Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Quy luật của cuộc sống là luôn thay đổi. Những ai chỉ mãi nhìn về quá khứ hay bám víu vào hiện tại chắc chắn sẽ bỏ lỡ tương lai. (Change is the law of life. And those who look only to the past or present are certain to miss the future.)John F. Kennedy
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Nỗ lực mang đến hạnh phúc cho người khác sẽ nâng cao chính bản thân ta. (An effort made for the happiness of others lifts above ourselves.)Lydia M. Child
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Đức Phật và chúng đệ tử »» Xem đối chiếu Anh Việt: Anāthapindika – Người chu cấp cho người nghèo »»

Đức Phật và chúng đệ tử
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Anāthapindika – Người chu cấp cho người nghèo

(Lượt xem: 3.480)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Anāthapindika – Người chu cấp cho người nghèo

Anāthapindika – The Feeder Of The Poor

Vào thế kỷ thứ 5 trước Tây Lịch, giao thương và buôn bán đã rất phát triển ở Ấn Độ. Nhiều đoàn lữ hành di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, và những ngôi nhà tài chính luôn có sẵn tiền để cho vay. Một người với kỹ năng và sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, thì việc kiếm được nhiều tiền là điều rất có thể, thậm chí là trở thành một vị triệu phú (setthi). Một trong những đệ tử cư sĩ nổi tiếng nhất của Đức Phật là một người như vậy. Tên ông ta là Sudatta, nhưng vì ông luôn sẵn sàng giúp đỡ cho những người đói kém, vô gia cư hay bị ruồng bỏ nên ông được mọi người gọi là Anathapindika (Cấp-Cô-Độc), có nghĩa là “Người Chu Cấp Cho Người Nghèo.”
1. In the 5th century B.C.E., trade and commerce were already highly developed in India. Caravans travelled from one city to another and financial houses made money available for loan. If a person had skill and was prepared to take risks, it was quite possible to make a lot of money and perhaps even become a millionaire (setthi). One of the Buddha’s most famous lay disciples was such a man. His name was Sudatta but because he was always ready to give to the hungry, the homeless or the dispossessed, he was known by everybody as Anāthapindika, meaning ‘the feeder of the poor’.
Anathapindika sống ở Savatthi nhưng vì công việc nên ông thường hay đi xa, và vào một ngày khi đang ở Rajagaha, ông đã đi thăm người anh rể của mình. Khi ông đến, toàn bộ người trong nhà đều đang rất bận rộn cho việc chuẩn bị cho một bữa tiệc, mà Anathapindika đã không nhận được lời mời nồng nhiệt như mọi khi. “Sự kiện trọng thể nào sắp diễn ra vậy?” Anathapindika hỏi anh rể của mình. “Anh đang chuẩn bị cho một lễ cưới long trọng hay là nhà vua sắp ghé thăm sao?” “Không”, anh ông trả lời. “Đức Phật và chúng đệ tử của Người sẽ đến dùng cơm vào ngày mai.” Chỉ nghe đến từ “Phật” thôi thì toàn thân Anathapindika đã dâng tràn một niềm hỷ lạc vô bờ đến nỗi ông không kiềm chế được mình.
2. Anāthapindika lived in Savatthi but he travelled a lot on business and one day while in Rajagaha, he went to visit his brother-in-law. The household was so busy with preparations for a feast that Anāthapindika failed to get his usual warm welcome. “What is the big occasion?” Anàtha pindika asked his brother-in-law. “Are you preparing for a great wedding or perhaps a visit from the king?” “No,” was the reply. “The Buddha and his monks are coming for a meal tomorrow.” Just hearing the word ‘Buddha’ filled Anāthapindika with such joy that he could hardly contain himself.
“Ý anh là một bậc thánh Toàn Giác đã xuất hiện nơi cõi đời này sao? Thật tuyệt vời làm sao! Hãy đưa em đi gặp Ngài ấy.” Anathapindika muốn đi ngay lập tức nhưng ông đã được anh mình thuyết phục rằng là đã quá muộn và nếu sáng mai đi thì sẽ tốt hơn. Đêm đó, Anathapindika hân hoan đến độ ông dường như chẳng ngủ được và ông đã thức dậy nhiều lần trong đêm những tưởng rằng đã đến lúc bình minh. Cuối cùng, nghĩ rằng mặt trời sẽ sớm mọc, Anathapindika đã trở dậy để chuẩn bị đi gặp Phật, nhưng khi ông ra tới vùng ngoại ô của thành phố thì trời vẫn còn rất tối, ông trở nên sợ hãi và quyết định sẽ quay về. Đột nhiên, một vị thiện thần xuất hiện làm sáng rỡ cả một vùng và thúc giục ông tiếp tục. “Hãy tiếp tục, này bạn hiền. Tiến về phía trước sẽ tốt cho bạn hơn là quay lại.” Được khuyến khích bởi những lời ấy, Anathapindika tiếp tục bước tới và chỉ một lát sau ông bắt gặp Đức Phật đang đi thiền hành trong ánh ban mai của buổi sớm. Thấy Anathapindika ngập ngừng không dám đến gần, Đức Phật đã ra hiệu "hãy đến đây, Sudatta.” Ngạc nhiên vì Đức Phật biết tên thật của mình và kính phục trước sự hiện diện của một con người vĩ đại, Anathapindika vội vã tiến về phía trước và sụp lạy dưới chân Thế Tôn. Hai người nói chuyện một lúc và đến khi mặt trời mọc, Anathapindika hiểu được bản chất của Pháp và chứng được thánh quả Dự Lưu.
“You mean that a fully enlightened being has arisen in the world? How wonderful! Take me to meet him.” Anāthapindika wanted to go straight away but he was per suaded that it was too late and that it would be better to do so the next morning. That night Anāthapindika was so excited that he could hardly sleep and he got up several times thinking it was already dawn. Eventually, thinking that the sun would be rising soon, Anāthapindika set off to meet the Buddha, but as he entered the outskirts of the city and it was still dark, he became frightened and decid ed to turn back. Suddenly, a friendly spirit appeared illumi nating the whole area and urged him to continue. “Walk on, friend. To move forward is better for you than to turn back.” Encouraged by these words, Anāthapindika contin ued and soon came across the Buddha walking up and down in the early morning light. The Buddha saw Anàtha pindika hesitating to come closer and he beckoned him. “Come forward, Sudatta.” Astonished that the Buddha would know his real name and awed by the great man’s presence, Anāthapindika hurried forward and bowed at the Buddha’s feet. The two men talked together for a while and as the sun came up, Anāthapindika understood the essence of the Dhamma and became a Stream-Winner.
Anathapindika sau đó đã thỉnh ý Đức Phật để được cúng dường đến Ngài một bữa ăn vào ngày hôm sau và Đức Phật đã chấp nhận. Suốt cả ngày hôm đó, tâm ông mãi miết suy nghĩ về việc sẽ hạnh phúc biết mấy nếu Đức Phật có thể ghé thăm Savatthi và rằng biết bao người sẽ được lợi lạc với sự có mặt của Ngài. Do đó, ngày hôm sau, khi Đức Phật thọ thực xong, Anathapindika đã thỉnh Phật đi đến Savatthi. Thế Tôn quán chiếu một lúc rồi nhận lời, Ngài dặn thêm: “Những bậc tỉnh thức ưa thích những trú xứ yên tĩnh”, và Anathapindika trả lời: “Con đã hiểu, bạch Thế Tôn.”
Anāthapindika then asked the Buddha if he could offer him a meal the next day and the Buddha accepted. All during the day he thought how wonderful it would be if the Buddha could come to Savatthi and how many people would benefit from the visit. Consequently, the next day, after the Buddha had finished his meal, Anāthapindika asked him if he would come and visit Savatthi. The Buddha thought for a while and then agreed, adding: “Enlightened ones prefer to stay in peaceful places”, and Anāthapindika responded: “I fully understand, Lord.”
Anathapindika trở lại Savatthi sau khi xong việc ở Rajagaha và ngay khi về đến, ông bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho chuyến ghé thăm của Đức Phật. Việc đầu tiên là tìm một trú xứ thích hợp cho Thế Tôn và Tăng đoàn, gần phố nhưng không quá ồn ào. Nơi được xem là phù hợp nhất, chính là một khu vườn cách các tường thành của Savatthi một dặm về phía Tây Nam, thuộc sở hữu của hoàng tử Jeta. Anathapindika đến gặp và hỏi xem liệu hoàng tử có muốn bán khu vườn của mình không nhưng vị hoàng tử nọ đã từ chối. “Hãy cho tôi một cái giá”, Anathapindika tỏ ý quyết mua cho bằng được, nhưng hoàng tử Jeta lần nữa khẳng định rằng ông không muốn bán nó. “Tôi sẽ trả bất cứ giá nào mà ngài muốn”, Anathapindika nói, và để khiến cho ông từ bỏ ý định mua khu vườn, hoàng tử nói: “Được rồi! Ông sẽ có được khu vườn với cái giá bằng số đồng tiền vàng đủ để phủ khắp mặt đất ở đấy.”
3. When Anāthapindika finished his business in Rajagaha, he set out for Savatthi, and as soon as he arrived he began to make preparations for the Buddha’s arrival. First, he had to find a suitable place for the Buddha and his monks to stay, near the city but not too noisy. The best place proved to be a pleasure park about one kilometre south-west from the walls of Savatthi, owned by Prince Jeta. Anāthapindika approached the prince and asked him if he wanted to sell his park. He declined. “Name a price,” Anāthapindika insisted, but Prince Jeta reiterated that he was not interested in selling. “I will pay you any price you like,” Anāthapindika said, and in order to put him off, the prince said: “All right! You can have the park for however much it costs to cover the ground with gold coins.”
Những tưởng với điều kiện như vậy có thể khiến Anathapindika nản chí, nhưng hoàng tử Jeta kinh ngạc khi thấy ông phấn khởi đồng ý và rời đi ngay để chuẩn bị số vàng. Chẳng lâu sau, một cổ xe chất đầy những đồng tiền vàng tiến đến khu vườn nọ và những người hầu bắt đầu trải chúng lên khắp mặt đất. Chứng kiến điều này, hoàng tử Jeta nhận ra quyết tâm có bằng được khu vườn của Anathapindika nên cuối cùng vị hoàng tử đã quyết định bán nó với một mức giá hợp lý cho ông. Anathapindika sau đó dành một số tiền khổng lồ để xây dựng các khu nhà ở, hội trường, nhà kho, đại sảnh, tạo cảnh vườn và đào ao trong khi Hoàng tử Jeta góp phần xây dựng một ngôi nhà bên cổng lối vào công viên thật ấn tượng cùng với tường thành xung quanh để đảm bảo sự tách biệt. Để ghi nhận công sức hai người, tu viện đó được đặt tên là rừng cây của Jeta và vườn của Anathapindika hay ngắn gọn là Rừng Cây Jeta (Jetavana).1
To the prince’s astonishment, Anāthapindika enthusiastically agreed and left straight away to get the money. Soon a wagon, full of gold pieces, arrived at the park and servants began spreading the money on the ground. When Prince Jeta saw this, he realised how determined Anāthapindika was to get the park and finally decided to accept a more reasonable price for it. Anāthapindika then spent a huge amount of money building living quarters, assembly halls, storerooms and pavilions, laying out gardens and digging ponds while Prince Jeta offered to build an impressive gate house leading into the park and a wall around it for privacy. In recognition of the two men who made all this possible, the monastery was named Jeta’s Grove, Anāthapindika’s Park or just Jeta’s Grove (Jetavana) for short.1
Từ sau năm Ngài sáu mươi tuổi, ngoại trừ mùa an cư cuối cùng thì Jetavana là nơi mà Đức Phật lưu lại suốt tất cả những mùa mưa và đó cũng là nơi Ngài tuyên thuyết nhiều bài Pháp hơn hết thảy bất cứ địa điểm nào khác. Những nơi ưa thích của Đức Phật ở Jetavana là hai am thất nhỏ, Kosambakuti và Gandhakuti. Gandhakuti (Hương-Thất) có tên đó bởi vì những đóa hoa mà mọi người liên tục mang đến dâng cúng cho Đức Phật đã khiến nơi đó có hương thơm dễ chịu. Gandhakuti có một khu tiếp khách, chỗ ngủ, nơi tắm và một cầu thang dẫn đến nơi Đức Phật thỉnh thoảng đứng vào buổi tối và nói chuyện với các Thầy Tỳ Khưu. Một phần công việc của Tôn giả Ananda là thường xuyên phủi bụi và làm sạch Gandhakuti, dọn dẹp những bông hoa đã héo và đặt ghế cùng giường về lại vị trí của chúng.
4. From the age of sixty, the Buddha spent every rainy season except his last at Jetavana and delivered more discourses there than at any other location. The Buddha’s favourite places in Jetavana were two small houses, the Kosambakuti and the Gandhakuti. The Gandhakuti (Fragrant Hut) got its name because the flowers that people constantly brought to offer to the Buddha gave the building such a pleasing fragrance. The Gandhakuti had a sitting room, bedroom and bathroom and a staircase leading up to it where the Buddha used to sometimes stand in the evening and address the monks. One of Ananda’s duties was to regularly dust and clean the Gandhakuti, remove the faded flowers and put the chair and bed back in their proper place.
Mãi tới năm 1863, tàn tích của Jetavana được phát hiện, các nhà khảo cổ sau đó đã xác định được vị trí của Gandhakuti và Kosambakuti, và cho thấy rằng Jetavana là trung tâm của Phật giáo suốt từ thời Đức Phật cho đến thế kỷ 13.
In 1863, the ruins of Jetavana were discovered and later archaeological investigation identified the Gandhakuti and the Kosambakuti, and showed that the Jetavana was a centre of Buddhism from the Buddha’s time right up until the 13th century C.E.
Mặc dù Anathapindika đã xây nên Jetavana, nhưng đây chắc chắn không phải là mức giới hạn cho lòng hào phóng của ông. Trong suốt những năm về sau, ông đã dành một số tiền rất lớn để chu cấp năm thứ cần thiết cho Tăng đoàn, xây dựng và duy trì các tu viện, cũng như nhân danh Phật Giáo mà làm vô số việc thiện lành. Ông hiểu rằng nếu sự giàu có được sử dụng với một tâm thế hào sảng cùng lòng từ bi, thì nó sẽ là một phương tiện rất tốt trong việc giúp phát triển tâm linh.
5. Although Anāthapindika built the Jetavana, this was certainly not the extent of his generosity. Over the years he spent vast amounts of money providing the five requisites for monks, building and maintaining monasteries, and doing charity in the name of Buddhism. He understood that if wealth is used with generosity and compassion, it can be a real means for spiritual development.
Anathapindika không chỉ hào phóng với của cải vật chất của ông mà về mặt tinh thần cũng vậy. Khi còn trẻ, ông có một người bạn tên là Kalakanni mang ý nghĩa là “không may mắn”, và hai người đã từng làm những chiếc bánh nướng bằng đất trong những lần chơi cùng nhau. Khi lớn lên, Anathapindika trở nên giàu có trong khi Kalakanni thì vẫn nghèo khó và liên tục gặp phải những bất hạnh. Hy vọng rằng người bạn cũ của mình có thể giúp đỡ, một ngày nọ Kalakanni với sự ngập ngừng và xấu hổ, đã đến gặp và hỏi xem liệu Anathapindika có thể giúp cho anh ta có một công việc hay không. Rất vui khi có thể giúp cho bạn mình, Trưởng giả Anathapindika đã giao cho anh ta công việc trông coi của cải ở một trong những ngôi nhà của ông. Gia đình Anathapindika khi ấy lấy làm không vui khi có Kalakanni trong nhà. “Sao ông lại có thể sử dụng người này? Hắn ta chẳng là gì ngoài một kẻ bị bỏ rơi. Chúng ta là một gia đình danh giá trong khi hắn ta còn thua một kẻ ăn xin. Với lại, chỉ riêng việc nghe cái tên Kalakanni được gọi trong nhà cả ngày đã chắc chắn sẽ mang lại nhiều xui xẻo rồi.” Anathapindika trả lời: “Một người không được tạo nên bởi cái tên của họ. Những người mê tín sẽ phán xét người khác dựa vào tên của họ, nhưng người khôn ngoan sẽ phán xét người khác dựa vào phẩm chất của trái tim họ. Tôi sẽ không đuổi Kalakanni đi chỉ vì anh ta nghèo hoặc do tên họ anh ta. Chúng tôi đã là bạn của nhau từ khi còn nhỏ.”
6. But Anāthapindika did not just have generosity with his wealth, he had generosity of spirit also. When he was young he had a friend named Kalakanni, which means ‘unlucky’, and the two boys used to make mud pies together as they played. As they grew up, Anāthapindika became rich while Kalakanni seemed to be plagued by one misfortune after another and remained poor. Hoping that his old friend might help him, Kalakanni went one day, hesitant and ashamed, to see Anāthapindika to ask if he could give him a job. Happy to help, Anāthapindika gave him a job looking after the property in one of his houses. Anāthapindika’s family were not happy to have Kalakanni in the house. “How can you employ this man? He’s nothing but a derelict. We are a respectable family while he is little more than a beggar. And besides, hearing that name Kalakanni being used in the house all day is bound to bring bad luck.” Anāthapindika replied: “A person is not made by his name. The superstitious judge people by their names but the wise judge them by the goodness of their hearts. I shall not turn Kalakanni out simply because he is poor or because of his name. We have been friends since we were children.”
Gia đình Anathapindika im lặng sau khi nghe câu trả lời đó nhưng họ vẫn cảm thấy không vui. Một ngày kia, Kalakanni có việc phải trở về làng mình một thời gian, khi một nhóm trộm hay tin anh ta sẽ vắng nhà, chúng quyết định sẽ đột nhập vào nhà trộm của. Đêm đó họ lẻn đến mà không biết rằng Kalakanni đã hoãn chuyến đi của mình lại. Anh tỉnh dậy khi nghe tiếng những tên trộm bên ngoài cửa sổ, và nhận ra rằng bọn chúng khá đông, tất cả đều mang theo vũ khí. Anh lập tức vùng dậy, nói chuyện thật to, đập mạnh cửa, thắp sáng đèn tất cả các phòng và tạo nhiều tiếng ồn nhất mà anh có thể. Khi ấy, những tên trộm nghĩ rằng trong nhà đang có tiệc nên đều bỏ trốn đi. Khi việc này được truyền đi khắp vùng, Anathapindika gọi gia đình của mình, những người mà bây giờ rất biết ơn Kalakanni, và nói với họ, “Nếu ngôi nhà này không được một người bạn khôn ngoan và trung thành bảo vệ như vậy thì nó đã bị trộm rồi. Nếu ngày trước tôi nghe theo lời khuyên của mọi người ắt hẳn giờ đây tất cả chúng ta đã rơi vào một tình thế khác rồi. Không phải là tên họ hay sự giàu có làm nên một con người mà là trái tim của anh ta.” Kalakanni sau đó được tăng lương và dần được cả gia đình chủ đón nhận.2
Anāthapindika’s family were silent but they were still not happy. One day Kalakanni had to return to his village for a while and when a group of thieves heard that he would be out of the house, they decided they would break in and rob the house. That night they came to the house not knowing that Kalakanni’s departure had been delayed. He awoke, and heard the thieves talking outside the window, and realising that there were several of them and that they were all heavily armed, he immediately jumped up, talking loudly, banging doors, lighting lamps in different rooms and generally made as much noise as he could. The thieves thought that there was a party in the house and they f led. When this became known, Anāthapindika called his family, who were now very grateful to Kalakanni, and said to them, “If this house had not been guarded by such a wise and loyal friend, it would have been plundered. If I had taken your advice, we would all be in a very different position today. It is not name or wealth that makes a person, but his heart.” Kalakanni was given a raise and came to be accepted by the household.2
Sự giàu có vượt bậc cùng sự hào phóng tương ứng của Anathapindika đã là nguồn cảm hứng cho nhiều bài Pháp của Đức Phật, một trong số đó liên quan đến chủ đề khéo léo trong việc sử dụng của cải. Nhưng đôi khi, Anathapindika phải được nhắc nhở rằng, không phải sự xa hoa của một món quà là quan trọng và cũng như có một số thứ quan trọng hơn sự hào phóng, ví dụ như tình thương và sự hiểu biết. Trong bài Kinh Velama, Đức Phật kể cho Anathapindika về một người đã từng tặng những món quà xa hoa, nhưng vì không thực sự giúp ích được cho ai mấy, nên những món quà của ông không mang lại nhiều thiện nghiệp.
7. Anāthapindika’s great wealth and equally great generosity prompted many of the Buddha’s discourses, some of them related to the subject of the skilful use of wealth. But sometimes, Anāthapindika had to be reminded that it is not the lavishness of a gift that is important and also that there are some things more important than generosity, things like love and understanding, for example. In the Velama Sutta, the Buddha told Anāthapindika about a man who had once given lavish gifts, but because no one really benefited, his gift had very little good effect.
“Nếu người đó bố thí cho 100 người có chánh kiến, bố thí này quả lớn hơn. Nếu người đó bố thí cho 100 vị thánh Nhất Lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Nếu người đó bố thí cho 100 vị thánh Bất Lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Nếu người đó bố thí cho 100 vị Chánh Đẳng Giác, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Bố thí đến toàn thể chúng Tỳ Khưu với Đức Phật là vị thượng thủ, thì bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Nếu người ấy xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Quay về nương tựa nơi Phật, Pháp cùng Tăng và nghiêm giữ giới luật, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Vượt trội hơn nữa đó là làm tràn ngập tâm với lòng từ. Tối thắng chính là phát triển tâm từ dù chỉ trong một khoảnh khắc.”3
“If he had fed a hundred people who had Perfect View, it would have had a greater effect. If he had fed a hundred Once-Returners, the effect would have been greater still. If he had fed a hundred Non-Returners, the effect would have been greater than this. If he had fed a hundred Noble Ones, it would have been greater than this. Feeding the whole Sangha with the Buddha at its head would have been yet again greater. If he had built a monastery for the use of the Sangha, it would have had a greater effect. Taking Refuge in the Buddha, the Dhamma and the Sangha and keeping the Precepts would be greater still. Better yet would be to fill the heart with love. Best of all would be to develop the thought of love even if only for a moment.”3
Về sau, Anathapindika trở nên nghèo khó do liên tục cho đi, và cũng do một số quyết định thiếu khôn ngoan trong kinh doanh. Cuối đời, ông ngã bệnh và Thầy Sariputta cùng Thầy Ananda thường đến thăm và an ủi ông với nhiều bài Pháp. Trải dài suốt dòng lịch sử, sự thiết lập và truyền bá của Phật giáo, thường luôn được sự hỗ trợ nhiệt tình và hào phóng từ các thương gia, cùng những doanh nhân giàu có, nhưng trong số đó, người đi đầu và tối thắng nhất chính là Anathapindika.
Later in life, Anāthapindika became quite poor due to his constant giving and also due to some unwise business decisions. Eventually, he became ill but Sariputta and Ananda visited him regularly, comforting him with talk on Dhamma.4 Throughout its history, Buddhism has been assisted in its establishment and spread by the generous support it has received from wealthy merchants and businessmen, but the first and greatest of these was Anāthapindika.



    « Xem chương trước «      « Sách này có 15 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




San sẻ yêu thương


Những tâm tình cô đơn


Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng


Phật pháp ứng dụng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.189.85 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Ngọc Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Thiện Diệu Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Văn Minh Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Thiền Khách Rộng Mở Tâm Hồn nước Rộng Mở Tâm Hồn Bui Tuyet Lan Rộng Mở Tâm Hồn Xuân Thôn Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Độ Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn Pháp Tâm Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Yduongvan Rộng Mở Tâm Hồn Trí Tuệ Từ Bi Rộng Mở Tâm Hồn Tiến Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Hoat Khong ... ...

Việt Nam (71 lượt xem) - Hoa Kỳ (55 lượt xem) - French Southern Territories (5 lượt xem) - Philippines (2 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Uzbekistan (1 lượt xem) - Hà Lan (1 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - Anh quốc (1 lượt xem) - Mauritius (1 lượt xem) - Algeria (1 lượt xem) - Kenya (1 lượt xem) - ... ...