有疲倦,是名菩薩。- Vô Bì Quyện Bồ Tát ngôn: Nhược Hằng hà sa đẳng kiếp vi nhất nhật nhất dạ, dĩ thị tam thập nhật vi nhất nguyệt, thập nhị nguyệt vi tuế, dĩ thị tuế số, nhược quá bá thiên vạn ức kiếp đắc trực nhất phật, như thị ư Hằng hà sa đẳng Phật sở, hành chư phạm hạnh tu tập công đức, nhiên hậu thụ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề ký, tâm bất hưu tức, vô hữu bì quyện, thị danh Bồ Tát.” (Bồ Tát Vô Bì Quyện nói: “Nếu lấy số kiếp nhiều như số cát sông Hằng làm một ngày đêm... ... tâm chẳng dừng nghỉ, không hề chán mệt, đó gọi là Bồ Tát.”) (Trang 48c, từ dòng 4 đến dòng 9, kinh đã dẫn.) Như vậy, nội dung này là Bồ Tát Vô Bì Quyện đưa ra một định nghĩa về Bồ Tát, và ba chữ “bất hưu tức” được dùng với ý nghĩa rõ rệt, không phải danh xưng Bồ Tát.

[127] Tức kinh Văn-thù-chi-lợi Phổ siêu Tam-muội (文殊支利普超三昧經) đã dẫn ở trước.

[128] Trong câu này Văn Cú bị sót một chữ quan trọng (có thể do lỗi khắc in) khiến câu văn thành tối nghĩa hoặc sai nghĩa. Văn Cú trích là: “被上德鎧乃至佛無能沮敗令釋大乘。 - Bị thượng đức khải nãi chí Phật vô năng trở bại linh thích Đại thừa.” Nguyên tác kinh văn có thêm một chữ: “被上德鎧乃至佛慧。無能沮敗令釋大乘。 - Bị thượng đức khải nãi chí Phật tuệ. Vô năng trở bại linh thích Đại thừa.” Phần trích lại thiếu chữ “慧 - tuệ” và cũng không chấm câu sau đó, khiến phần sau câu văn bị hiểu sai thành “...cho đến Phật cũng không thể cản trở phá hoại làm cho từ bỏ Đại thừa.” Điều này vô nghĩa, vì đức Phật không làm việc “cản trở phá hoại”. Câu văn đúng sẽ được hiểu là “... cho đến khi đạt được trí tuệ Phật. Không gì có thể ngăn trở phá hoại làm cho từ bỏ Đại thừa.“

[129] Đoạn này chỉ lược trích, không đủ nguyên văn kinh. Câu cuối cùng không có trong kinh văn. Đoạn kinh này là do Bồ Tát Bảo Chưởng nói ra, nên có câu mở đầu là “寶掌菩薩曰 - Bảo Chưởng Bồ Tát viết”. Nội dung cả đoạn là giảng giải về phương tiện tu tập để tương ưng với trí tuệ Đại thừa, không có ý nghĩa giải thích danh xưng của ngài. Chúng tôi không rõ là Văn Cú có nhầm lẫn hay do trích lại từ nguồn khác dẫn đến sai lệch.

[130] Đoạn này chỉ trích một phần rất ngắn trong kinh Bi Hoa, quyển 6. Những thông tin chúng tôi bổ sung như trên là căn cứ theo kinh văn.

[131] Bảy vị Bồ Tát lược bớt không giải thích, kể từ sau Bồ Tát Dược Vương, đó là các vị: Bồ Tát Dũng Thí (勇施菩薩), Bồ Tát Bảo Nguyệt (寶月菩薩), Bồ Tát Nguyệt Quang (月光菩薩), Bồ Tát Mãn Nguyệt (滿月菩薩), Bồ Tát Đại Lực (大力菩薩), Bồ Tát Vô Lượng Lực (無量力菩薩), Bồ Tát Việt Tam Giới (越三界菩薩).

[132] Kinh Tư ích, tức kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn, đã dẫn ở trước. Thật ra đoạn này không tìm thấy trong kinh Tư ích, nhưng là được dẫn lại từ Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集), quyển 1, nguyên văn: “思益云。若眾生聞名者, 畢竟得三菩提, 故云善守 - Tư ích vân: Nhược chúng sinh văn danh giả, tất định đắc Tam-bồ-đề, cố vân Thiện Thủ.” (ĐCT, T54, 2131, tr.1062b, d.14 - 15)

[133] Danh xưng của Bồ Tát này là Đạo Sư (導師), chữ đạo (導) này là dẫn dắt, dẫn đường, không phải chữ đạo (道) là đạo pháp.

[134] Đoạn này thật ra là trích dẫn lại theo Phiên dịch danh nghĩa tập, quyển 4, sách đã dẫn, ở trang 1124c, d.6 - 7.

[135] Tức là câu: “如是等菩薩摩訶薩八萬人俱 - Như thị đẳng Bồ Tát Ma-ha-tát bát vạn nhân câu.” (Các vị Đại Bồ Tát như vậy có 80.000 vị cùng quy tụ.)

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Người chết đi về đâu


Chắp tay lạy người


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự tham dục


Báo đáp công ơn cha mẹ

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.41 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên...
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...