Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1 »» Giải thích về thính chúng »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1
»» Giải thích về thính chúng

(Lượt xem: 30)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Giải thích về thính chúng

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

GIẢI THÍCH VỀ THÍNH CHÚNG

KINH VĂN

Cùng với hội chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là các bậc A-la-hán.[1]

Đại chúng cùng nghe [thuyết giảng kinh này] có ba hạng. Đầu tiên [nói đến] các vị Thanh văn, sau là chư Bồ Tát và cuối cùng là tạp chúng [gồm hết thảy các thành phần khác]. Các kinh khác đa phần cũng đều như vậy.

[Các chú giải] xưa phân ra hai mặt là sự tướng và ý nghĩa. Về sự tướng thì xét theo [hai yếu tố là] hình tích và sự thân cận. Các vị Thanh văn mang hình tướng xuất tục, hành trạng gần gũi đức Như Lai, trong việc nghe kinh được xem là thân, do vậy [các vị] được kể ra trước tiên. Chư thiên và loài người hình thể y phục khác nhau, hành trạng thì không được kề cận phụng sự [Như Lai], nên trong việc chứng kinh được xem là sơ, do vậy kể ra cuối cùng.[2] Chư Bồ Tát hình thể không theo khuôn khổ, hành trạng không có nơi chốn nhất định, đã không giống với người thế tục, lại cũng khác biệt với chúng tăng, ở về khoảng giữa không cao không thấp,[3] cho nên được kể ra ở khoảng giữa.[4]

Về mặt ý nghĩa thì các vị Thanh văn ham thích Niết-bàn, còn hàng chư thiên và loài người thì bám chấp nơi sinh tử, mỗi bên đều có sự thiên lệch. Chư Bồ Tát thì không ham thích [Niết-bàn] cũng chẳng bám chấp [sinh tử], ở nơi khoảng giữa mà cầu tông chỉ [Phật], nên được xếp vào giữa hai bên. Luận văn cũng giải thích theo như ý này. Đây là một cách giải thích có vẻ như thuộc về hai phương thức. Nói về sự tướng thì giải thích [như trên] là lý nhân duyên, còn xét về ý nghĩa thì giải thích [như trên] lại theo giáo nghĩa. Đại lược là như vậy.

Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì các vị Thanh văn vốn thật bên trong ẩn tàng công hạnh Bồ Tát, bên ngoài thị hiện hình tướng Thanh văn, có bao giờ lại [khởi tâm] ham thích Niết-bàn? Còn hàng chư thiên và loài người [trong Pháp hội này], hết thảy đều là Đại Bồ Tát, có lẽ nào lại bám chấp sinh tử? [Cho nên] tất cả đều chỉ là hình tích [hiển lộ] để dẫn dắt [những kẻ rơi vào] nhị biên, nhưng thực chất căn bản chưa hề rời Trung đạo.

Nếu giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì quán chiếu từ chỗ giả tạm đi vào tánh không là nghiêng về sự phá trừ sinh tử; còn quán chiếu từ tánh không thấy rõ được sự giả tạm là nghiêng về phá trừ [sự bám chấp] Niết-bàn. Chân chánh quán chiếu theo Trung đạo thì không rơi vào hai điều đó. Đại lược là như vậy.

I. Hội chúng Thanh văn

[Kinh văn] liệt kê [hội chúng] Thanh văn chia làm hai hạng, trước là tỳ-kheo, sau đến tỳ-kheo-ni. [Trong chúng] tỳ-kheo lại cũng chia làm hai hạng, trước tiên kể những vị được nhiều người biết đến, tiếp theo mới nói những vị ít người biết hơn. Theo cách gọi xưa kia là “đại danh văn” và “tiểu danh văn”, nhưng cách gọi như vậy là không có căn cứ. Nay y theo kinh văn để phân biệt như trên.

A. Chúng tỳ-kheo - Những vị tỳ-kheo nhiều người biết đến

Về những vị [Thanh văn] được nhiều người biết đến, ở đây sẽ trình bày theo 6 yếu tố. Thứ nhất là phẩm loại, thứ hai là số lượng, thứ ba là địa vị, thứ tư là sự xưng tán, thứ năm là danh hiệu được kể ra và thứ sáu là kết lại.

1. Phẩm loại

Về phẩm loại thì tất cả các vị đều là đại tỳ-kheo có khí chất [siêu phàm] như nhau. Ví như kẻ sang người hèn trong khắp thiên hạ, mỗi người đều có thứ bậc của riêng mình. Nay các vị tỳ-kheo [trong Pháp hội này] đều là những bậc danh vang khắp chốn, phẩm đức lớn lao, tôn quý vượt trội. Các bản luận giải làm rõ điều này bằng cách nêu lên bảy sự đồng nhất [của chư tỳ-kheo], bao gồm đồng nhất về thời gian, đồng nhất về nơi chốn, đồng nhất về giới hạnh, đồng nhất về tâm ý, đồng nhất về chỗ thấy biết, đồng nhất về con đường tu tập và đồng nhất về sự giải thoát.

Nếu xét qua các giáo nghĩa khác nhau thì mỗi giáo nghĩa đều có cách hiểu riêng về bảy sự đồng nhất [như trên]. Tạng giáo có một, Thông giáo có hai, Biệt giáo có vô số cách hiểu về bảy sự đồng nhất, Viên giáo chỉ có một cách hiểu. Nếu theo cách hiểu chưa phát tích thì đó là nghĩa của bảy sự đồng nhất theo Tạng giáo và Thông giáo. Có thể thấy rõ trong cách giải thích của hai bên có những điểm khác nhau. Như các điểm về thời gian, nơi chốn, giới hạnh và sự giải thoát đều giống nhau, nhưng ba điểm về tâm ý, chỗ thấy biết và con đường tu tập thì có khác biệt.

Nếu xét [đến cách phân chia] “trừ bỏ ba [thừa], hiển lộ nhất thừa”[5] là đi vào cách giải thích của Viên giáo về bảy sự đồng nhất.

Luận Pháp hoa[6] phân ra bốn loại Thanh văn. Nay những vị khai mở rồi trụ yên nơi quả [Thanh văn][7] được chia làm hai hạng, đắc pháp rồi trụ yên là hạng Thanh văn theo Tạng giáo, thể nhập giáo pháp[8] rồi trụ yên là hạng Thanh văn theo Thông giáo.

Hạng ứng hóa Thanh văn vừa nhập đạo chia làm hai loại. Đăng địa ứng hóa là hạng Thanh văn của Biệt giáo. Đăng trụ ứng hóa là hạng Thanh văn của Viên giáo.

Hạng Thanh văn khai mở Phật đạo [cho chúng sanh] cũng chia làm hai loại. Thuyết giảng Phật pháp tuần tự theo thứ lớp cho người khác là hạng Thanh văn của Biệt giáo. Thuyết giảng Phật pháp cho người khác không tuần tự theo thứ lớp là hạng Thanh văn của Viên giáo. Ý nghĩa hai chữ Thanh văn mênh mông rộng lớn như thế, làm sao có thể riêng lấy việc chứng Niết-bàn để phân định được. Đại lược là như thế.

Giải thích chữ “đại”

Theo luận giải thì “đại” có hai nghĩa, hoặc là số nhiều, hoặc là thù thắng, vượt trội. Khí chất đáng tôn trọng, được các bậc Thiên vương, đại nhân đều tôn kính nên gọi là “đại”. Vượt cao hơn cả 95 loại ngoại đạo[9] nên nói là thù thắng, vượt trội. Hiểu biết rộng khắp đủ các loại kinh sách nội điển, ngoại điển nên gọi là nhiều. [Số lượng] lên đến 12.000[10] vị nên nói là nhiều.

Nay nói rõ thêm, [chư tỳ-kheo] nắm hiểu giáo pháp lớn lao, có chỗ vận dụng lớn lao, có trí tuệ lớn lao, cho nên gọi là “đại”. Lại nói về nghĩa thù thắng thì [các vị có] giáo pháp thù thắng, chỗ vận dụng thù thắng, trí tuệ thù thắng, do vậy nói là thù thắng. Lại nói về nghĩa nhiều thì [các vị] có nhiều giáo pháp, nhiều chỗ vận dụng, nhiều trí tuệ, cho nên nói là nhiều.

Giáo pháp tức là tánh niệm xứ,[11] lớn lao hơn hết thảy trí của ngoại đạo. Chỗ vận dụng tức là cộng niệm xứ,[12] vượt hơn hẳn những thần thông của ngoại đạo. Trí tuệ tức là duyên niệm xứ,[13] rộng lớn hơn cả bốn bộ Vệ-đà[14] của ngoại đạo.

[Tiếp theo] giải thích các ý nghĩa lớn lao, số nhiều và thù thắng theo giáo nghĩa. Lớn lao là được mọi người kính trọng, đó là giải thích theo Tạng giáo.

Nếu giải thích theo Thông giáo thì lớn lao có nghĩa là được các bậc A-la-hán có thần lực tôn kính; số nhiều có nghĩa là rộng biết hết thảy các pháp sinh diệt chính là không sinh không diệt; thù thắng có nghĩa là vượt hơn bốn môn của Tạng giáo.[15]

Nếu giải thích theo Biệt giáo thì lớn lao có nghĩa là được các bậc A-la-hán thể nhập tánh pháp[16] có thần lực tôn kính; số nhiều có nghĩa là vô số[17] pháp Phật đều rõ biết; thù thắng có nghĩa là vượt hơn những người [tu tập theo] Nhị thừa.[18]

Nếu giải thích theo Viên giáo thì lớn lao có nghĩa là được các vị Đại Bồ Tát tôn kính; số nhiều có nghĩa là hết thảy các pháp không thể suy lường trong pháp giới ắt đều rõ biết, thù thắng có nghĩa là vượt hơn cả các vị Bồ Tát.

Giải thích theo ý nghĩa bản tích thì các bậc đại đức [trong chúng tỳ-kheo] này từ lâu đã được chư Phật ngợi khen xưng tán. Từ ban sơ (bản) các vị đã đạt được pháp Tam-muội Thắng Tràng, vượt hơn các ngoại đạo, trước đây đã thành tựu trí tuệ rộng biết khắp thảy mọi việc. Nhưng ngày nay các vị thị hiện (tích) [hình thể trong chúng hội] là đến để phò trì phụ giúp cho sự giáo hóa của đức Phật, thị hiện ở giữa vòng ái nhiễm kiến chấp [mà có đủ các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng, giống như “đun sữa thành sữa đặc”, [đó là dẫn dắt chúng sinh mê lầm vào đạo giải thoát]. [Các ngài] lại [cũng thị hiện các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng trong Tạng giáo, giống như “chế biến sữa đặc thành váng sữa (sinh tô),” [đó là dẫn dắt chúng sinh trên đường tu tập]. Lại cũng thị hiện [các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng trong hội chúng Phương đẳng, giống như “làm cho váng sữa thành váng sữa chín (thục tô)”, [đó là dẫn dắt chúng sinh lên hàng Nhị thừa]. Lại thị hiện [các phẩm tính] lớn lao, số nhiều, thù thắng trong pháp hội thuyết giảng Bát-nhã, giống như để làm cho “thục tô thành đề-hồ”, [dẫn dắt chúng sinh từ hàng Nhị thừa đi lên Đại thừa rốt ráo].

[Cho nên,] các ngài thị hiện những phẩm tính lớn lao, số nhiều, thù thắng trong hội Pháp hoa này, nhưng vốn thật căn bản từ thuở ban sơ đã có đầy đủ các phẩm tính lớn lao, số nhiều và thù thắng. Đại lược là như vậy.

Giải thích theo nghĩa quán tâm thì quán [các pháp đều] không, đó là lớn lao, quán giả tạm là nhiều và quán Trung đạo là thù thắng. Lại đi thẳng vào pháp quán Trung đạo thì tâm tánh rộng mở, khoáng đạt như hư không, cho nên gọi là lớn lao; ngăn lấp cả hai bên biên kiến, thể nhập vào biển tịch diệt, cho nên gọi là thù thắng; soi chiếu cả tục đế và chân đế, dung thông hàm chứa rất nhiều, một tâm [bao hàm] hết thảy tâm, cho nên gọi là nhiều.

Giải thích chữ “tỳ-kheo”

Ngài Tăng Triệu nói, [chữ tỳ-kheo (bhikṣu)] dịch sang Hán ngữ[19] có các nghĩa là “người khất thực sống thanh tịnh”, “phá trừ phiền não”, “thường giữ giới hạnh” và “hàng phục chúng ma”. Trong Phạn ngữ, danh từ bhikṣu hàm chứa bốn nghĩa như trên. Hán ngữ không có từ ngữ nào có thể dùng để phiên dịch đầy đủ được, cho nên chỉ phiên âm [thành tỳ-kheo], tức là giữ theo nguyên tác.

Ngài La-thập[20] nói: “[Người xuất gia] ban sơ [vì muốn] lìa bỏ căn nhà thế tục là đời sống gia đình, vợ con, nên dùng pháp khất thực để tự nuôi dưỡng đời sống thanh tịnh. Cuối cùng [vì muốn] ra khỏi căn nhà ba cõi, nên phải phá trừ phiền não, nghiêm trì giới luật để tự giữ mình. Đầy đủ hai ý nghĩa trên thì khiến cho thiên ma khiếp sợ, thành tựu việc xuất gia.”

Luận giải nói, [người xuất gia là] khiến cho thiên ma khiếp sợ, phá trừ điều xấu ác, làm người khất thực tự nuôi sống. Ma ưa thích sinh tử, người xuất gia giáo hóa người khác, đều cùng nhau ra khỏi ba cõi, như vậy là trái với ý muốn của ma. Ma dùng sức để chế ngự, nhưng trái lại bị [vị tỳ-kheo] dùng năm pháp trói buộc[21] [đối trị], nên ma phải than khóc mà bỏ đi. Do vậy nên gọi là làm cho ma khiếp sợ.

Người xuất gia tất nhiên phá trừ 7 điều xấu ác của thân và khẩu,[22] cho nên gọi là phá ác. Người thế tục tại gia có 3 cách tự nuôi sống đúng pháp. Một là làm ruộng vườn nông nghiệp, hai là kinh doanh buôn bán, ba là dùng tri thức [phụng sự bằng sự hiểu biết]. Ba cách này có thể được người tại gia dùng để nuôi dưỡng mạng sống. Đối với người xuất gia, đức Phật [chế giới luật] không cho phép làm những việc ấy, chỉ được khất thực tự nuôi thân, sống an ổn trong đạo, tạo phước đức lợi ích cho đàn-việt. Cả 3 nghĩa ấy đều thành tựu thì hỗ tương nhau thành nghĩa tỳ-kheo.

Trong sách Niết-bàn kinh tập giải của ngài Bảo Lương[23] [nhiều chỗ] đều nói nghĩa phá ác gọi là tỳ-kheo, đó là nói không đầy đủ. Nay giảng rõ cả 3 nghĩa này tương thông trước sau, [từ lúc mới xuất gia đến khi thành tựu đạo nghiệp].

Như trước tiên khi mới xuất gia, lúc bạch tứ yết-ma, nhờ sức vô tác giới [ngăn phòng][24] nên biến đổi tất cả ngoại cảnh trở thành môi trường không tạo việc ác. Đến lúc bắt đầu tu tập thiền định, phát khởi được định lực kết hợp cùng [sức ngăn ngừa của] giới, ngăn phòng khuất phục tham, sân, không cho khởi lên trong tâm ý. Lại đến lúc bắt đầu tu tập quán tuệ, phát khởi được tương tự đạo[25] kết hợp cùng [sức ngăn ngừa của] giới có thể hàng phục được phiền não. Cho nên những giai đoạn sơ tâm [ban đầu] cũng gọi là phá ác, không chỉ riêng những giai đoạn thành tựu về sau [mới gọi là phá ác].

Về ý nghĩa làm cho ma khiếp sợ, người xuất gia vừa mới cạo tóc và được truyền giới đã làm cho ma lo lắng sợ hãi. [Đến khi] tu định là muốn hàng phục phiền não, tu tuệ là muốn phá trừ phiền não. Những tâm sơ phát ấy cũng đều làm cho ma khiếp sợ, đâu chỉ riêng những tâm thành tựu về sau.

Về ý nghĩa khất sĩ, [người xuất gia] ban đầu lìa bỏ sự kiếm sống bằng những việc tà ác,[26] chỉ dùng pháp khất thực để tự nuôi sống. Đến khi tu tập thiền định, trải qua các cảnh giới để cầu được định, tu tuệ nương theo lý để cầu không lậu hoặc, [các giai đoạn ấy] cũng đều phải làm người khất thực tự nuôi sống. Huống chi [những giai đoạn tu tập] tương ưng lại có thể không làm người khất thực?

Đầy đủ những nghĩa này nên được tôn xưng là tỳ-kheo. Các vị giảng kinh đều chỉ tán thán tâm [thành tựu] về sau của vị tỳ-kheo. Đó đều là [ý nghĩa] theo Tạng giáo.

Nếu trải qua muôn duyên chỉ để cầu lẽ chân thật thì gọi là người khất thực. Phá trừ những nghi hoặc chướng lý thì gọi là phá ác. Tu tập công hạnh như vậy khiến cho bốn thứ ma[27] đều khiếp sợ. Đó là ý nghĩa theo Thông giáo.

Nếu trải qua Tam đế [không, giả và Trung đạo] để cầu chân lý thì gọi là người khất thực. Dứt trừ thông hoặc[28] và biệt hoặc[29] được gọi là phá ác. Hàng phục tám thứ ma,[30] mười thứ ma,[31] đó là ý nghĩa theo Biệt giáo.

Nếu ngay nơi sinh tử cầu nếm được mùi vị của thật tướng, đó gọi là người khất thực. Đạt đến chỗ ngay nơi phiền não tức là Bồ-đề, như vậy gọi là phá ác. [Đối với người như vậy thì] cảnh giới ma tức là cảnh giới Phật. Đây là ý nghĩa theo Viên giáo.

Nếu chưa rõ hình tích thì chỉ sáng tỏ hai nghĩa phía trước, khi đã hiển lộ đầy đủ cội nguồn mới có đủ ý nghĩa theo sau.

Theo nghĩa bản tích mà nói thì bản là lên đỉnh núi Niết-bàn, cùng kết nghiệp nhận vô minh, si ái là cha mẹ, đến khi lìa bỏ vợ con, ra khỏi căn nhà [sinh tử] phần đoạn và biến dịch,[32] từ lâu đã trừ dứt năm trụ phiền não,[33] phá sạch mọi điều ác, đạt được pháp hỷ chân chánh, [khoan khoái] như ăn món cháo sữa, rốt cùng chẳng còn một pháp nào phải tu. Giữ theo đường Trung đạo cùng Thi-la ba-la-mật,[34] dùng giới hạnh nhiếp hóa chúng sinh, hàng phục ma giới tức cảnh giới Phật, như gánh vác vâng theo lời dạy.

Xét về bản môn thì công đức vốn đã thành tựu từ lâu, nhưng vì điều phục chúng sinh mà thị hiện hình tích có năm vị tỳ-kheo để truyền thừa dẫn dắt chúng sinh, nêu ví dụ cũng giống như phần giải thích ở trước.

Nói theo nghĩa quán tâm thì quán chiếu một niệm tâm thanh tịnh như hư không, không bị trói buộc chướng ngại bởi hai biên kiến,[35] trí tuệ bình đẳng lớn lao, không bám luyến, không tham chấp, đó là xuất gia. Lấy pháp quán theo Trung đạo làm chỗ tự nương cậy, pháp thân tuệ mạng đang sống gọi là khất sĩ. Lại quán năm trụ phiền não tức là Bồ-đề, đó gọi là phá ác. Hết thảy các quan điểm sai lệch điên đảo đều không ngoài Trung đạo, đó là làm cho ma kinh sợ. Đại lược là như vậy.

Giải thích chữ “chúng”

Trong Phạn ngữ là Tăng-già,[36] Hán dịch là hòa hợp chúng (和合眾). Chỉ một người thì không thể gọi là hòa hợp, từ bốn người trở lên mới gọi là hòa hợp chúng. Nói về sự thì hòa nghĩa là không sống riêng rẽ. Nói về pháp thì hòa là không có lý riêng biệt. Đức Phật thường sống chung hòa hợp với 1.250 vị tỳ-kheo. [Trong đó, những người do] ba vị Ca-diếp [dẫn đến] có 1.000 người, [do] hai ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên [dẫn đến] có 250 người. Cũng có chỗ nói ngài Da-xá [dẫn theo] 50 người. Trong Tạp A-hàm, quyển 45, nói rằng trong 500 vị tỳ-kheo có 90 vị chứng Tam minh, 90 người đạt được Câu giải thoát,[37] còn lại [320 vị] được Tuệ giải thoát.

Trong các bản luận giải thích rõ về 4 hạng tăng. Không sống đời thanh tịnh, gọi là tăng phá giới. Tăng không rõ biết [giáo] pháp và [giới] luật gọi là tăng ngu si. [Tu tập] năm phương tiện[38] là tăng tàm quý. [Quán] khổ [thành tựu] pháp [trí] nhẫn là tăng chân thật. Trong [hội chúng Pháp hoa] không có ba hạng tăng trước, chỉ có tăng chân thật.

Nếu nói theo Tứ giáo thì trong [hội chúng Pháp hoa] này đã trải qua năm giai vị ở mức tương đối và tuyệt đối, nay làm hội chúng cùng nghe [kinh trong pháp hội này], chính là yếu tố chứng tín [cho kinh này] theo Viên giáo.

Giải thích theo bản tích thì bản là [hội chúng này] vốn hòa hợp với lý thật tướng, lại cũng hòa hợp với cơ duyên của chúng sinh trong pháp giới, còn tích là chúng tăng với sự lý phương tiện chưa rốt ráo, trải qua năm giai vị để dẫn dắt chúng sinh. Đại lược là như vậy.

Theo ý nghĩa quán tâm thì những người mới học Trung quán chỉ nhập được phép quán tương tự, chưa phát triển tánh chân thật, tự thấy xấu hổ với chư Phật,[39] thẹn với các bậc thánh, đó là hạng tăng [tàm quý,] có tu tập. Tu tập phép quán nếu phát triển được trí tuệ gọi là tăng chân thật. Nếu khác với hai hạng [tăng tàm quý và tăng chân thật] tức là 2 loại tăng [phá giới và tăng ngu si đã nói] ở phần trước. Không tu tập quán tưởng gọi là tăng phá giới. Không hiểu rõ được hình tướng các phép quán thì gọi là tăng ngu si.

2. Số lượng

Sau khi nêu ra hạng loại [trong chúng tăng] rồi, tiếp theo nói rõ về số lượng, nghĩa là con số 12.000 người.[40]

Giảng giải theo bản tích thì bản nguyên là 12.000 vị Bồ Tát, theo hình tích hiển thị thì là 12.000 vị Thanh văn.

Theo nghĩa quán tâm thì quán 12 nhập,[41] mỗi nhập đầy đủ 10 pháp giới, mỗi pháp giới lại gồm đủ 10 pháp giới, mỗi pháp giới có đủ 10 như thị, tức đủ số 1.000. Mỗi nhập là 1.000, nên 12 nhập tức là 12.000 pháp môn.

3. Giai vị

Tiếp theo giảng rõ về giai vị [trong thính chúng]. [Kinh văn nói] các vị đều là A-la-hán. Kinh A-bạt[42] gọi [quả vị A-la-hán] là Ứng chân,[43] kinh Thụy ứng[44] gọi là Chân nhân,[45] đều là những bậc [đã chứng] vô sinh, đó là giải nghĩa [danh hiệu] A-la-hán. Các nhà cựu dịch thì dịch là Vô trước, Bất sinh, Ứng cúng, hoặc không phiên dịch [chỉ gọi theo phiên âm là A-la-hán]. Danh xưng này bao gồm 3 nghĩa. [Hạt thóc] vô minh đã bóc sạch vỏ, trong ruộng đời sau [không nảy mầm], [46] chẳng phải chịu quả sinh tử nữa nên gọi là Bất sinh. 98 sử phiền não[47] diệt hết; cho nên gọi là Sát tặc. Đầy đủ công đức trí tuệ và dứt trừ, có thể làm ruộng phước cho hàng trời người nên gọi là Ứng cúng. Gồm cả 3 nghĩa này là giải thích [danh xưng] A-la-hán.

Hoặc cũng nói rằng, khi mới tu học vô sinh, trong vòng sinh tử chưa được vô sinh, tu tập trừ ma nhưng ma chưa khiếp sợ, tu hành khất sĩ nhưng chưa rõ ràng xứng đáng nhận cúng dường, nay [chứng quả này rồi] được Vô sinh nhẫn, phá sạch giặc phiền não, là ruộng [phước] tốt đẹp [cho hai cõi trời, người]. Dùng quả [chứng đắc] đối với nhân [tu hành] để giải thích 3 nghĩa của danh xưng A-la-hán. Nếu bàn về sự thành tựu thì dùng 3 nghĩa quả [chứng đắc], nếu bàn thêm sự tu tập ban đầu thì phải dùng cả 3 nghĩa của nhân [tu hành].

Giải thích như trên đều là ý nghĩa theo Tạng giáo và Thông giáo. Theo Biệt giáo và Viên giáo thì ý nghĩa có khác. Chẳng những trừ giặc [phiền não] mà còn dứt trừ cả không phiền não. Không phiền não, ấy là Niết-bàn, [Niết-bàn ấy] cũng phải tu tập dứt trừ. Đó là ý nghĩa “sát tặc” [theo Biệt giáo và Viên giáo]. [Chẳng những] không sinh đối với sinh [tử] mà còn không sinh đối với không sinh. Vô lậu là không sinh. Chẳng những xứng đáng nhận cúng dường mà còn bố thí, cung ứng. Hết thảy chúng sinh đều được bố thí, đều xưng tán đức hạnh của [hàng Bồ Tát] Sơ địa, Sơ trụ.

Theo ý nghĩa bản tích thì bản nguyên đã được Tam-muội Bất thọ, đối với hai biên kiến không có chỗ vướng mắc nên gọi là không sinh. Dứt trừ năm trụ địa phiền não[48] nên gọi là sát tặc. Thường tạo phước trong chín đường,[49] làm lợi lạc chúng sinh nên có đức ứng cúng, đây là nghĩa bản nguyên. Dùng phương tiện cứu độ chúng sinh, trải qua năm giai vị nối truyền không dứt, thành đức vô sinh, đây là nghĩa hiển thị hình tích. Lại cũng giải thích rằng bản nguyên là pháp thân, hình tích thị hiện lợi mình; bản nguyên là Bát-nhã, hình tích thị hiện không sinh; bản nguyên là giải thoát, hình tích thị hiện trừ giặc phiền não. Đại lược là như vậy.

Giải thích theo nghĩa quán tâm thì quán [muôn pháp đều] không, đó là Bát-nhã; quán [các pháp] giả tạm là giải thoát; quán trung đạo là pháp thân.

Lại cũng theo nghĩa quán tâm, từ chỗ quán giả tạm đi vào quán không cũng có 3 nghĩa, cho đến quán trung đạo. [Sát tặc là] giết giặc vô minh, [Bất sinh là] chẳng sinh tâm Nhị thừa, [Ứng cúng là] cúng dường con người ở đây cũng như cúng dường đức Thế Tôn.

Kinh Phương đẳng[50] nói: “Cúng dường Phật và Văn-thù chẳng bằng bố thí cho người tu tập kinh Phương đẳng một bữa ăn nuôi thân.”[51]

Phần sau của kinh [Pháp hoa][52] nói: Người hủy báng Phật phải chịu tội, tán dương Phật được phước, nhưng tội hoặc phước ấy không lớn bằng so với kẻ hủy báng hay tán dương người trì kinh. Vì rằng Phật không nghĩ tưởng đến việc ăn uống, từ lâu đã lìa khỏi 8 ngọn gió đời,[53] không còn chịu sự tác động [của sự cúng dường hay hủy báng]. Còn bố thí [thức ăn] cho người trì kinh thì [giúp họ] duy trì thân thể, kéo dài mạng sống, sinh khởi pháp thân, tăng trưởng đời sống trí tuệ, cho nên có lợi ích lớn. [Ngược lại] hủy báng [người trì kinh khiến họ] lo lắng sầu não, thối tâm, hối hận. Nếu để mất đi cơ hội [tu tập] tốt thì không thể cứu vãn, cho nên nói là tổn hại lớn. Đại lược là như thế.

4. Xưng tán đức hạnh

KINH VĂN

Các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại, được lợi lạc bản thân, dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại.

[Kinh văn] có 5 câu xưng tán ba thánh đức như trên [của bậc A-la-hán]. Luận Pháp hoa nói rằng: “Câu đầu nói tổng quát, những câu sau nêu cụ thể.” Nên biết rằng, tất cả các câu này đều tán thán bậc A-la-hán.

“Các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại.” Hai câu này xưng tán thánh đức sát tặc, tức giết giặc phiền não như vừa nói trên. Lậu hoặc là chỉ ba thứ lậu hoặc.[54] Thành thật luận[55] nói: “Để mất đạo cho nên gọi là lậu hoặc.” Trong Luật nói: “Người si mê tạo nghiệp là mở ra các cánh cửa lậu hoặc.” [Luận] Tỳ-đàm[56] nói: “Do lậu hoặc rơi vào sinh tử.” Luận và Luật tuy dùng lời khác nhau nhưng đều làm rõ ý nghĩa lậu hoặc. Do giặc lừa gạt mà mất đi của báu, trở nên bần cùng cô độc, cũng giống như người tạo các nghiệp ác phải rơi vào sinh tử khổ não, đánh mất pháp thân, mất cả đời sống trí tuệ, mất sạch của báu. Tất cả đều là ý nghĩa [so sánh với] giặc xấu. Không nên cho đây là tán thán ý nghĩa của đức bất sinh.

Nói về phiền não, đó là 98 loại phiền não sai sử, thôi thúc, ngăn chặn, trói buộc, che chướng... luôn bức bách não hại người tu hành. Phiền não là yếu tố có khả năng thấm đẫm và lậu nghiệp là đối tượng bị thấm đẫm. Cái thấm đẫm (phiền não) và cái bị thấm đẫm (lậu nghiệp) đều dứt sạch, đó chính là ý nghĩa sát tặc, [giết giặc phiền não]. Sao có thể nói đó là xưng tán nghĩa Bất sanh?

Câu “đã được lợi mình” là xưng tán đức ứng cúng. Nhân quả trong ba cõi đều gọi là “bên ngoài”; [các phẩm tính như] trí tuệ, đoạn trừ, công đức, hết thảy đều gọi là “lợi mình”. Đầy đủ sự lợi mình nên thành ứng cúng, [xứng đáng nhận sự cúng dường].

“Dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại”, hai câu này là xưng tán thánh đức bất sinh. “Các cõi hiện hữu” là 25 cảnh giới,[57] “trói buộc” là chỉ nghiệp nhân sinh ra trong 25 cảnh giới hiện hữu. Nhân dứt, quả không còn, đó rõ ràng là xưng tán đức bất sinh, không nên cho là xưng tán đức sát tặc.

[Giai vị] A-la-hán thường là đã dứt hết trói buộc nhưng chưa dứt sạch hiện hữu. Hiện hữu dứt sạch là trong nhân nói quả, lại như dứt sạch cũng không được lâu. Nói “tâm được tự tại” là do định lực đầy đủ nên gọi là tâm tự tại. Trí tuệ đầy đủ gọi là tuệ tự tại. Tuệ tự tại chưa hẳn tâm được tự tại, nhưng tâm tự tại ắt tuệ cũng tự tại. [Cho nên] ở đây nói tâm tự tại nghĩa là đầy đủ cả định lực và trí tuệ, tức là bậc chứng đắc câu giải thoát. Chứng đắc câu giải thoát thì nhất định đã chấm dứt không còn tái sinh. Do đó suy ra, có thể biết là [câu này] xưng tán đức bất sinh.

Nếu y theo luận giải Pháp hoa thì gọi đây là “thượng thượng khởi môn”, nghĩa là dùng những câu sau để giải thích câu trước. Luận [này] nói rằng, do đã dứt hết các lậu hoặc nên gọi là A-la-hán, do tâm được tự tại nên gọi là dứt hết trói buộc. Lần lượt như vậy mà giải thích cho câu trên.

Giải thích theo nghĩa bản tích thì không sinh chỗ bất sinh gọi là Đại Niết-bàn, cội nguồn của dòng chảy phiền não lậu hoặc đã khô cạn từ lâu, không còn đọa lạc trở lại trong hàng Nhị thừa và phàm phu. Đó là bất sinh theo nghĩa bản nguyên. Đầy đủ pháp thân, trí tuệ đoạn trừ [phiền não], thật tướng, công đức, đó gọi là lợi mình theo nghĩa bản nguyên. Đạt được Vương Tam-muội,[58] phá trừ [không còn tái sinh trong] 25 cảnh giới hiện hữu, hiển bày tánh thật của ngã, đầy đủ 8 đức tự tại.[59] Đó gọi là sát tặc theo nghĩa bản nguyên. Nhưng về hình tích thì thị hiện công đức của hàng Nhị thừa.

Theo nghĩa quán tâm thì quán chiếu chân chánh theo Trung đạo, không lậu hoặc, không rơi vào hai bên quán không hay quán giả, nên phiền não [khởi sinh từ] hai biên kiến này đều dứt hết. Thường quán tánh của tâm, gọi là định bậc cao. Kho báu giấu kín như ngọc quý trong chéo áo là tài vật của mình, đó là nghĩa “đã được lợi mình”.

Chánh quán theo Trung đạo liền dứt trừ giặc phiền não kết sử. Không còn kết sử nên hiện hữu cũng dứt. Hai biên kiến không thể trói buộc tâm nên gọi là tự tại, phiền não tuy có cũng như không. Chẳng dứt phiền não mà nhập Niết-bàn, chính là ý nghĩa này.

KINH VĂN

Tên các ngài là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-sa, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-hi-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la.

5. Danh hiệu

[Kinh văn] ở đây chỉ lược nêu 21 vị tôn giả. Tất cả đệ tử của Phật đều có đủ công hạnh nhưng tự giấu đi năng lực trọn vẹn của mình, mỗi vị đều tùy theo đức hạnh để nêu tên, nhằm dẫn dắt [chúng sanh] theo khuynh hướng tốt đẹp hơn.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói rằng: “Các vị tỳ-kheo thuộc nhóm Kiều-trần-như đều được tôn xưng là bậc Thượng Tọa, có các bậc đại nhân đức hạnh cùng đi. Ngài Xá-lợi-phất có những bậc có trí tuệ thâm sâu nhạy bén cùng đi. Ngài Mục-kiền-liên có những vị được sức thần thông lớn cùng đi... [Cứ như vậy] mỗi vị đều nắm giữ một pháp, dẫn dắt những người có khuynh hướng tốt đẹp như vậy cùng đi. [Cho nên] muốn nêu tên mỗi vị phải biết rõ được công hạnh của vị ấy. Tùy theo đức hạnh [của mỗi người] mà đặt tên hiệu, với tất cả các vị đều như vậy. Mỗi vị A-la-hán đều nêu ra 4 nội dung giải thích để làm ví dụ. Đại lược là như vậy.

A-nhã Kiều-trần-như

[Chẳng hạn như] Kiều-trần-như[60] là họ, được dịch là “hỏa khí” (vật giữ lửa), thuộc chủng tộc bà-la-môn. Tổ tiên dòng tộc này vốn thờ lửa, truyền nối nhiều đời trong họ. Lửa có hai nghĩa là chiếu sáng và thiêu đốt. Chiếu sáng thì bóng tối không sinh, thiêu đốt thì muôn vật không sinh, cho nên “không sinh” (bất sanh) là tánh [của lửa].

A-nhã là tên, Hán dịch là “dĩ tri” (đã biết) hoặc “vô tri” (không biết). Nói “không biết” [ở đây] không phải là không biết gì, mà là rõ biết về tánh không. Nếu y theo nhị đế[61] [thấy biết tánh không và giả tạm] thì đó là sự rõ biết chân chánh, cho nên dùng trí vô sinh để đặt tên gọi. Trong kinh Vô lượng thọ,[62] kinh Văn-thù vấn[63] và luận A-tỳ-đàm Bà-sa[64] đều nói [A-nhã] có nghĩa là rõ biết chân đế.[65] Nếu nói theo Tứ diệu đế thì là rõ biết về Diệt đế, nhưng trong đa số kinh điển đều gọi tên ngài là Vô Tri, hoặc cũng dịch là Đắc Đạo. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [đức Phật] nói rằng: “Trong Phật pháp của ta toàn những người khoan hòa nhân ái và hiểu biết sâu rộng. Người đầu tiên được nếm mùi vị chánh pháp là tỳ-kheo Câu-lân-như,[66] cho nên được đặt tên là A-nhã.

Do nguyện thành tên

Thuở ấy [tiền thân của] Phật sinh vào thời có nạn đói, nên ngài hóa làm con cá mắt đỏ rất lớn, tự nín thở đến chết [để người đời có thức ăn]. [Lúc ấy] có 5 người thợ mộc đến trước tiên dùng lưỡi búa để lóc thịt cá. Lúc đó Phật phát lời thệ nguyện rằng: “Đời sau này [khi ta thành Phật] sẽ hóa độ những người [thợ mộc] này trước nhất. Do Phật trước kia có nguyện giúp cho [Kiều-trần-như] được chứng vô sinh nên gọi tên ông là A-nhã.

Lại nữa, vào thời đức Phật Ca-diếp, có 9 người học đạo, trong đó 5 người chưa chứng quả, lập thệ nguyện rằng [sau này khi tu tập] trong giáo pháp của đức Phật Thích-ca sẽ được khai ngộ trước tiên. Do bản nguyện ấy dẫn dắt nên chứng pháp Vô sinh trước nhất, được gọi tên là A-nhã.

Do hạnh thành tên

Trí tuệ sinh, mê hoặc diệt là công hạnh trí tuệ đoạn trừ [phiền não]. Đang khi đêm dài tăm tối, giấc ngủ mê say, không một ai tỉnh giấc, mặt trời còn chưa lên thì đã có ánh sao hiện ra trước. Tỳ-kheo Kiều-trần-như vừa chứng trí Vô sinh cũng ví như ánh sao sáng đầu tiên trong tất cả các vì sao sáng. Trong tất cả những người được trí sáng suốt, không có ai trước ngài Kiều-trần-như, cho nên gọi là A-nhã. Xua tan đêm dài tăm tối, trước nhất không gì hơn một ánh sao sáng. Ngài Kiều-trần-như cũng giống như vậy, trong tất cả những người dứt trừ được vô minh si ám, không có ai trước ngài, cho nên gọi là A-nhã.

Do việc trước đây thành tên

Khi thái tử từ bỏ ngôi vua, rời khỏi đất nước, vào chốn núi rừng học đạo. Phụ vương mong nhớ liền sai 5 người tìm đến theo hầu. Đó là các ông Câu-lân-át-bệ, cũng gọi là Thấp-bệ,[67] cùng với A-thuyết-thị, Mã-tinh-bạt-đề, Ma-ha-nam và Thập-lực Ca-diếp, cùng theo giúp thái tử. [Trong 5 người này thì] hai người là thân tộc bên ngoại, ba người là thân tộc bên nội. Nhóm hai người cho rằng thụ hưởng dục lạc là pháp tu thanh tịnh, còn nhóm ba người lại cho rằng sự khổ hạnh là pháp tu thanh tịnh. Khi thái tử siêng năng tu khổ hạnh thì nhóm hai người [không đồng tình] liền bỏ đi, ba người còn lại vẫn theo hầu. Khi thái tử từ bỏ việc tu khổ hạnh, trở lại thọ nhận món cháo sữa, uống nước ấm thì ba người kia cũng bỏ đi. Khi thái tử thành đạo, trước tiên vì cả 5 người ấy thuyết pháp Tứ diệu đế.

Lần thuyết pháp đầu tiên giáo hóa cho hai người, còn ba người kia đi khất thực về để Phật và cả năm người cùng ăn. Ngay lần ấy ngài Câu-lân[68] chứng được pháp nhãn thanh tịnh, bốn người còn lại chưa chứng đắc. Lần tiếp theo thuyết pháp cho ba người, hai người kia đi khất thực để Phật và năm người cùng ăn. Lần này cả ba người đều chứng được pháp nhãn thanh tịnh. Lần thuyết pháp thứ ba, cả nhóm Kiều-trần-như 5 người và 80.000 chư thiên đều xa lìa trần cấu. Nhóm 5 người ấy được chứng Vô sinh. Đức Phật ba lần hỏi “đã hiểu rõ pháp chưa”, các vị cũng ba lần thưa “đã hiểu rõ”. Khi ấy, thần đất xướng lên, thần hư không truyền rộng, cho đến khắp thế giới Phạm thiên đều nói lên “đã hiểu”.

Ngài Câu-lân (Kiều-trần-như) là người đắc pháp trước tiên. Ngài là người trước tiên thấy được tướng trạng Phật đạo, nghe được tiếng trống pháp trước tiên, ngửi được hương thơm chánh pháp trước tiên, nếm được vị cam lộ trước tiên, dự vào dòng pháp trước tiên, chứng đắc chân đế trước tiên. Trong số người đắc đạo ở cõi Diêm-phù-đề, ngài là người trước nhất trong tất cả loài người, chư thiên cũng như các vị A-la-hán. Cho nên trong kinh Thập nhị du[69] nói rằng: “[Sau khi] Phật thành đạo, năm đầu tiên hóa độ 5 người [nhóm Kiều-trần-như], năm thứ hai hóa độ ba anh em Ca-diếp [và đồ chúng của họ], đến năm thứ năm hóa độ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên [cùng đồ chúng của họ].” Nên biết danh xưng A-nhã đặt ở trước như đã nói rõ. Đó là giải thích theo nhân duyên.

Nếu giải thích theo Tạng giáo thì người mù chẳng sinh ra [cái thấy] ví như trí vô sinh, tấm gương ví như cảnh giới vô sinh, là ấm, nhập, giới. Đầu [mình và tứ chi] sáu phần ví như nhân trong hiện tại, ảnh tượng [trong gương] ví như quả vị lai. Nếu như mở con mắt sáng, tay cầm tấm gương, đối trước hình liền sinh ra ảnh tượng trong gương. Nếu nhắm mắt lại như người mù thì không thấy gì cả. Không nhìn thấy sáu phần là nhân [hiện tại] không sinh, không nhìn thấy ảnh tượng trong gương là quả [vị lai] không sinh. Cho nên kinh A-hàm nói rằng: “[Đối với năm ấm, nếu nói có sắc và sắc là tịnh, tịnh ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Nếu nói có thọ, tưởng, hành, thức và thức là tịnh, tịnh ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Nếu nói có thọ và thọ là lạc, lạc ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Cho đến [nếu nói có] sắc và sắc là lạc, lạc ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Lại nếu cho rằng có tưởng, có hành và hành là ngã, ngã ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Cho đến [nếu cho rằng có] sắc và sắc là ngã, ngã ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Nếu cho rằng có thức và thức là thường, thường ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Cho đến [nếu cho rằng có] sắc và sắc là thường, thường ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Cũng như cầm tấm gương nhìn vào thấy khuôn mặt, khuôn mặt ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Nếu nói rằng có năm ấm thì đều là sinh, chẳng phải bất sinh.

Nếu có thể biết rằng sắc chẳng phải tịnh..., cho đến thức chẳng thường, lại có thể biết sắc là vô thường, là khổ, là không, là bất tịnh, cho đến thức là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh thì đó là bất sinh, chẳng phải sinh. Như người mù tay cầm tấm gương nhưng không thấy ảnh tượng sinh ra [trong gương], đó là bất sinh, chẳng phải sinh. Khi đã rõ biết bất sinh, đâu có lẽ nào trong [chỗ bất sanh] đó lại cho rằng ngã là sắc, hoặc cho rằng ngã khác với sắc, hoặc ngã ở trong sắc hay sắc ở trong ngã. Cho đến [thọ, tưởng, hành,] thức cũng đều như vậy. Quán xét như vậy thì nhân hiện tại với quả vị lai, tất cả đều không sinh ra. Giống như người mù nhìn vào tấm gương cũng chẳng thấy ảnh tượng. Đó gọi là quán năm ấm, là pháp quán với trí vô sinh.

Lại nói về pháp quán [12] nhập [và 18] giới. Thường khi nói đến biển, tuy là sâu rộng nhưng vẫn có giới hạn ở bờ bên này với bờ bên kia, do vậy vẫn xem là nhỏ. Nếu [so với] khi mắt nhìn thấy hình sắc rồi, ý niệm luyến ái đắm nhiễm, tham muốn dục lạc, làm sinh khởi cả ba nghiệp thân, miệng, ý, [không có giới hạn], đó mới thật là biển lớn, nhấn chìm hết thảy chúng sinh trong thế gian, trời, người, a-tu-la... Cho nên phải biết rằng mắt chính là biển lớn, hình sắc là sóng to gió lớn. Do luyến ái hình sắc ấy nên phải xoay vòng, quay lại [trong luân hồi]. Trong biển lớn ấy khởi lên những tri giác xấu ác thì chính là cá dữ, rồng độc; khởi tâm niệm đố kỵ, mưu hại chính là quỷ la-sát nam; khởi tâm niệm nhiễm ô tham ái chính là quỷ [la-sát] nữ. Thân, miệng, ý khởi lên chính là uống nước biển mặn tự chết chìm. Đó là con mắt với hình sắc đều không có tri giác [nhưng kết hợp] mà sinh ra ái nhiễm vô minh.

Ái luyến sinh nên sinh ra hành, hành sinh nên sinh ra nghiệp. Nghiệp trói buộc thần thức đi vào [thân] trung ấm. Đây là thức sinh. Tuy thành bào thai nhưng chưa trọn thành năm vóc, đó là sinh ra danh sắc, năm vóc trọn thành là sinh ra sáu nhập. Sáu nhập còn chưa phân biệt được khổ, vui gọi là sinh ra xúc; phân biệt được khổ, vui rồi gọi là sinh ra thụ. Đối với trần cảnh khởi lên sự đắm nhiễm là sinh ra ái luyến, rong ruổi khắp nơi tìm cầu [những điều tham muốn] là sinh ra chấp thủ. Tạo thành thân, miệng, ý là sinh ra hiện hữu.

Theo nghiệp thọ nhận năm ấm trong vị lai là hình thành sự sinh. Khi năm ấm trong vị lai dần biến đổi là sinh ra sự già suy. Năm ấm trong vị lai hư hoại mất đi là sinh ra sự chết. Trong tâm nóng nảy là sinh ra sầu ưu, buồn đau than khóc là sinh ra bi thương. Thân tâm tiều tụy rúng động là sinh ra khổ não. Đây gọi là khi mắt nhìn thấy hình sắc liền có khổ não lớn của 12 nhân duyên trong ba đời tụ lại sinh ra, chẳng phải bất sinh. Đối với [các nhập còn lại như] tai [với âm thanh], mũi [với mùi hương], lưỡi [với vị nếm], thân [với sự xúc chạm], ý [với các tư tưởng], và 18 giới, từ nhãn giới cho đến pháp giới cũng đều như vậy. Đó là 12 nhập và 18 giới đều sinh ra, chẳng phải bất sinh.

Thế nào là bất sanh? [Đó là] quán xét khi mắt thấy hình sắc chẳng trồng hạt giống khổ đau, nên chẳng nảy lên mầm khổ đau. Không rỉ chảy ra mùi hôi thối thì chẳng thu hút ruồi nhặng tụ tập. Hạt giống không sinh thì mầm sẽ không sinh; mùi hôi thối không sinh thì ruồi nhặng không sinh. Cho nên gọi là bất sinh.

Thế nào là gieo trồng khổ não? Khi mắt nhìn thấy hình sắc, khởi sinh tri giác tham lam, sân hận, đó là những hạt giống khổ đau. Nghĩ tưởng đến năm món dục lạc là mầm sinh khổ đau. Sáu căn bám giữ theo sáu trần cảnh, đó gọi là rỉ chảy nước hôi thối. Ở trong sáu trần, các ý niệm lành dữ tranh nhau khởi lên, đó gọi là ruồi nhặng.

Nếu rõ biết con mắt với hình sắc đều là vô thường, khổ, không, vô ngã thì tham lam, sân hận chẳng sinh, những ý niệm tham muốn chẳng sinh, sự bám giữ trần cảnh chẳng sinh, các hành vi thiện ác chẳng sinh. Đây là bất sinh.

[Đối với các nhập khác như] tai [với âm thanh], mũi [với mùi hương], lưỡi [với vị nếm], thân [với sự xúc chạm], ý [với các tư tưởng] cũng đều như vậy. [Và đối với 18 giới từ] nhãn giới cho đến pháp giới cũng đều như vậy.

Ngài A-nhã là người đầu tiên đạt được trí vô sinh này theo Tạng giáo, cho nên có tên là A-nhã Kiều-trần-như.

Theo nghĩa Thông giáo quán trí vô sinh thì ví như một người ảo hóa cầm tấm gương ảo hóa, dùng thân thể[70] ảo hóa soi vào tấm gương ảo hóa nhìn thấy ảnh tượng trong gương ảo hóa. Ảnh tượng ấy chẳng phải do tấm gương sinh ra, chẳng phải do khuôn mặt sinh ra, cũng chẳng phải do tấm gương hợp với khuôn mặt sinh ra, chẳng phải lìa tấm gương và khuôn mặt mà sinh ra. Đã không phải do 4 nguyên nhân trên[71] mà sinh ra, [nên ảnh tượng ấy] chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, cũng chẳng phải ở khoảng giữa, không thể tự hiện hữu, không có chỗ mất đi, cũng chẳng thể rời đi bốn phương đông, tây, nam, bắc. Tánh vốn tự vô sinh, chẳng phải do diệt mất chỗ sinh mà thành vô sinh. Tánh vốn tự không diệt, chẳng phải do diệt mất chỗ diệt mà thành vô diệt. Chẳng sinh chẳng diệt cho nên gọi là vô sinh. [Đối với các ấm] thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Lại quán hình sắc ảo hóa như ảnh tượng ảo hóa trong tấm gương soi. Quán thọ như bọt nước nổi, quán tưởng như hơi nóng lung linh [nhìn thấy từ xa], quán hành như thân cây chuối, quán thức như ảo hóa.

Sự ảo hóa ấy chẳng phải từ vật ảo hóa sinh ra, chẳng phải từ nhà ảo thuật sinh ra, chẳng phải do vật ảo với nhà ảo thuật hợp lại sinh ra, cũng chẳng phải lìa khỏi vật ảo với nhà ảo thuật mà sinh ra. Theo bốn cách ấy[72] mà tìm thì thấy chỗ ảo hóa thật không từ đâu sinh ra cả. Lại trong khắp bốn phương mà tìm chỗ ảo hóa ấy diệt mất thì thấy chẳng diệt về đâu cả. [Cho nên] tánh vốn vô sinh, chẳng phải do diệt mất sự sinh mới thành vô sinh; tánh vốn vô diệt, chẳng phải do diệt mất sự diệt mới thành vô diệt. Không sinh không diệt nên gọi là vô sinh.

Quán xét các căn và trần như xóm làng nơi các phiền não kết sử tụ họp, từ xưa đến nay hết thảy đều chẳng có gì chân thật, chỉ do vọng tưởng mà khởi lên. Sự vận hành tác động của nghiệp lực giả hợp nơi chỗ rỗng không. Thể tánh của vô minh vốn chẳng tự có, chỉ do nhân duyên vọng tưởng hòa hợp mà thành có. Chỗ có ấy tự nó vốn là không, do nhân duyên mà thành có. Nghiệp khổ phiền não [không thật, chỉ] như vòng lửa xoay tròn.[73] Quán xét thấy cội gốc [những thứ ấy] vốn đều là không, như trên đã nói, đó là ý nghĩa giải thích theo Thông giáo.[74]

Theo Biệt giáo quán xét trí vô sinh thì lấy tấm gương dụ cho pháp giới, mắt nhìn [vào gương] ví như trí quán sát, [các màu sắc] xanh, vàng, đỏ, trắng [và các hình tượng] nhỏ, lớn, ngắn, dài là dụ cho Mười pháp giới. Màu xanh dụ cho nhân và quả cảnh giới địa ngục, màu vàng dụ cho nhân và quả cảnh giới ngạ quỷ, màu đỏ dụ cho nhân và quả cảnh giới súc sinh, màu trắng dụ cho nhân và quả cõi trời, cõi người, hình tượng nhỏ dụ cho nhân quả hàng Nhị thừa, hình tượng lớn dụ cho nhân quả hàng Bồ Tát Thông giáo, hình tượng ngắn dụ cho nhân quả hàng Bồ Tát Biệt giáo, hình tượng dài dụ cho nhân quả pháp giới Phật. Tất cả đều rõ ràng trong gương, phân biệt không nhầm lẫn.

Nếu muốn tự sửa mình chân chánh thì làm sao cho 9 loại nhân quả đều không sinh, chỉ sinh 1 nhân quả [pháp giới Phật]. Nếu muốn giúp người khác tu sửa chân chánh thì làm sao cho 9 loại nhân quả của họ đều chẳng sinh, chỉ sinh 1 nhân quả [pháp giới Phật]. Y pháp giới thực hành theo hạnh Bồ-đề, tuần tự dùng trí quán sát chia chẻ tự thể, đoạn trừ sự sinh khởi của 4 trụ địa,[75] khiến cho không thể sinh khởi. Kế tiếp dùng vô số pháp Phật để đoạn trừ hết thảy phiền não khách trần, làm cho chẳng còn sinh khởi si mê vô trí. Sau đó dùng trí tuệ thật tướng đoạn trừ vô minh, khiến cho căn bản vô minh[76] không còn sinh khởi. Dứt trừ 4 trụ địa thì phần đoạn [sinh tử] không sinh khởi. Nếu không si mê vô trí thì Phương tiện độ[77] không sinh. Nếu không còn vô minh thì Thật báo độ[78] cũng không sinh. Sinh đã không sinh, cho đến bất sinh cũng không sinh, cho nên gọi là bất sinh.[79] Đây gọi là trí vô sinh theo Biệt giáo.

Nói lược qua về quán xét trí vô sinh theo Viên giáo thì giống như quán sát tấm gương soi tròn đầy, không lưu tâm đến trước hay sau, không lưu tâm đến hình tượng, mặt sau chẳng phải tối tăm, mặt trước cũng chẳng phải sáng tỏ, không bám giữ các loại hình thù, chẳng bám giữ hình tượng của gương, chỉ quán sát chỗ tròn đầy viên mãn, không bờ mé giới hạn, không khởi đầu hay kết thúc, không sáng không tối, không đồng nhất không sai khác. Ví như cái nhìn tròn đầy viên mãn, không bám giữ nơi tướng mạo của Mười pháp giới, không thiện không ác, không tà không chánh, không lớn không nhỏ v.v. hết thảy đều dứt sạch. Chỉ nương theo tướng thật của các pháp, pháp tánh của Phật pháp. Dù là hình sắc hay mùi hương đều không ngoài thật tướng.

Quán xét nghiệp phiền não sinh tức là vô sinh. Vô sinh ấy không sinh nên gọi là vô sinh. Các nỗi khổ nơi ấm, nhập, giới tức là pháp thân, vì không hiển hiện nên gọi là pháp thân. Chướng ngại ngăn che là pháp thân, tham sân si là Bát-nhã, không phải vì có khả năng soi chiếu sáng tỏ nên gọi là Bát-nhã. Vì không nơi nào có thể soi chiếu, tánh vốn tự sáng tỏ. Hết thảy hành nghiệp trói buộc đều là giải thoát, không phải do dứt trừ trói buộc mà được giải thoát, cũng không có tánh thể nào để trói buộc, không gì có khả năng trói buộc, nên gọi là giải thoát.

Giải thoát tức là nghiệp không sinh khởi. Bát-nhã tức là phiền não không sinh khởi. Pháp thân tức là khổ não không sinh khởi. Ba điều này không sinh tức một không sinh, một không sinh tức ba không sinh. Chẳng phải ba, chẳng phải một nên gọi là không sinh. Huống chi những sự biến dịch, phiền não, nghiệp khổ lại chẳng phải không sinh. Đây là quán trí vô sinh theo Viên giáo. Đại thể là như vậy.

Theo ý nghĩa bản tích thì Kiều-trần-như vốn tự không sinh, chẳng phải chỉ lúc ban đầu không sinh. Đó là muốn dẫn ví dụ sữa làm thành sữa đặc. Cho nên, theo nghĩa Tích môn thì Sơ giáo vốn không sinh, là dẫn ví dụ sữa đặc làm thành sinh tô; cũng theo nghĩa Tích môn thì Thông giáo vốn không sinh, là dẫn ví dụ sinh tô làm thành thục tô; cũng theo nghĩa Tích môn thì Biệt giáo vốn không sinh, là dẫn ví dụ thục tô làm thành đề-hồ; cũng theo nghĩa Tích môn thì Viên giáo vốn không sinh, mà Bản môn ở nơi A tự môn,[80] nghĩa là nói tất cả các pháp ban sơ vốn không sinh. [Cho nên,] nếu nghe đến A tự môn thì hiểu được nghĩa hết thảy đều chẳng phải sinh, chẳng phải không sinh. Vì thị hiện theo Tích môn để dẫn dụ giáo hóa nên có thể là [nghĩa] sinh, có thể là không sinh. Chúng sinh nào có thể hiểu được nghĩa không sinh theo Viên giáo tức là đồng với A-nhã [Kiều-trần-như].

Chẳng phải Bản môn, chẳng phải Tích môn, chẳng phải sinh cũng chẳng phải không sinh, ngay nơi chỗ này mà đại sự nhân duyên [của chư Phật] hoàn tất. Cho nên, ở phần sau [trong quyển 4] nói rằng: “Phú-lâu-na đủ các tài biến hóa, nếu ta nói đầy đủ, chúng sinh nghe điều này, tâm ắt sinh nghi hoặc”,[81] tức là nghĩa này vậy.

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “A-nan cầm lọng bưng đèn theo sau Phật, Đại Phạm vương cầm lọng bưng đèn theo sau Kiều-trần-như.” Đó là thị hiện Tích môn vì muốn hiển lộ Bản môn.

Lược nói ba pháp quán như trên thì có thể rõ được [ý nghĩa] không sinh [trong tên gọi Kiều-trần-như], không cần nói đủ rườm rà.

Ma-ha Ca-diếp

Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa), Hán dịch là họ Đại Quy (大龜氏), [nghĩa là con rùa lớn], do tổ tiên đời trước khi học đạo có con rùa thần cõng sách học đạo tiên ứng hiện đến. Theo mệnh đức của gia tộc như vậy nên lấy họ Quy. Ngài Tam Tạng Chân Đế dịch là Quang Ba (光波), là “luồng sóng ánh sáng”. Các vị tiên nhân thuở xưa thân hình phát ra ánh sáng chói lọi, [lấn át] khiến cho không còn thấy được các loại ánh sáng khác, cho nên gọi là Quang Ba, lại cũng gọi là Ẩm Quang. Ánh sáng nơi thân ngài Ca-diếp cũng có thể soi sáng [lấn át ánh sáng của] vật khác.

[Ngài cũng có tên] là Tất-bát-la hoặc Tất-bát-ba-la-diên, hoặc Thê-tỳ-lê. Tất-bát-la là tên cây,[82] do cha mẹ cầu đảo với thần cây này mà sinh được ngài, nên lấy tên cây đặt tên cho con. [Còn danh hiệu] Bạt-kỳ tử là do sinh ra ở làng Bạt-kỳ nên lấy [tên làng] làm hiệu. Gia đình này cực kỳ giàu có. Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Có vị trưởng giả cực kỳ giàu có ở xứ La-duyệt-kỳ[83] tên là Ca-tỳ-la, người vợ tên Đàn-na, con trai tên Tất-bát-la, con dâu tên là Bà-đà, giàu có hơn vua Bình Sa[84] gấp ngàn lần, trong 16 nước lớn chẳng ai sánh bằng.”

Trong sách Phó pháp tạng[85] nói rằng: “Sau khi đức Phật Tỳ-bà-thi diệt độ, tượng Phật trong tháp bằng vàng bị đổi màu hư hoại. Lúc ấy có cô gái nghèo nhặt được viên ngọc quý màu vàng liền [dùng để] thuê người thợ vàng bạc đến tô phết lại tượng Phật. [Người này] hoan hỷ tô sửa làm cho tượng Phật sáng đẹp. [Sau đó] hai người có lời thề nguyền trở thành vợ chồng với nhau. Trong suốt 91 kiếp sau đó, dù sinh trong cõi người hay cõi trời, thân thể người này thường có màu sáng như vàng ròng, tâm thường được vui. Đời sau cùng sinh vào gia đình bà-la-môn Ni-câu-luật-đà ở nước Ma-kiệt-đà. [Vua nước Ma-kiệt-đà dùng 1.000 lưỡi cày bằng vàng để cày ruộng, gia đình này] sợ hơn vua sẽ bị bắt tội nên giảm bớt một lưỡi cày, chỉ dùng 999 cặp bò kéo lưỡi cày vàng để cày ruộng.”[86]

Trong kinh cũng nói rằng, ở nhà này loại vải lụa phẩm chất kém nhất cũng có giá trị đến trăm ngàn lượng vàng. Nếu [trải lụa trên đất rồi] dùng đinh đóng xuống sâu đến 7 thước[87] cũng không xuyên thủng được [loại vải lụa này], khi rút đinh lên lụa vẫn như cũ không hề khác đi. Trong nhà có 60 kho chứa đầy vàng, mỗi kho là 340 hộc.[88] Các kho chứa lúa cũng đều như vậy.

Trong kinh lại cũng nói rằng, nhờ dùng lúa gạo cúng dường Phật Bích-chi nên [cả hai người] thường được sinh về cõi trời Đao-lợi cả ngàn lần, hưởng sự vui thú.

Thân hình ngài Ca-diếp có 30 tướng tốt. Đây chỉ nói về tướng thân có sắc vàng thì loại vàng diệm-phù-na-đà nếu đặt dưới đáy nước bùn, ánh sáng có thể tỏa chiếu lên khỏi mặt nước, nếu đặt ở chỗ tối thì xua tan tăm tối, nhưng hào quang từ thân thể ngài Ca-diếp tỏa chiếu còn sáng hơn cả loại vàng này, chiếu xa đến một do tuần. [Nếu so với đức Phật thì] kém hơn hai tướng, là không có tướng bạch hào (lông trắng giữa hai chân mày) và tướng nhục kế (khối thịt nhỏ trên đỉnh đầu).[89]

Cho nên, lúc cung thỉnh ngài kết tập kinh điển, chư thiên đọc kệ xưng tán rằng:

Bậc trưởng lão đã trừ tham, sân, mạn;
Thân uy nghi như trụ tử kim,[90]
Đoan nghiêm vi diệu không gì bằng,
Mắt sáng thanh tịnh như hoa sen.

Ngài Ca-diếp xả bỏ gia nghiệp như vậy. Lại nữa, cha mẹ cưới cho một người vợ thân có sắc vàng,[91] hai vợ chồng thay nhau kẻ thức người ngủ, không hề phạm vào sắc dục,[92] rồi lại xả bỏ để đi xuất gia. [Lúc đi xuất gia,] trên thân đang mặc tấm áo quý vô giá, liền cắt ra làm bốn tấm dâng lên cúng dường Phật làm tòa ngồi, còn mình nhận y tăng-già-lê. Ba lần xả bỏ như vậy, [xả bỏ gia nghiệp, xả bỏ gia đình, xả bỏ áo quý,] trong đời không ai sánh kịp nên gọi là bậc đại xả. Ngài gặp Phật ở làng Bạt-kỳ liền dâng cúng áo quý, Phật [nhận rồi] ban cho ngài đại y phấn tảo. Tấm y này là y của bậc đại thánh, lại không thô nặng. Cho nên ngài Ca-diếp nói rằng: “Ta thọ nhận y của Phật, luôn kính y như kính thầy, kính tháp, chưa từng dám gối đầu lên y, huống chi đến việc trải nằm. Như tấm đại y này giúp ta luôn hết sức tinh tấn tu hành, cho nên nói là được sự lớn lao.”

Trong hàng đệ tử Phật có nhiều vị khác cũng tên Ca-diếp, như Thập lực Ca-diếp,[93] ba anh em Ca-diếp[94]... Các ngài đều là những bậc đại nhân, nhưng trong những người cùng tên ấy, ngài lớn tuổi nhất nên gọi là Đại Ca-diếp. Ban sơ gặp Phật tại làng Bạt-kỳ, vừa được nghe Phật giảng về sự tăng trưởng giới, định, tuệ, ngài liền chứng quả vô lậu.[95] Ngài nhận lãnh pháp khất thực và thực hành 12 hạnh đầu đà, cho đến tuổi già vẫn không từ bỏ. Về sau, đức Phật bảo ngài: “Ông đã cao tuổi, có thể thôi việc khất thực, về theo đại chúng thọ thực,[96] cũng có thể bỏ y phấn tảo thô nặng, dùng loại y hoại sắc nhẹ nhàng của cư sĩ [dâng cúng].” Ngài Ca-diếp bạch Phật rằng: “Nếu không có Phật ra đời, con sẽ làm Phật Bích-chi suốt đời tu hạnh đầu đà. Nay con không dám bỏ những điều đã tu tập từ lâu mà học theo pháp khác. Con cũng muốn nêu gương sáng cho đời sau. Người đời sau sẽ nói: ‘Thượng tọa Ca-diếp [tu khổ hạnh] được Phật ngợi khen, chúng ta cũng nên học theo hạnh khổ hạnh khó làm.’” Đức Phật dạy: “Lành thay! Đây thật là công hạnh lớn lao.”

Theo kinh Tăng Nhất A-hàm, trong Phật pháp việc thực hành 12 hạnh đầu đà là rất khó, mà tu hành khó nhọc [như vậy] thì ngài Đại Ca-diếp là bậc đệ nhất. Khi ngài tu hạnh đầu đà đã lâu, râu tóc mọc dài, y phục xấu rách, vừa đến chỗ Phật thì các tỳ-kheo khác nhìn thấy đều khởi tâm xem thường. Đức Phật gọi đến, nhường một nửa tòa ngồi, bảo ngài cùng ngồi, nhưng ngài Ca-diếp không dám nhận. Phật dạy: “[Sao lại không dám ngồi cùng ta?] Ta có Tứ thiền, khi thiền định thì tâm dừng nghỉ, từ khởi đầu cho đến kết thúc, tâm không hao tổn, ông cũng được như ta. Ta có lòng đại từ, thương yêu che chở tất cả [chúng sanh], ông cũng giống như ta, cũng đầy đủ lòng từ. Ta có lòng đại bi tế độ chúng sinh, ông cũng giống như vậy. Ta có bốn phép thần tam-muội, một là tam-muội vô hình, hai là tam-muội vô lượng ý, ba là tam-muội tích chứa thanh tịnh và bốn là tam-muội không thối chuyển, ông cũng giống như vậy. Ta có sáu phép thần thông, ông cũng giống như vậy. Ta có bốn phép định, một là thiền định, hai là trí định, ba là tuệ định, bốn là giới định, ông cũng giống như vậy.”

Kinh lại nói tiếp: “Có người bà-la-môn thưa với Phật: ‘Hôm qua có người bà-la-môn đến nhà con, đó là ai vậy?’ Phật chỉ ngài Ca-diếp. Người kia lại hỏi: ‘Vị sa-môn này đâu phải bà-la-môn?’ Đức Phật dạy: ‘Những pháp và luật của sa-môn, pháp và luật của bà-la-môn ta đều rõ biết, Ca-diếp cũng rõ biết.’”

[Đức Phật nói:] “Công đức của Ca-diếp so với ta chẳng khác, vì sao lại chẳng [dám] ngồi [chung với ta]?”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật ngợi khen [Ca-diếp] như vậy đều kinh sợ trong lòng, lông tóc dựng lên. Phật liền kể lại nhân duyên ngày trước: “Thuở xưa có vị thánh vương hiệu Văn-đà-kiệt,[97] tài giỏi vô song. Thiên đế kính ngưỡng đức hạnh ấy liền cho 1.000 chiếc xe ngựa dàn thành cổng chào nghênh đón nhà vua. Thiên đế ra khỏi cung chờ đón, rồi cùng vua ngồi chung một chỗ. Sau khi chung vui rồi mới đưa tiễn nhà vua về cung. Xưa kia Ca-diếp [là Thiên đế] dùng tòa ngồi trong chốn sinh tử mời ta [là thánh vương Văn-đà-kiệt] cùng ngồi. Nay ta thành Phật nên dùng tòa ngồi Chánh pháp để đáp lại tấm lòng thuở xưa.” Ngài Ca-diếp ngồi xuống đối diện với Phật, hàng trời người thấy vậy đều cho rằng đó là thầy của Phật.[98]

Lại nữa, [có lần] ngài Ca-diếp cùng đi với ngài A-nan, thuyết pháp cho các tỳ-kheo-ni. Có một tỳ-kheo-ni không hài lòng nói rằng: “Thằng bé bán kim châm dám đến trước ông thầy châm cứu mà bán kim châm.” Ngài Ca-diếp liền bảo ngài A-nan: “Tỳ-kheo-ni này ví ông như thầy châm cứu, còn tôi như đứa trẻ bán kim châm.” Rồi ngài Ca-diếp nói với tỳ-kheo-ni ấy: “Phật thuyết trong kinh Nguyệt Dụ rằng, duy nhất chỉ có Đại Ca-diếp là mỗi ngày đều tăng trưởng sự học giống như người mới học, cô có nghe việc ấy chăng? Ở giữa đại chúng [được Phật] nhường cho một nửa tòa ngồi [để cùng ngồi với Phật], cô có nghe việc ấy chăng? Ở giữa đại chúng [Ca-diếp] được [Phật ngợi khen] công đức rộng lớn cũng đồng như Phật, cô có nghe việc ấy chăng? Làm sao một người như vậy [mà cô lại có thể ví như] đứa trẻ bán kim châm?”[99]

Do những việc như vậy nên được Phật ấn khả cho [danh xưng của ngài] là Đại [Ca-diếp].

Về địa vị [được xưng là] Đại, [ngài Ca-diếp] ở trong đại chúng được xưng là Đại, ở trong 1.250 vị [tỳ-kheo] được xưng là Đại, ở trong 500 vị [A-la-hán] được xưng là Đại, ở trong 4 đại đệ tử được xưng là Đại, là vị chủ trì tự viện của 5 núi, là bậc Thượng Tọa tri sự trong cõi Diêm-phù-đề, cho nên về địa vị gọi là Đại.

Sau khi trà-tỳ nhục thân Phật, chỗ tro tàn nơi ấy mọc lên 4 cây đa-la,[100] tượng trưng cho việc ngài Ca-diếp kết tập giáo pháp của Phật trong 3 a-tăng-kỳ kiếp, thành 3 tạng kinh điển, 4 bộ A-hàm.

Bài tựa của ngài Tăng Triệu nói rằng: “Chỗ cao tột của tông chỉ là dứt sạch sự ngợi khen, giảng giải. Bậc hiền thánh xem đó là hòa nhập vào tĩnh lặng. [Nhưng] tông chỉ sâu xa huyền diệu, nếu không dùng đến ngôn từ thì không thể truyền lại [cho đời sau]. Đức Thích-ca thiết lập giáo pháp, vì ước thúc hành vi và lời nói, ngăn phòng [việc xấu ác] nên dùng giới luật với các điều ngăn cấm; vì để phân biệt sáng tỏ những điều thiện ác, làm khuôn mẫu dẫn dắt [chúng sanh] nên dùng kinh điển; vì diễn giảng những chỗ sâu xa uyên áo tinh vi nên dùng [các luận giải vi diệu] biện biệt rõ các tướng của pháp.”[101] Đây chính là nói rõ về giới, định, tuệ trong Tam tạng [kinh điển].

Kinh Tăng Nhất A-hàm làm sáng tỏ lý nhân quả trong hai cõi trời, người. Kinh Trường A-hàm phá trừ tà kiến. Kinh Trung A-hàm làm sáng tỏ những ý nghĩa sâu xa. Kinh Tạp A-hàm giảng rõ về thiền định. [Lưu truyền được các bộ kinh này,] đều là do công lao của ngài Đại Ca-diếp. Nếu nói riêng về việc kết tập thì ngài A-nan tụng đọc lại Kinh tạng (Tu-đa-la), ngài Ưu-ba-ly tụng đọc lại Luật tạng (Tỳ-ni), ngài Ca-diếp tụng đọc lại Luận tạng (A-tỳ-đàm). Cho nên nói việc kết tập là lớn lao.

Sau khi Đức Như Lai viên tịch, Chánh pháp được giao phó cho ngài Ca-diếp. [Phật dạy rằng: “Ca-diếp] có thể vì tất cả [chúng sanh] làm chỗ nương tựa noi theo, cũng giống như Như Lai [còn tại thế]. Vì sao vậy? Nếu còn có người thực hành hạnh đầu đà khổ hạnh [như Ca-diếp] thì Chánh pháp của ta còn tồn tại. Nếu không có người như thế thì Chánh pháp không tồn tại. Ca-diếp có thể gánh vác Phật pháp, khiến cho được trụ thế lâu dài, cho đến khi đức Phật vị lai ra đời để giao phó Chánh pháp, trao lại y [của Phật], xong việc rồi sau đó mới nhập diệt.” Cho nên nói việc giữ gìn Chánh pháp là lớn lao.

Ngài Ca-diếp khi sắp [vào núi] ẩn mình liền hiện lên cõi trời đảnh lễ tóc Phật [được thờ ở đó] rồi vì chư thiên thuyết pháp, dạy rằng:

Làm thiện sinh cõi trời,
Làm ác đọa lạc sâu.
Năm dục chẳng thường còn,
Như sương đọng trên hoa,
Nắng lên liền tan biến.

Thuyết giảng như vậy rồi từ biệt, chư thiên buồn khóc, than rằng:

Khốn khổ buồn lo cùng quẫn,
Đớn đau ốm yếu gầy còm,
Nghèo khổ cô độc chơ vơ,
Tôn giả xót thương che chở.
Nay ngài xả thân diệt độ,
Còn ai chở che, bảo bọc?”

[Ý nghĩa danh xưng “Đại Ca-diếp”] đại lược là như vậy.

Giải thích về hạnh đầu đà

Lược theo giáo nghĩa giải thích rõ về hạnh đầu đà,[102] gồm 12 sự nỗ lực vượt trội.[103] Đó là nói kẻ tham muốn mong cầu y tốt là khổ. Khi được y thì nhiều nỗi lo lắng sợ sệt, khi mất y thì sinh ra buồn rầu khổ não. Người mặc y phấn tảo[104] thì không có 5 mối lo sợ [mất y] như: bị nước trôi, bị lửa cháy, bị trộm, bị cướp, bị vua quan tịch thu. Nếu tích chứa nhiều y thì khổ nhọc cũng nhiều vì những việc giặt giũ, khâu vá, cắt sửa. Cho nên [người tu hành] chỉ có 3 y. Nếu ở trong chúng mà ăn [của tăng chúng] thì phải giúp vào phục vụ việc chung, nên chỉ đi khất thực [để sống]. Nếu ăn rồi còn ăn thêm nữa,[105] ăn nhiều bữa vặt thì lăng xăng nhiễu động, mất nhiều thời gian, nên mỗi ngày chỉ ăn một bữa, đã ăn xong thì không ngồi xuống ăn nữa. Ăn quá no thì khó tiêu hóa, sinh ra buồn ngủ và lười biếng; ăn quá ít thì đói gầy mất sức, cho nên phải ăn uống tiết chế vừa đủ. Dùng nhiều bát đĩa phải mất nhiều công rửa sạch càng thêm chướng ngại [sự tu tập], nên chỉ ăn trong một bình bát. Tham cầu các loại nước uống khiến tâm lăng xăng loạn động, nên [sau bữa ăn] không uống nước.[106] [Ngủ nghỉ trong] phòng ốc sẽ sinh tâm bám chấp, nên [ngủ nghỉ] dưới gốc cây. Dưới gốc cây cũng sinh bám chấp, nên ngủ nghỉ nơi bãi tha ma. Nơi bãi tha ma lại bị những sự bi thương buồn khổ gây chướng ngại [sự tu tập] nên [ngủ nghỉ nơi] đồng trống. Nằm thì tiêu hao công đức, tăng thêm sự lười nhác, cho nên chỉ thường ngồi.

[Trong 12 hạnh đầu đà như kể trên,] có 2 điều là phép tắc dùng y phục, 6 điều là phép tắc ăn uống và 4 điều là về chỗ ngủ nghỉ.[107]

Hãy lược nói qua về việc khất thực để hiểu rõ về hạnh đầu đà. Lúc đi khất thực [cũng có thể mắc lỗi lầm], nếu dễ dàng có được thức ăn thì sinh tâm vui mừng, nếu khó khăn mới có được thì sinh ra bực tức, sân hận; nếu được món ngon thì thích ý, gặp món dở thì buồn phiền. Tâm buồn lo hay vui thích ấy do nơi hình sắc [bên ngoài] mà khởi lên, tức là sắc ấm. Nhận lấy những buồn lo, vui thích ấy là thọ ấm. Bám chấp nơi tướng buồn lo, vui thích ấy là tưởng ấm. Buồn lo, vui thích ấy chính là hành ấm. Phân biệt những sự buồn lo, vui thích, ấy là thức ấm. Buồn lo, vui thích ấy là gồm cả ý và pháp, hai việc ấy thành ra 2 nhập [trong 6 nhập, với thức ở giữa thành ra] 3 giới [trong 18 giới]. Ấm, nhập và giới tức [hình thành] Khổ đế.

Thấy mình có thể đi khất thực, liền khởi tâm chấp mình là ngã, [phân biệt với] không phải ngã; cho việc khất thực là đạo, là chân thật, suy xét như vậy thì tán thán niềm vui, chê ghét sự sân hận, thường bị trách mắng tức sinh lòng nghi, [đối với sự việc] không rõ biết ấy là si... [Những kiến chấp, tham, sân, si, mạn...] ấy chính là thập sử. Xét qua Tứ đế trong Tam giới thì gồm đủ Bát thập bát sử (88 phiền não kết sử),[108] gọi là Tập đế.

Nếu rõ biết được trong pháp khất thực có 4 sự điên đảo, tương tợ như nhau, tương tục không ngừng che lấp nên cho là thường, được khi thích ý cho là lạc (vui), cử động đi lại vì [si mê] che lấp mà cho là ngã, [thân bất tịnh] có lớp da mỏng che đậy lại cho là tịnh. Thấu suốt được bốn sự che lấp ấy, không còn bốn điên đảo,[109] tinh tấn chuyên cần ngăn hai việc ác, sinh hai việc thiện,[110] tu tập tứ định, [ngũ] căn, [ngũ] lực, [các] giác đạo.[111] Đây chính là Đạo đế.

Trong khi khất thực không thấy có tự ngã thì si mê diệt. Si diệt nên tham ái diệt. Tham ái diệt nên sân hận diệt. Sân diệt nên không tự đề cao mình, do đó kiêu mạn diệt. Kiêu mạn diệt rồi nên khi bị trách mắng không sinh lòng nghi. Không thấy có tự ngã nên diệt được ngã kiến. Ngã kiến diệt nên biên kiến diệt. Không bám chấp [việc khất thực] là đạo nên giới thủ diệt, không cho [việc khất thực] là chân thật nên kiến thủ diệt, không bám chấp tà vạy nên diệt được tà kiến. [Tham, sân, si, mạn... cho đến giới thủ kiến, kiến thủ kiến,] thập sử đều diệt nên Bát thập bát sử (88 kết sử phiền não) [trong Tam giới] đều diệt. Bát thập bát sử đã diệt nên sự trói buộc bởi sự chết cũng diệt. Trói buộc nơi sự chết đã diệt nên trói buộc với [nghiệp] quả cũng diệt. Trói buộc nơi nghiệp quả đã diệt nên 25 cảnh giới hiện hữu[112] đều diệt. Đây chính là Diệt đế.

Nếu trong việc khất thực mà không thấy biết được Tứ chân đế[113] thì phải lưu chuyển lâu dài trong biển khổ sinh tử mênh mông. Nếu có thể thấy biết Tứ đế thì trừ dứt được sinh tử. Sinh tử đã dứt rồi thì không còn phải thọ [sanh] trong các cảnh giới hiện hữu. Đó là dùng trí tuệ quán xét trong hạnh đầu đà khất thực. Trong các hạnh đầu đà về y phục, đầu đà về trụ xứ cũng đều [quán xét] giống như vậy. Đây là giảng giải về hạnh đầu đà theo Tạng giáo.

Theo Thông giáo giảng giải về hạnh đầu đà thì duyên theo chân thật để chứng tịch tịnh là [hạnh đầu đà] trụ xứ, trí tuệ rõ biết tánh không là [hạnh đầu đà] khất thực, giữ tâm không trong mọi hành vi là [hạnh đầu đà] y phục. Thường thấy tánh không, khi không thấy gì không là tánh không thì hạnh đầu đà trí tuệ Không ấy thấy hết thảy đều như huyễn hóa, hết thảy vọng tưởng, các niệm xấu ác đều vắng lặng không còn sinh khởi, cho nên các pháp tâm và tâm sở đều không hiện hành. Do không gì có thể nắm bắt nên trong các pháp tương ưng thì tương ưng Không là cao trổi hơn hết, trong các pháp khổ hạnh thì hạnh Không là cao trổi hơn hết, trong các pháp đầu đà thì đầu đà trí tuệ Không là cao trổi hơn hết. Đó là lược nói về hạnh đầu đà [theo Thông giáo].

Giảng giải về hạnh đầu đà theo Biệt giáo thì nương theo pháp thân là [hạnh đầu đà] trụ xứ, trí tuệ Bát-nhã là [hạnh đầu đà] khất thực, hết thảy mọi hành vi đều trang nghiêm là [hạnh đầu đà y phục] ngăn che. Đầu đà [y phục] ngăn che cái xấu của nghiệp ác, đầu đà [khất thực] Bát-nhã ngăn che cái xấu của phiền não, đầu đà [trụ xứ] Pháp thân ngăn che cái xấu của khổ não sinh tử. Hạnh đầu đà trước [chấp nhận] nghiệp khổ phiền não phần đoạn, hạnh đầu đà tiếp theo [chấp nhận] nghiệp khổ phiền não biến dịch.[114] Đây là quán xét hạnh đầu đà chân chánh theo Trung đạo, vượt hơn tất cả những sự hành trì khổ hạnh của hàng Nhị thừa. Đại lược là như vậy.

Giải thích về hạnh đầu đà theo Viên giáo thì [hạnh đầu đà] trụ xứ cũng tức là hạnh đầu đà về y phục, cũng tức là hạnh đầu đà khất thực, vốn chỉ là một pháp, phân biệt nói thành ba. Một hạnh đầu đà là hết thảy các hạnh đầu đà, tất cả các hạnh đầu đà là một hạnh đầu đà, không phải một, không phải tất cả. Đối với hết thảy các hạnh đầu đà không gì là không phải thật tướng. Hết thảy việc làm của chư Phật đều là hạnh Như Lai, vượt qua chỗ hành trì thanh tịnh của chư Bồ Tát. Đại lược là như vậy.

Giải thích về hạnh đầu đà theo bản tích thì ban sơ vốn cùng ngồi với Như Lai, rốt ráo nơi lẽ không, cùng được pháp thân rộng lớn, cùng được trí tuệ không ngăn ngại, cùng được công đức vô lượng; trong buông xả mọi pháp ái nhiễm, ngoài không có cáu bẩn nhiễm ô. Các pháp đầu đà vốn dĩ trong ngoài đều tự thanh tịnh, vì muốn dẫn dắt [chúng sinh sơ cơ, như giới thiệu] mùi vị sữa (nhũ), nên [thị hiện] các hạnh đầu đà trong hành sự. Tiếp theo vì dẫn dắt [chúng sinh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị sữa đặc (lạc), nên [thị hiện] các hạnh đầu đà quán Không. Tiếp nữa vì dẫn dắt [chúng sinh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị váng sữa sống (sinh tô), nên thị hiện các hạnh đầu đà theo Biệt giáo. Lại tiếp theo nữa vì dẫn dắt [chúng sinh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị váng sữa chín (thục tô), nên thị hiện các hạnh đầu đà theo Viên giáo.

Giải thích hạnh đầu đà theo quán tâm thì quán Không thấy các hạnh đầu đà là chấp giữ tướng, quán giả tạm thấy các hạnh đầu đà như cát bụi không thật, quán Trung đạo thấy các hạnh đầu đà là vô minh, quán nhất tâm thấy năm trụ phiền não... Đại lược là như vậy.

__________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Trong phẩm Thí dụ khi ngài Xá-lợi-phất đề cập đến các vị A-la-hán thì nói là có 1.200 vị, không phù hợp với số 12.000 ở đây. Khi tham khảo bản dịch của H. Kern dịch từ Phạn ngữ (Sanskrit) vào năm 1884 thì cả hai nơi đều nói là 1.200 vị. Bản Hán dịch khác, cùng Phạn bản tương đương với bản này là Chánh Pháp hoa (bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ) cũng ghi là 1.200. Xét như vậy thì có lẽ con số 1.200 là hợp lý hơn. Chúng tôi xin nêu ra điểm tồn nghi này ở đây.

[2] Kinh văn phần sau liệt kê thính chúng trong hàng chư thiên và loài người, bắt đầu từ câu “爾時釋提桓因 – nhĩ thời Thích-đề-hoàn-nhân...” (ĐCT, T9, 262, tr.2a, d.15).

[3] Nguyên tác dùng “處季孟之間 – xử Quý Mạnh chi gian”, chỉ người ở vào địa vị không cao không thấp, không thuộc về tầng lớp bên trên, cũng không rơi vào tầng lớp bên dưới. Cách dùng này xuất phát từ điển tích thời Xuân Thu, nước Lỗ có hai họ Quý tôn thị và Mạnh tôn thị có địa vị không cao không thấp trong hệ thống quý tộc thời đó.

[4] Ở đây đề cập đến đoạn kinh văn phần sau liệt kê các vị Bồ Tát trong hội chúng, bắt đầu từ câu “菩薩摩訶薩八萬人 – Bồ Tát Ma-ha-tát bát vạn nhân” (ĐCT, T9, 262, trang 2a, d.2).

[5] Nguyên tác là “開三顯一 – khai tam hiển nhất“, được tiếp tục đề cập ở phần sau.

[6] Ở đây trích dẫn từ Pháp hoa luận sớ, quyển hạ (法華論疏卷下), ĐCT, T40, 1818. Bốn loại Thanh văn theo luận này gồm có Quyết định Thanh văn (決定聲聞), Thối Bồ-đề Thanh văn (退菩提聲聞), Ứng hóa Thanh văn (應化聲聞) và Tăng thượng mạn Thanh văn (增上慢聲聞).

[7] Nguyên tác là “住 果 - trụ quả”, chỉ việc hành giả hài lòng, thỏa mãn với kết quả tu tập và không muốn tiếp tục tiến lên cầu quả vị Phật.

[8] Nguyên tác là “thể pháp” (體法), thuật ngữ của tông Thiên Thai, chỉ việc trực tiếp thể nhận chân lý không qua phân tích chia chẻ, “đương thể tức không”, tức thời đoạn sạch phiền não, chứng đắc chân không.

[9] Nguyên tác dùng “九十五 種道外- cửu thập ngũ chủng ngoại đạo”, thật ra chỉ là một cách nói khái quát để chỉ ra là rất nhiều hạng ngoại đạo khác nhau, không phải một số đếm chính xác. Trong nhiều kinh luận khác thường dùng “cửu thập lục” (96) vì con số này có thể giải thích liên quan đến lục sư ngoại đạo.

[10] Như chúng tôi đã lưu ý ở trước, con số đúng là 1.200 vị.

[11] Tánh niệm xứ (性念處), cũng gọi là tự tánh niệm trụ (自性念住), là phương thức tu tập Tứ niệm xứ (thân, thọ, tâm, pháp) lấy trí tuệ làm thể tánh, bao gồm văn, tư, tu.

[12] Cộng niệm xứ (共念處), cũng gọi là tương tạp niệm trụ (相雜念住) hay tương ưng niệm xứ (相應念處).

[13] Duyên niệm xứ (緣念處), cũng gọi là sở duyên niệm trụ (所緣念住) hay cảnh giới niệm xứ (境界念處).

[14] Nguyên tác là “四韋陀 – tứ Vi-đà”, tên gọi khác để chỉ bốn bộ Vệ-đà hay Phệ-đà của đạo Bà-la-môn (tức Áo nghĩa thư), nhưng ở đây dùng với nghĩa biểu trưng để chỉ cho hết thảy kinh sách ngoại đạo.

[15] Bốn môn của Tạng giáo, bao gồm Hữu môn, Không môn, Diệc hữu diệc không môn và Phi hữu phi không môn. Thông giáo và Biệt giáo cũng đều có Tứ môn mang tên giống như vậy, nhưng cách giải thích về giáo pháp là khác nhau.

[16] Thể pháp (體法), thuật ngữ của tông Thiên Thai, đã có chú thích ở trước.

[17] Nguyên tác là Hằng sa (恒沙), nói tắt của Hằng hà sa số (恒河沙數), nghĩa là số cát của sông Hằng, biểu ý nhiều đến mức không thể đếm được, do vậy có thể hiểu là vô số.

[18] Nhị thừa (二乘), chỉ hai thừa không rốt ráo, gồm Thanh văn thừa (hoặc Tiểu thừa) và Duyên giác thừa, để phân biệt với giáo pháp rốt ráo của Đại thừa hay Nhất thừa, Phật thừa.

[19] Nguyên tác dùng “秦言 - Tần ngôn” vì văn bản viết ra vào đời Tần, thực tế mang ý nghĩa là chỉ người Trung Hoa, và đối với người Việt thì đều là Hán ngữ.

[20] Nguyên tác dùng Thập sư (什師), chỉ ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva - 鳩摩羅什), cũng gọi tắt là La-thập (羅什).

[21] Nguyên tác dùng “五系 - ngũ hệ”, tức ngũ xứ hệ (五處繫), là năm sự trói buộc khiến cho ma không thể tùy ý phá hoại, chẳng hạn như dùng pháp quán bất tịnh để đối trị ma ái dục...

[22] Bảy điều xấu ác của thân và khẩu, bao gồm ba điều xấu ác của thân là giết hại, trộm cướp và dâm dục, bốn điều xấu ác của miệng là nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt hoặc vô nghĩa.

[23] Đại sư Bảo Lương (寶梁 – 444 - 509), từ năm 12 tuổi đã theo học với Pháp sư Đạo Minh, thông suốt uyên bác hết thảy kinh, luận. Về sau đến chùa Linh Vị thiết lập đạo tràng giảng các kinh Niết-bàn, Hoa nghiêm, Pháp hoa, Vô Lượng Thọ cùng với Thành thật luận v.v. Cuối đời, ngài sưu tập tất cả những tác phẩm chú giải hiện có rồi thêm kiến giải của mình vào soạn thành bộ Đại Bát Niết-bàn kinh tập giải (大般涅槃經集解) gồm 71 quyển. (ĐCT, T37, 1763). Điều cần lưu ý là trong Đại Chánh tạng cũng như Đại từ điển Phật Quang đều ghi tên ngài là 寶亮, do vậy cũng có người đọc là Bảo Lượng.

[24] Vô tác giới (無作戒), cũng gọi là vô biểu giới (無表戒), vô giáo giới (無教戒). Khi vị giới tử đắc giới thì vô tác giới thể này tự nhiên hình thành, tạo thành một sức ngăn giữ liên tục không để cho thân, khẩu, ý dễ dàng phạm vào những việc làm hư hoại giới thể.

[25] Tương tự đạo (相似道): Theo giáo lý tông Thiên Thai thì người tu tập sau khi trải qua các địa vị Thập tín, dứt trừ được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, sáu căn được thanh tịnh... thì có thể phát khởi trí tuệ chân thật tương tự như các vị hành giả từ Sơ trụ trở lên. Do vậy gọi là tương tự đạo.

[26] Nguyên tác là tà mạng (邪命), chỉ chung việc kiếm sống bằng những nghề không thích hợp, không chân chánh, bất thiện, tạo ác nghiệp. Đối với người xuất gia thì ngay cả việc kiếm sống bằng những nghề nghiệp như làm ruộng, buôn bán... cũng đều không được phép.

[27] Bốn thứ ma: bao gồm ma phiền não, ma năm ấm, ma chết, ma trời Tha hóa tự tại.

[28] Thông hoặc (通惑), tức là những phiền não chung, phổ quát ở mọi người, bao gồm kiến hoặc và tư hoặc.

[29] Biệt hoặc (別惑), tức những phiền não riêng, chỉ tu tập lên hàng Bồ Tát Biệt giáo mới phải đối diện dứt trừ, bao gồm trần sa hoặc và vô minh hoặc.

[30] Tám thứ ma, bao gồm bốn thứ ma vừa kể trên (là những yếu tố não hại tất cả phàm phu) và vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh (là những yếu tố não hại những người tu tập thuộc hàng Nhị thừa).

[31] Mười thứ ma, theo luận Đại Trí độ, quyển 5 thì gồm có: ham muốn, lo sầu, đói khát, yêu thương, thích ngủ, sợ hãi, nghi kị, tâm độc hại, lợi dưỡng và kiêu căng. Nếu theo kinh Hoa nghiêm, quyển 42 thì gồm có: ma ngũ ấm, ma phiền não, ma nghiệp, ma tâm, ma chết, ma trời, ma mất thiện căn, ma tam-muội (chấp chặt vào thiền định đã chứng được, là ma), ma thiện tri thức (bỏn xẻn pháp, không chịu nói cho người khác nghe) và ma không biết chánh pháp Bồ-đề.

[32] Ở đây chỉ phần đoạn sinh tử (分段生死) và biến dịch sinh tử (變易生死). Phần đoạn sinh tử là sự trôi lăn của hàng phàm phu trong sinh tử, cũng gọi là hữu vi sinh tử. Vì chúng sinh có thọ mạng ngắn dài, khi chết đi thì thân xác hư hoại, sang đời sống khác có thân xác khác nên gọi là phần đoạn. Biến dịch sinh tử là vòng sinh tử của hàng Bồ Tát, cũng gọi là vô vi sinh tử. Vì không có sự chấm dứt thọ mạng, thân biến dịch chỉ thay đổi chuyển biến từ giai đoạn này sang giai đoạn khác nên gọi là biến dịch sinh tử.

[33] Nguyên tác dùng ngũ trụ (五住), tức là ngũ trụ địa hoặc (五住地惑), cũng gọi Ngũ trụ địa phiền não. Theo Từ điển Phật Quang thì thuật ngữ này chỉ cho 5 loại phiền não căn bản: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa. Vì 5 loại phiền não này là chỗ nương tựa, chỗ cư trú của hết thảy phiền não và thường sinh ra các phiền não khác, cho nên gọi là Trụ địa.

[34] Nguyên tác dùng Thi Ba-la-mật (尸波羅蜜) tức là Thi-la Ba-la-mật-đa (尸羅波羅蜜多), dịch theo ý nghĩa là Trì giới Ba-la-mật.

[35] Nguyên tác dùng nhị biên (二邊), nghĩa là hai bên, chỉ cho quan điểm sai lầm nghiêng về hai bên, nghĩa là chấp có hoặc chấp không, cũng gọi là biên kiến.

[36] Nguyên tác là “天竺云 - Thiên Trúc vân”. Người Trung Hoa xưa gọi Ấn Độ là Thiên Trúc. “Người Thiên Trúc nói rằng” có nghĩa là trong ngôn ngữ của Thiên Trúc, tức là Phạn ngữ (Sanskrit).

[37] Câu giải thoát (俱解脫), chỉ bậc A-la-hán nhờ định và tuệ mà dứt trừ cả hai chướng phiền não nên được giải thoát.

[38] Nguyên tác “五方便 - ngũ phương tiện”, Văn cú ký giải thích là chỉ các pháp tu như tứ niệm xứ (四念處), tứ thiện căn (四善根), ngũ đình tâm quán (五 停心觀)... Gọi là phương tiện, vì các pháp tu này để dẫn dắt người bắt đầu tu tập, chưa được xem là chánh quán giải thoát.

[39] Nguyên tác dùng “第一義天 - đệ nhất nghĩa thiên”, là một trong Ngũ chủng thiên (五種天), bao gồm: 1. Thế gian thiên (世間天), chỉ các vị vua chúa của thế gian, giả danh tự xưng là “thiên tử” nhưng thật sự không phải chư thiên. 2. Sinh thiên (生天), chỉ các cõi trời mà chúng sinh do tu thiện nghiệp có thể được tái sinh về. 3. Tịnh thiên (淨天), chỉ các bậc tu chứng từ quả Dự lưu cho đến các vị Bích-chi Phật. 4. Nghĩa thiên (義天), chỉ hàng Bồ Tát từ Thập trụ trở lên. 5. Đệ nhất nghĩa thiên (第一義天), chỉ đến chư Phật và cảnh giới Niết-bàn của Phật.

[40] Như chúng tôi đã nêu ra ở trước, con số này có thể chỉ là 1.200 vị.

[41] Thập nhị nhập (十二入), 12 nhập, tức sáu căn thiệp nhập với sáu trần.

[42] Tức kinh Phật khai giải Phạm chí A-bạt (佛開解梵志阿颰經), 1 quyển. (ĐCT, 1, 20)

[43] Trong kinh A-bạt vừa dẫn, tại trang 260c, d.14 và 15 kể tên 4 thánh quả. Sơ quả được gọi là Câu cảng (溝港), Nhị quả gọi là Tần lai (頻來), Tam quả gọi là Bất hoàn (不還), Tứ quả gọi là Ứng chân (應真).

[44] Tức kinh Phật thuyết Thái tử thụy ứng bản khởi (佛說太子瑞應本起經), thuộc (ĐCT, 3, 185)

[45] Trong kinh Thụy ứng vừa dẫn, tại trang 475a, d.26 viết: “羅漢者真人也 - La-hán giả, Chân nhân dã.” (La-hán, ấy là Chân nhân.)

[46] Đây là ví dụ như hạt thóc đã bóc sạch vỏ nên không thể nảy mầm được nữa.

[47] 98 phiền não (九十八煩惱), cũng gọi là 98 tùy miên (九十八隨眠), vì tùy miên là tên gọi khác của phiền não, cũng gọi là Cửu thập bát sử (九十八使). Chín mươi tám là tổng số của kiến hoặc và tư hoặc, trong đó kiến hoặc có 88 tùy miên, tư hoặc có 10 tùy miên.

[48] Nguyên tác dùng ngũ trụ hoặc (五住惑), tức ngũ trụ địa hoặc (五住地惑), cũng gọi là ngũ trụ địa phiền não, đã được giải thích ở trước.

[49] Nguyên tác dùng cửu đạo (九道), cũng gọi là cửu hữu (九有), cửu địa (九地), chỉ 9 cảnh giới mà tất cả chúng sinh cư trú. Bao gồm: 1. Dục giới ngũ thú địa, cũng gọi là Ngũ thú tạp cư địa (hoặc tạp trụ địa), là nơi có 5 loài hữu tình ở chung sống, gồm có địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, con người, chư thiên. 2. Ly sinh hỷ lạc địa, thuộc tầng trời Sơ thiền cõi Sắc. 3. Định sinh hỷ lạc địa, thuộc tầng trời Nhị thiền cõi sắc. 4. Ly hỷ diệu lạc địa, thuộc tầng trời Tam thiền cõi Sắc. 5. Xả niệm thanh tịnh địa, thuộc tầng trời Tứ thiền cõi Sắc. 6. Không vô biên xứ địa, thuộc tầng trời thứ nhất cõi Vô sắc. 7. Thức vô biên xứ địa, thuộc tầng trời thứ hai cõi Vô sắc. 8. Vô sở hữu xứ địa, thuộc tầng trời thứ ba cõi Vô sắc. 9. Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa, thuộc tầng trời thứ tư (Hữu đỉnh thiên, tức tầng trời cao nhất) cõi Vô sắc.

[50] Kinh Phương đẳng, tên gọi tắt chỉ kinh Đại Phương đẳng Đà-la-ni (大方等陀羅尼經). (ĐCT, T21, 1339)

[51] Ở đây phỏng theo ý kinh Phương đẳng vừa dẫn trên (tr.649a, d.19-20). Nguyên văn đức Phật nói với ngài Xá-lợi-phất là: “若復有人持四天下以積珍寶至于梵天以供於我不如有人與彼受持經者一食充軀。 - Nhược phục hữu nhân trì tứ thiên hạ dĩ tích trân bảo chí vu Phạm thiên dĩ cung ư ngã bất như hữu nhân dữ bỉ thụ trì kinh giả nhất thực sung khu.” (Nếu như có người mang bốn cõi thiên hạ chứa đầy trân bảo cho đến cả Phạm thiên cúng dường cho ta, cũng không bằng cho người thọ trì kinh này một bữa ăn nuôi thân.)

[52] Ở đây dẫn ý trong phẩm Pháp sư, kinh Pháp hoa: “佛告藥王。若有惡人以不善心毀呰在家出家讀誦法華經者其罪甚重。- Phật cáo Dược Vương: Nhược hữu ác nhân dĩ bất thiện tâm hủy tử tại gia xuất gia độc tụng Pháp hoa kinh giả, kỳ tội thậm trọng.” (Phật bảo Bồ Tát Dược Vương: Nếu có người dùng tâm xấu ác hủy báng chê bai người tại gia hay xuất gia tụng đọc kinh Pháp hoa, tội ấy rất nặng.)

[53] Nguyên tác là “八風 - bát phong”, tám ngọn gió, cũng gọi là bát pháp (八法) hay bát thế phong (八世風), tám ngọn gió đời, chỉ các duyên thường gây tác động đến lòng người, bao gồm: 1. Lợi, là lợi ích. 2. Suy, là suy tổn. 3. Hủy, là chê bai. 4. Dự, là khen ngợi. 5. Xưng, là xưng tụng, tán dương. 6. Cơ, là gièm pha. 7. Khổ, là khổ não. 8. Lạc, là vui thích.

[54] Ba thứ lậu hoặc, gồm dục lậu (欲漏), hữu lậu (有漏) và vô minh lậu (無明漏).

[55] Nguyên tác dùng Thành luận, tức Thành thật luận (成實論). (ĐCT, T32, 1646)

[56] Tỳ-đàm (毘曇), tức A-tỳ-đàm tâm luận (阿毗曇心論), gồm 4 quyển, gọi tắt là Tâm luận, là bộ luận rút gọn từ bộ luận Đại Tỳ-bà-sa.

[57] Nguyên tác là “二十五有 - nhị thập ngũ hữu”, chỉ 25 cảnh giới. Trong Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) có tất cả 25 cảnh giới. Dục giới có 14, Sắc giới có 7, Vô sắc giới có 4. Phân chia cụ thể như sau: Tứ ác đạo (四惡道) gồm: 1. Địa ngục, 2. Súc-sinh, 3. Ngạ-quỷ, 4. A-tu-la; Tứ châu (四洲) hay Tứ thiên hạ gồm: 1. Phất-vu-đãi, 2. Cồ-da-ni, 3. Uất-đan-việt, 4. Diêm-phù-đề; Lục dục thiên (六欲天) gồm: 1. Tứ thiên vương xứ, 2. Tam thập tam thiên xứ, 3. Diệm-ma thiên, 4. Đâu-suất thiên, 5. Hóa lạc thiên, 6. Tha hóa tự tại thiên. Mười bốn cảnh này thuộc về Dục giới. Tứ thiền thiên (四禪天) gồm: 1. Sơ thiền, 2. Nhị thiền, 3. Tam thiền, 4. Tứ thiền; Tịnh cư thiên (淨居天) gồm: 1. Đại phạm vương, 2. Vô tưởng thiên, 3. Tịnh cư A-na-hàm. Bảy cảnh này thuộc về Sắc giới. Tứ không xứ thiên (四空處天) gồm: 1. Thức xứ, 2. Không xứ, 3. Bất dụng xứ (Vô sở hữu xứ) 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bốn cảnh này thuộc về Vô sắc giới.

[58] Vương Tam-muội (王三昧), tức là tam-muội thù thắng nhất trong tất cả các tam-muội. Đây là tên khác của định Thủ-lăng-nghiêm.

[59] Theo kinh Đại Bát Niết-bàn thì 8 đức tự tại bao gồm: 1. Có thể hiện một thân thành nhiều thân, không có ngăn ngại; 2. Có thể thị hiện một thân nhỏ như hạt bụi trùm khắp đại thiên thế giới, không có ngăn ngại; 3. Có thể thị hiện thân lớn lao mà nhẹ nhàng bay đến bất cứ nơi xa xôi nào, không có ngăn ngại; 4. Có thể thị hiện thành vô số loài chúng sinh khác nhau thường sống trong cùng một thế giới, không có ngăn ngại; 5. Có thể sử dụng các căn hỗ trợ, thay thế cho nhau, như mắt có thể nghe, tai có thể thấy... một căn có thể nhận biết cả sáu trần, không có ngăn ngại; 6. Có thể chứng đắc tất cả các pháp không ngăn ngại nhưng không hề khởi lên ý tưởng có sự chứng đắc; 7. Có thể giảng thuyết ý nghĩa của một bài kệ trải qua vô số kiếp, không có ngăn ngại; 8. Có thể biến hiện một thân trùm khắp mọi nơi như hư không, không có ngăn ngại, khiến cho tất cả chúng sinh đều được trông thấy; dù trông thấy được, nhưng thân ấy thật cũng như hư không, không có hình tướng.

[60] A-nhã Kiều-trần-như (H. 阿若憍陳如, S. Ājñātakauṇḍinya) , một trong 5 vị tỳ-kheo được Phật giáo hóa trước tiên tại vườn Lộc uyển. Các vị này đều đã từng tu khổ hạnh với đức Phật.

[61] Nhị đế: thông thường được hiểu là chân đế (chân lý tuyệt đối) và tục đế (chân lý tương đối), nhưng trong giáo lý tông Thiên Thai thì đây là sự thấy biết chân thật về tánh không (Không đế) và sự giả tạm (Giả đế) của vạn pháp.

[62] Tức Phật thuyết Vô lượng thọ kinh (佛說無量壽經), có nhiều bản Hán dịch.

[63] Có thể là Văn-thù vấn kinh – Tự mẫu phẩm đệ thập tứ (文殊問經 - 字母品第十四), thuộc ĐCT, T14, 469.

[64] Tức A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa luận (阿毘曇毘婆沙論), thuộc ĐCT, T28, 1546.

[65] Nguyên tác dùng “liễu bản tế” (了本際) và “tri bản tế” (知本際), hiểu sát nghĩa là rõ biết, thấu triệt đến tận nguồn cội của các pháp. Pháp hoa văn cú ký giải thích là “sở tri chân đế” (所知真諦), nghĩa là chỗ biết về chân đế, tức ý nghĩa chân thật của các pháp.

[66] Câu-lân-như (拘隣如) tức Kiều-trần-như (憍陳如), đều phiên âm từ Phạn ngữ Kauṇḍinya.

[67] Đều là các tên gọi khác của ngài Kiều-trần-như.

[68] Câu-lân hay Câu-lân-như cũng đều là tên khác của ngài Kiều-trần-như.

[69] Phật thuyết Thập nhị du kinh (佛說十二 遊經), ĐCT, T4, 195.

[70] Nguyên tác dùng “六分 - lục phần” (sáu phần) để chỉ sáu phần làm nên thân thể con người: đầu, mình và tứ chi.

[71] Nguyên tác dùng “四句 - tứ cú” (bốn câu), chỉ bốn câu vừa nêu ra để phủ nhận bốn nguyên do sinh ra ảnh tượng trong gương.

[72] Nguyên văn dùng “tứ cú - 四句“ tức là chỉ 4 cách tìm cầu vừa nêu trong 4 câu trên: không từ vật, không từ người, không từ vật và người hợp lại, không lìa khỏi vật và người mà có.

[73] Vòng lửa xoay tròn: ví như sợi dây có đốm lửa ở đầu, khi quay tròn nhanh thì nhìn thấy như một vòng lửa nhưng thật ra chỉ có một đốm lửa quay nhanh mà thôi.

[74] Đến đây hết phần thượng của quyển 1 trong nguyên tác, bắt đầu phần hạ.

[75] Cách nói khác của dứt trừ phiền não, vì 4 trụ địa chỉ cho nguyên nhân sinh khởi hết thảy phiền não trong Tam giới, bao gồm (1) Kiến nhất thiết trụ địa (tức kiến hoặc trong Tam giới), (2) Dục ái trụ địa (tức tư hoặc trong Dục giới), (3) Sắc ái trụ địa (tức tư hoặc trong Sắc giới, (4) Hữu ái trụ địa (tức tư hoặc trong Vô sắc giới).

[76] Tức là tâm mê vọng bất giác, là căn bản của hết thảy mọi phiền não nên gọi là căn bản vô minh, cũng gọi là căn bản bất giác hay nguyên phẩm vô minh.

[77] Phương tiện độ (方便土), hay Phương tiện hữu dư độ (方便有餘土), là cảnh giới của các bậc thánh đã dứt sạch kiến hoặc và tư hoặc, chẳng hạn như các vị A-la-hán, Bích-chi Phật.

[78] Thật báo độ (實報土), là cảnh giới không còn chướng ngại của các vị Bồ Tát, nên cũng gọi là Thật báo vô chướng ngại độ.

[79] Đoạn này đề cập đến Tứ độ của Thiên Thai tông và nêu việc hành giả đoạn trừ tất cả, chỉ còn Thường tịch quang độ (常寂光土) hay Lý tánh độ (理性土) là cảnh giới rốt ráo của chư Phật.

[80] A tự môn (阿字門), Đại trí độ luận giải thích: “阿字門,一切法初不生故. 羅字門,一切法離垢故 - A tự môn, nhất thiết pháp sơ bất sinh cố; la tự môn, nhất thiết pháp ly cấu cố.” (ĐCT, T25, 1509, tr.407c, d.11-12.)

[81] Đây là trích dẫn ở kinh Pháp hoa, quyển 4, phẩm thứ 8, Ngũ bách đệ tử thụ ký (五百弟子受記-品第八), ĐCT, T9, 262, tr.28a, d.21-23.

[82] Tức là cây bồ-đề.

[83] Tên khác của thành Vương Xá.

[84] Tên khác của vua Tần-bà-sa-la.

[85] Tức Phó pháp tạng nhân duyên truyện (付法藏因緣傳), ĐCT, T50, 2058.

[86] Đoạn này nguyên tác nói sơ lược đến mức khó hiểu, chúng tôi đã sử dụng thông tin từ sách Phật Tổ thống kỷ (佛祖統紀), quyển 5, để bổ sung cho đủ nghĩa. (ĐCT, T49, 2035)

[87] Thước cổ, bằng 33 cm, 7 thước là khoảng 2.3 mét.

[88] Hộc (斛): đơn vị đong lường thời xưa, mỗi hộc bằng 10 đấu.

[89] Tướng bạch hào (白毫), còn gọi là bạch mao tướng (白毛相 - ūrṇā-keśa) và tướng nhục kế (肉髻), còn gọi là đỉnh kế tướng (頂髻相 - uṣṇīṣa-śiraskatā) là hai tướng xếp sau cùng trong 32 tướng tốt của đức Phật.

[90] Tử kim (紫金): loại vàng được xem là cực quý, có màu đỏ tía.

[91] Sách Phật Tổ thống kỷ chép chi tiết hơn về chuyện này. Khi ngài Ca-diếp đến tuổi trưởng thành, cha mẹ muốn cưới vợ cho ngài, ngài đặt yêu cầu phải tìm được người con gái nào thân hình có sắc vàng sáng và gia đình đã tìm được một cô gái như vậy. Đây chính là cô gái nghèo trong đời trước đã cùng ngài tô sửa, sơn phết tượng Phật và hai người trải qua nhiều đời đều kết làm vợ chồng với nhau.

[92] Sách Phật Tổ thống kỷ chép rằng, khi cưới vợ về, ngài Ca-diếp và vợ mỗi người ở riêng một phòng. Cha mẹ thấy vậy cho người phá bỏ một phòng, buộc hai người ở chung một phòng. Nhưng cả hai người đều không có dục tình. Ngài Ca-diếp nói: “Khi nàng ngủ ta sẽ đi kinh hành, khi ta ngủ nàng nên đi kinh hành.” Hai người thay nhau như vậy, không lúc nào cùng ngủ, không phạm vào sắc dục.

[93] Thập lực Ca-diếp (十力迦葉), cũng gọi là Bà-phu Ca-diếp (婆敷迦葉), là một trong 5 vị tỳ-kheo đầu tiên được nghe Phật thuyết pháp, tức thuộc nhóm 5 người của ngài Kiều-trần-như.

[94] Ba anh em Ca-diếp, hay Tam Ca-diếp, là các vị Ca-diếp trước thờ thần lửa, sau về quy y Phật dẫn theo cả 1.000 đồ chúng. Tên các vị này là Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp và Già-da Ca-diếp.

[95] Tức thánh quả A-la-hán, đã dứt sạch lậu hoặc nên gọi là Vô lậu.

[96] Tức là về sống chung trong đại chúng và mỗi ngày chia sẻ thức ăn do đại chúng khất thực mang về, tự mình không phải đi khất thực.

[97] Pháp hoa văn cú ký nói vị này tức là Đỉnh Sinh Vương (頂生王).

[98] Đoạn này dừng ở đây rất tối nghĩa. Sách Phật Tổ thống kỷ chép thêm rằng: “Ngài Ca-diếp vội đứng dậy quỳ dưới chân Phật nói rằng: Phật là thầy của tôi, tôi là đệ tử Phật.” Pháp hoa văn cú ký cũng chép tương tự.

[99] Đoạn văn này có 2 điểm tối nghĩa. Thứ nhất, về câu chuyện đi với ngài A-nan. Pháp hoa văn cú ký dẫn kinh A-hàm, bản biệt dịch, quyển 20, kể chuyện này chi tiết hơn. Khi đức Phật ở Ca-lan-đà, ngài Ca-diếp cùng vào thành khất thực với ngài A-nan. Ngài A-nan nói: “Còn chưa đến giờ, chúng ta hãy đi đến chỗ tinh xá của các tỳ-kheo-ni.” Ngài Ca-diếp đồng ý. Đến nơi, ngài Ca-diếp thuyết pháp cho chư ni nghe, tỳ-kheo-ni Thâu-na-lan-đà không vui, tự mình lẩm bẩm rằng: “Trưởng lão Ca-diếp thuyết pháp trước mặt ngài A-nan thì có khác gì đứa trẻ bán kim châm đến trước cửa nhà ông thầy châm cứu mà muốn bán được kim, không thể nào bán được.” Ngài Ca-diếp có thiên nhĩ thông, xa nghe được lời ấy, liền bảo ngài A-nan: “Sao có thể nói lời quái lạ đến thế!” Điểm hợp lý ở đây là cô tỳ-kheo-ni chỉ lẩm bẩm một mình chứ không phải nói rõ ý tưởng này. Về mặt tâm lý, có thể tỳ-kheo-ni này chỉ biết tiếng ngài A-nan quảng bác đa văn mà không biết đến ngài Ca-diếp, nên muốn nghe ngài A-nan thuyết pháp mà không vui khi ngài Ca-diếp thuyết pháp. Do thiếu hiểu biết nên mới so sánh tri thức của ngài Ca-diếp ít oi như đứa trẻ bán kim châm, còn ngài A-nan có nhiều và đầy đủ như ông thầy châm cứu. Cho nên cô nghĩ, đứa trẻ mang kim châm đến nhà ông thầy, làm sao có thể bán được? Văn Cú ở đây lược nói quá ngắn gọn nên thành khó hiểu. Điểm khó hiểu thứ hai, nội dung những lời này nếu là ngài A-nan nói với cô tỳ-kheo-ni thì có vẻ hợp lý hơn, vì ngài Ca-diếp không thể tự nói về mình như vậy.

[100] Văn Cú chỗ này ghi bát-đa-la thụ (鉢多羅樹) (cây bát-đa-la) e là bị nhầm vì không tìm thấy tên cây này, chỉ có bát-đa-la (鉢多羅) thường dịch là ứng lượng khí để chỉ bình bát của vị khất sĩ. Có lẽ ở đây muốn nói cây đa-la, loại cây thường được nhắc đến rất nhiều trong kinh điển, cũng gọi là bối-đa-la, ngày xưa dùng lá để chép kinh gọi là bối diệp.

[101] Văn Cú trích dẫn từ bài tựa do ngài Tăng Triệu viết cho kinh Trường A-hàm (長阿含經), ĐCT, T1, 1.

[102] Nguyên tác dùng “đẩu tẩu - 抖擻”, phiên âm chữ dhūta trong Phạn ngữ, cũng đọc là đỗ-đa, thường dịch là đầu đà (頭陀), chỉ pháp tu nỗ lực để kiểm thúc thân tâm.

[103] Nguyên tác dùng “thập nhị chủng quá - 十二種過”. Tham khảo Thiên Thai Bồ Tát giới sớ (天台菩薩戒疏) quyển 3, có nói rằng: “Đẩu tẩu thập nhị chủng quá linh thành tam đức. –“ (ĐCT, T40, 1812, tr.596c, d.22.) Theo đây mà xét thì chữ “quá” không phải nói lỗi lầm hay đã qua, mà chỉ sự nỗ lực tu tập vượt trội, quá mức thông thường. Đây chính là ý nghĩa phù hợp với các hạnh đầu đà, gần đến mức như khổ hạnh.

[104] Y phấn tảo (糞掃衣), hay phẩn tảo, cũng gọi là y bách nạp, chỉ tấm y của vị tăng sĩ được may ghép lại từ nhiều mảnh vải nhỏ người ta không còn dùng được, đã vất đi ở bãi rác. Do vậy, ý nghĩa chính là loại y xấu xí, không có giá trị đối với người đời.

[105] Nguyên tác dùng “殘食 - tàn thực“, chỉ việc ăn xong đứng dậy rồi sau đó còn nhận thêm thức ăn để ăn thêm.

[106] Trí độ luận ghi hạnh đầu đà này là “trung hậu bất ẩm tương - 中後不飲漿”, kinh Thập nhị đầu đà giải thích rõ hơn là “中食之後不飲漿 - trung thực chi hậu bất ẩm tương”, nghĩa là “sau bữa ăn giữa trưa không uống nước”. Văn Cú nói lược thành “bất ẩm tương” nên khó hiểu và không hợp lý. Văn Cú ở đây cũng nói quá gọn “tu tương lao động - 須漿勞動“ không thể rõ nghĩa. Chúng tôi căn cứ giải thích trong Đại trí độ luận thì thói quen uống nước sau bữa ăn dẫn đến khởi tâm mong cầu, tìm kiếm các loại nước uống ngon ngọt v.v. Đây chỉ là một trong những chỗ bản Văn Cú này dùng cách nói lược quá ngắn gọn không rõ nghĩa.

[107] Mười hai hạnh đầu đà này được kinh Phật thuyết Thập nhị đầu đà (佛說十二頭陀經) kể ra như sau: 1. Sống nơi thanh vắng yên tĩnh; 2. Thường thực hành pháp khất thực, 3. Đi khất thực bình đẳng theo thứ lớp; 4. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa; 5. Ăn điều độ, có chừng mực; 6. Sau bữa ăn không uống nước; 7. Chỉ dùng nạp y; 8. Chỉ sử dụng 3 tấm y; 9. Ngủ nghỉ nơi nghĩa địa; 10. Ngủ nghỉ dưới gốc cây; 11. Ngủ nghỉ nơi đồng trống; 12. Khi nghỉ ngơi cũng chỉ ngồi không nằm. (ĐCT, T17, 783, tr.720c, d.6 - 10.) Theo kinh này thì là 2 điều về y phục, 5 điều về sự ăn uống và 5 điều thuộc về sự ngủ nghỉ, có thể Văn Cú đã có sự nhầm lẫn.

[108] Đây là cách tính đặc biệt trong giáo lý tông Thiên Thai, cho rằng các kết sử phiền não kết hợp trong Tứ đế ở Tam giới không giống nhau. Cụ thể, ở Dục giới kết hợp Khổ đế có đủ Thập sử, gồm 5 lợi sử là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới thủ kiến (ngũ lợi sử) cùng 5 độn sử là tham, sân, si, mạn và nghi (ngũ độn sử), tức 10 kết sử phiền não. Tập đế và Diệt đế, mỗi đế chỉ có Thất sử (7 x 2) vì không có thân kiến, biên kiến và giới cấm thủ kiến, Đạo đế có Bát sử (8) vì không có thân kiến và biên kiến. Như vậy, Dục giới có cả thảy Tam thập nhị sử (32). Ở Sắc giới và Vô Sắc giới, cách tính cũng giống như trên nhưng ở Tứ đế đều không có sân nên trừ đi 4, còn lại Nhị thập bát sử (28). Như vậy Dục giới có 32, Sắc giới và Vô sắc giới có 56 (28 x 2), cộng là 88 phiền não kết sử (Bát thập bát sử).

[109] Bốn điên đảo: vô thường mà cho là thường, khổ mà cho là vui, vô ngã mà cho là ngã, bất tịnh mà cho là tịnh. Do bốn nhận thức này trái ngược với sự thật nên gọi là bốn điên đảo (tứ đảo).

[110] Hai việc ác ở đây là việc ác chưa sinh và việc ác đã sinh. Ngăn hai việc ác nghĩa là dứt trừ những việc ác đã sinh và ngăn ngừa việc ác chưa sinh không cho sinh khởi. Hai việc thiện là việc thiện chưa sinh và việc thiện đã sinh. Sinh hai việc thiện nghĩa là làm cho những việc thiện chưa sinh được sinh khởi và làm tăng trưởng những việc thiện đã sinh. Đây cũng chính là nội dung của Tứ chánh cần.

[111] Giác đạo ở đây có thể nói khái quát về con đường tu tập theo chánh đạo, cũng có thể chỉ thất giác chi, tam thập thất đạo phẩm. Chúng tôi nghiêng về ý thứ hai vì trước đó đã phân biệt liệt kê tứ định, các căn, lực...

[112] Nhị thập ngũ hữu (25 cảnh giới hiện hữu): chỉ tất cả các cảnh giới mà chúng sinh hiện hữu, bao gồm 14 cảnh giới trong cõi Dục, 7 cảnh giới trong cõi Sắc và 4 cảnh giới trong cõi Vô sắc. Kể ra cụ thể là: 1. Địa ngục. 2. Súc sinh. 3. Ngạ quỷ. 4. A-tu-la. 5. Phất-bà-đề. 6. Cù-da-ni. 7. Uất-đan-việt. 8. Diêm-phù-đề hữu. 9. Tứ thiên xứ. 10. Tam thập tam thiên xứ. 11. Diệm-ma thiên. 12. Đâu-suất thiên. 13. Hóa lạc thiên. 14. Tha hóa tự tại thiên. (14 cảnh giới này thuộc Dục giới) 15. Sơ thiền thiên. 16. Đại phạm thiên. 17. Nhị thiền thiên. 18. Tam thiền thiên. 19. Tứ thiền thiên. 20. Vô tưởng thiên. 21. Tịnh cư A-na-hàm thiên. (7 tầng trời này đều thuộc Sắc giới) 22. Không xứ thiên. 23. Thức xứ thiên. 24. Bất dụng xứ thiên. 25. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. (4 tầng trời này thuộc Vô sắc giới).

[113] Tứ chân đế: cách gọi khác của Tứ diệu đế hay Tứ đế, đều chỉ bốn sự thật là khổ, tập, diệt, đạo.

[114] Phần đoạn và biến dịch là hai hình thức khổ não trong luân hồi. Phần đoạn có nghĩa là hết thảy các pháp không thường tồn nên diệt mất theo từng giai đoạn, sinh rồi diệt. Biến dịch có nghĩa là hết thảy các pháp không thường tồn nên liên tục chuyển biến, thay đổi, không bao giờ giữ được nguyên trạng.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Sống thiền


Đường Không Biên Giới


Đức Phật và chúng đệ tử


Lục tổ Đại sư - Con người và huyền thoại

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.41 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên...
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...