Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình.
Kinh Pháp cú
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp.
(Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ.
(A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình.
(We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường.
(Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Mặc dù trong thiền quán chúng ta có rất nhiều đề mục để quán chiếu,
nhưng tôi khuyên bạn nên bắt đầu bằng cách tập trung sự chú ý vào hơi
thở của mình. Điều đó sẽ giúp cho ta đạt được một mức định lực căn bản.
Nhưng các bạn nên nhớ, làm như vậy không có nghĩa là chúng ta cố gắng để
nhập định, hay chỉ thuần túy thực hành thiền định mà thôi. Chúng ta đang
thực hành thiền quán, chính niệm, và điều đó đòi hỏi ta phải có một định
lực cơ bản. Mục đích của ta là thực tập chính niệm, phát huy tuệ giác để
thấy được chân tính của hiện hữu. Ta muốn thấy được sự hoạt động và
những liên hệ của thân tâm đúng như chúng đang thật sự hiện hữu. Ta muốn
chuyển hóa được hết mọi phiền muộn, âu lo trong tâm thức, để mình thật
sự có một đời sống an vui và hạnh phúc.
Tâm ta không thể nào thanh tịnh nếu ta không biết nhìn sự vật đúng như
chúng đang thật sự hiện hữu. “Nhìn-sự-vật-đúng-như-đang-hiện-hữu”, đó là
một tuyên bố khá quan trọng và cũng hơi mơ hồ. Nhiều thiền sinh mới thực
tập khi nghe chúng tôi nói câu ấy thường rất thắc mắc, vì họ nghĩ trong
chúng ta ai có mắt mà lại không “nhìn sự vật đúng như chúng đang hiện
hữu”?
Thật ra, chúng tôi dùng câu ấy để nói đến một tuệ giác do sự thực tập
thiền quán. Nó không có nghĩa là nhìn sự vật bằng một cái thấy nông cạn
bề ngoài, nhưng thấy bằng một cái nhìn sâu sắc, bằng tuệ giác. Và nhìn
bằng tuệ giác là nhìn sự vật trong khuôn khổ của thân-tâm mình, còn được
gọi là danh-sắc, không bị ảnh hưởng bởi những ý niệm và định kiến vì
tham, sân và si. Thường thường, khi ta quán sát sự hoạt động của
thân-tâm, ta có khuynh hướng xua đuổi những cảm thụ khó chịu và nắm giữ
những cảm thụ nào dễ chịu. Một lý do là vì tâm ta lúc nào cũng bị ảnh
hưởng bởi sự ham muốn, ghét bỏ và mê mờ của mình. Cái tôi, cái ngã, ý
kiến của mình lúc nào cũng xen vào và tô màu, làm sai lệch đi sự phán
đoán của ta.
Khi quán sát những cảm giác trong thân (bodily sensation) bằng chính
niệm, ta không nên lầm lẫn chúng với các tâm hành (mental formation). Vì
cảm giác có thể phát sinh hoàn toàn độc lập với tâm thức.
Ví dụ, ta đang ngồi thoải mái. Một lúc sau, có thể có những cảm giác khó
chịu khởi lên nơi lưng và ở chân. Tâm ta sẽ kinh nghiệm được những cảm
giác khó chịu ấy ngay, và lập tức tạo nên một số ý nghĩ chung quanh cái
cảm giác ấy. Ngay lúc đó, thay vì để cho cảm thụ trở nên lẫn lộn với tâm
hành, chúng ta nên phân biệt và tách rời cảm thụ ra, quán sát chúng dưới
ánh sáng của chính niệm. Cảm thụ là một trong 7 tâm hành phổ thông, mà
không có một tâm nào lại không có bảy yếu tố này. Bảy tâm hành phổ thông
(Sabbacittasdhran) là xúc (Phassa), thọ (Vedan), tưởng (Sa), tư (Cetan),
định (Ekaggat), nuôi dưỡng sự sống (Jvitindriya), và tác ý (Manasikra).
Những lúc khác, cũng có thể sẽ có những cảm xúc như là bất mãn, sợ hãi
hoặc là ái dục sinh khởi. Trong những lúc này, chúng ta cũng cần theo
dõi những cảm xúc ấy đúng thật như chúng đang hiện hữu, và không để lẫn
lộn với bất cứ một cái gì khác. Khi chúng ta gom năm uẩn - sắc, thọ,
tưởng, hành và thức - của mình thành một, và xem tất cả như là một cảm
thụ duy nhất, ta sẽ bị lẫn lộn, vì ta không còn thấy được đâu là nguồn
gốc của cảm thụ nữa. Nếu chúng ta quán sát cảm thụ, nhưng không biết
tách rời nó ra khỏi những tâm hành khác, ta sẽ khó có thể thấy được sự
thật.
Chúng ta muốn có tuệ giác để nhìn thấy rõ tự tính vô thường của vạn vật,
nhờ đó mà vượt qua hết những khổ đau và sợ hãi của mình. Một hiểu biết
sâu sắc về khổ đau, sẽ giúp ta chiến thắng được những tham ái nào đã gây
nên khổ đau. Một ý thức sâu sắc về vô ngã, sẽ giúp ta vượt thắng được
những si mê phát sinh bởi một ý niệm về tự ngã. Có được những tuệ giác
này, ta sẽ bắt đầu thấy được thân và tâm, danh-sắc, là hai tự thể riêng
biệt. Khi thấy rõ được sự riêng biệt ấy, ta cũng sẽ ý thức rằng chúng có
một liên hệ vô cùng mật thiết với nhau. Và khi tuệ giác bắt đầu bén nhạy
hơn, ta lại càng ý thức được rõ rệt năm uẩn của mình, tâm và sắc, lúc
nào cũng hợp tác và hỗ tương lẫn nhau, cái này không thể có mặt mà không
cần cái kia. Chừng ấy, ta sẽ thật sự hiểu được tỉ dụ về một người mù có
một thân thể khỏe mạnh, và một người tật nguyền nhưng có đôi mắt sáng.
Hai người ấy đều bị giới hạn. Nhưng khi người tật nguyền có đôi mắt tốt
leo lên vai người mù khỏe mạnh, cùng với nhau họ có thể đi khắp nơi và
làm được những gì họ muốn. Thân và tâm ta cũng tương tự như thế. Tự một
mình, thân không thể làm được gì hết, nó cứng đơ như một khúc gỗ, không
cử động hay nhúc nhích, chỉ nằm yên đó chịu định luật của vô thường làm
hư hoại và tan rã. Và tâm của ta nếu không có thân, cũng chỉ là vô dụng.
Khi chúng ta quán sát thân và tâm dưới ánh sáng chính niệm, ta có thể
thấy được những điều kỳ diệu mà cả hai có thể cùng hợp tác làm nên.
Nhờ ngồi yên một chỗ mà ta có thể phát huy được niệm lực. Tham dự một
khóa thiền vài ngày, hoặc vài tháng, để theo dõi hơi thở của mình, theo
dõi nhận thức, vô số những tư tưởng, và mọi trạng thái của tâm thức, sẽ
giúp cho ta được trở nên tĩnh lặng và an vui hơn. Nhưng thường thường
thì chúng ta đâu có thì giờ nhiều để dành cho việc ngồi yên một chỗ. Vì
vậy, ta phải tìm cách áp dụng sự thực tập ấy vào đời sống hằng ngày,
giúp chúng ta đối phó với tất cả những chuyện bất ngờ có thể xảy ra.
Những gì chúng ta đối diện mỗi ngày, ta không bao giờ có thể đoán trước
được. Chuyện xảy ra do nhiều nguyên nhân, và nhiều điều kiện khác nhau,
vì chúng ta sống trong một thế giới vô thường, luôn thay đổi. Chính niệm
là cây chìa khóa, một cây đũa thần, luôn luôn có mặt để giúp đỡ ta. Giả
sử như khi ta cảm thấy mình bị khinh thường, nếu có chính niệm, ta có
thể khám phá ra nhiều sự thật khó ưa về mình. Ví dụ, có thể vì ta là một
người ích kỷ, tự cao, chấp ngã, lúc nào cũng cho mình là đúng, ai khác
cũng sai, ta có thành kiến, thiên vị, mà tất cả cũng bởi vì ta không
thật sự biết thương mình... Sự khám phá ấy về con người thật của ta, tuy
rất chói tai, nhưng đó lại là một tuệ giác to lớn nhất. Và trên con
đường tu học, khám phá ấy sẽ giúp ta giải thoát ra khỏi mọi khổ đau và
sợ hãi.
Thực tập chính niệm có nghĩa là thực tập thành thật với chính mình một
trăm phần trăm. Khi ta nhìn sâu vào thân tâm, ta sẽ ghi nhận được một số
điều về mình không được đẹp đẽ cho lắm. Và vì không thích, cho nên ta sẽ
loại bỏ chúng đi. Chúng ta không thích những điều gì? Chúng ta không
thích xa lìa những người mình thương, hoặc phải sống với những người
mình ghét. Không phải chúng ta chỉ thương ghét đối với con người, nơi
chốn, và vật chất mà thôi, mà còn là những ý kiến, niềm tin và quyết
định nữa. Thường thì chúng ta không thích những gì tự nhiên xảy đến cho
mình. Ví dụ như là chúng ta không thích già nua, bệnh tật, yếu đuối,
chúng ta làm đủ mọi cách để giữ cho mình có được vẻ trẻ trung. Chúng ta
không thích ai chỉ lỗi của mình, vì ta rất tự hào. Chúng ta cũng không
thích ai có trí tuệ hơn mình, vì ta rất tự cao. Và đó chỉ là một vài thí
dụ kinh nghiệm cá nhân của tham, sân và si.
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi khi tham, sân, si nổi lên, biểu hiện ra,
chúng ta sẽ dùng ánh sáng và năng lực của chính niệm để theo dõi và tìm
đến gốc rễ của chúng. Gốc rễ của chúng nằm sâu kín ngay trong chính ta.
Vì nếu như ta không có hạt giống của sân hận, sẽ không một ai có thể làm
cho ta nổi giận được hết. Chính cái hạt giống sân hận có mặt trong ta,
phản ứng lại với hành động hoặc lời nói của một người nào đó, khiến ta
tức giận. Nếu có chính niệm, ta sẽ kiên nhẫn dùng tuệ giác và tự quay
nhìn lại chính mình. Nếu trong ta không có hạt giống của sân hận, ta sẽ
không quan tâm hay bực mình gì khi có người khác chỉ lỗi của mình. Thay
vì vậy, ta còn biết ơn người ấy đã giúp cho ta thấy được những lỗi lầm
của mình. Người có chính niệm và tuệ giác sẽ cám ơn những ai đã giúp
mình sửa lỗi, để ta thăng tiến nhanh hơn trên con đường tu học.
Trong tất cả chúng ta, ai cũng có khuyết điểm. Người chung quanh có thể
là những tấm gương giúp ta thấy được những khiếm khuyết ấy của mình.
Chúng ta phải biết xem những người chỉ lỗi cho ta như là những kẻ đã
khám phá giúp ta những kho tàng quý giá còn chôn kín trong ta. Vì nhờ
thấy được những lỗi lầm ấy mà ta có thể sửa đổi chúng, ta mới có thể
thăng tiến được. Con đường tự chuyển hóa là một con đường thẳng trực
tiếp dẫn ta đến một sự toàn thiện, mục đích của sự tu tập. Trước khi sửa
đổi thì ta cần phải thấy được những gì mình cần phải sửa đổi. Khi ấy, và
chỉ khi ấy, bằng cách chuyển hóa những khiếm khuyết của mình, ta mới có
thể phát triển được những cá tính hay đẹp vẫn còn đang bị vùi kín sâu
trong tiềm thức.
Như khi mắc bệnh, ta cần phải tìm cho ra nguyên nhân bệnh của mình.
Chừng đó ta mới có thể tìm cách để chữa trị. Nếu ta cứ giả vờ như mình
khỏe mạnh, không có khổ đau hay bệnh tật, ta sẽ không bao giờ đi tìm
thuốc chữa. Cũng thế, nếu ta không chịu nhận mình có lỗi lầm, ta sẽ
không thể nào sửa đổi để tiến lên trên con đường tu học. Nếu như chúng
ta không thấy được những khiếm khuyết của mình, ta cần phải nhờ đến
người khác chỉ giúp cho ta. Và ta phải biết ơn người ấy, như thầy
Xá-lợi-phất nói: “Dầu cho có một thầy sa di 7 tuổi chỉ cho tôi thấy
những lỗi lầm của mình, tôi cũng sẽ kính trọng và ghi nhận với hết lòng
thành kính.” Thầy Xá-lợi-phất là một người có năng lượng chính niệm rất
cao, thầy không bao giờ lầm lỗi. Nhờ Thầy không còn tự ái nên Thầy mới
có được thái độ ấy. Mặc dù sự tu tập của chúng ta chưa đến mức độ của
Thầy Xá-lợi-phất, nhưng chúng ta cũng nên thực tập có thái độ ấy, vì mục
đích sự tu tập của ta là để đạt được sự chứng đắc như Thầy.
Lẽ dĩ nhiên, người chỉ lỗi cũng chưa chắc gì hoàn toàn đã hết lỗi, nhưng
dù vậy họ vẫn có thể thấy được lỗi lầm của ta, cũng như ta nhìn thấy
những điều mà họ không hề biết đến, cho đến khi ta chỉ cho họ. Nhưng
hành động ấy, chỉ lỗi của kẻ khác và phản ứng khi được người khác chỉ
lỗi, phải được thực hành trong chính niệm. Nếu chúng ta sử dụng những từ
ngữ nặng nề và khó nghe để chỉ lỗi của kẻ khác, điều đó sẽ tạo nên đổ vỡ
và nguy hại hơn là mang lại lợi ích. Một người bất mãn thì không thể nào
có chính niệm, và không thể nào bày tỏ rõ ràng được. Một người cảm thấy
bị tổn thương sẽ mất đi chính niệm, và không còn thật sự nghe người kia
đang nói gì nữa. Chúng ta phải biết thực tập nói và lắng nghe trong
chính niệm thì sự trao đổi mới có thể được nhiều hiệu quả. Khi chúng ta
biết chia sẻ và lắng nghe trong chính niệm, tâm ta sẽ không còn bị ảnh
hưởng, chi phối bởi những sự tham lam, nhỏ nhen, sân hận và si mê nữa.
Mục đích của ta
Là một thiền sinh, chắc chắn chúng ta cần phải có một mục đích. Bằng
không nếu ta cứ mù quáng nghe theo lời hướng dẫn, thì ta cũng như một
người quờ quạng trong bóng tối mà thôi. Một hành động có ý thức và cố ý
nào chắc chắn cũng phải có một mục đích. Nhưng mục đích của một thiền
sinh vipassana không phải là để được giác ngộ sớm hơn những kẻ khác,
hoặc có nhiều quyền năng hơn, hoặc được hưởng lợi lộc nhiều hơn. Các
thiền giả không bao giờ tranh đua, giành giật với nhau về chính niệm.
Mục đích của ta là đạt được trọn vẹn những trạng thái cao đẹp và toàn
thiện vẫn còn nằm sâu kín trong tâm thức mình. Mục đích ấy có năm yếu
tố: thanh lọc tâm, chuyển hóa muộn phiền, vượt thắng khổ đau, đi trên
con đường dẫn đến hạnh phúc chân thật, và đạt được hạnh phúc ấy. Bạn hãy
ghi nhớ năm điều ấy trong tâm, và chúng ta có thể bước tới trong tự tin
và hy vọng.
Sự thực tập
Trong khi ngồi thiền, bạn hãy cố gắng đừng thay đổi tư thế cho đến khi
hết giờ đã định trước. Ví dụ, bạn thay đổi tư thế ngồi vì cảm thấy khó
chịu, và chuyển sang một tư thế mới. Chỉ một chút sau, bạn lại sẽ cảm
thấy tư thế mới này cũng trở thành khó chịu. Rồi bạn lại muốn đổi sang
một tư thế khác, và một chút sau, tư thế ấy cũng trở thành khó chịu. Ta
có thể nhúc nhích, cử động, thay đổi tư thế trong suốt thời gian ngồi
thiền, nhưng rồi ta sẽ không phát huy được một mức độ định lực nào hết.
Vì vậy, ta cần phải cố gắng đừng thay đổi tư thế trong khi ngồi thiền.
Chúng ta sẽ bàn thêm về phương cách đối trị cái đau trong chương 10.
Để tránh việc thay đổi tư thế, trước khi ngồi thiền bạn nên định trước
là mình sẽ ngồi bao lâu. Nếu bạn là người mới thực tập, nên chỉ ngồi yên
dưới hai mươi phút. Càng thực tập lâu, bạn có thể gia tăng thời gian ấy
lên. Thời gian ngồi thiền tùy thuộc vào hai yếu tố: bạn có thể bỏ ra bao
nhiêu giờ mỗi ngày và bạn có thể ngồi được bao lâu mà không bị cái đau
hành hạ quá mức.
Chúng ta cũng không nên đặt ra một thời hạn nào cho mục đích ấy, vì sự
thành công của ta còn tùy thuộc vào sự phát triển tâm linh và tuệ giác
của mình nữa. Chúng ta thực tập tinh tiến trong chính niệm để đạt đến
mục tiêu mình muốn, nhưng không cần phải hạn định một khoảng thời gian
nhất định nào. Khi nào sẵn sàng, ta sẽ đến nơi. Việc chúng ta có thể làm
bây giờ là chuẩn bị cho thời điểm ấy.
Sau khi ngồi yên không cử động, bạn hãy nhắm mắt lại. Tâm ta cũng ví như
một ly nước đục vì có pha trộn bùn. Càng giữ cho ly nước được yên chừng
nào, bùn cặn sẽ lóng xuống nhanh chừng ấy, và nước sẽ trở nên trong hơn.
Cũng vậy, khi ta giữ cho thân mình được yên, không nhúc nhích, hoàn toàn
để hết tâm ý vào đề mục thiền quán, tâm ta sẽ tự nhiên lắng đọng xuống,
và ta sẽ kinh nghiệm được một niềm vui của việc ngồi thiền (thiền
duyệt).
Muốn đạt đến trình độ này, trước hết ta phải thực tập giữ cho tâm mình
có mặt trong giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại thay đổi luôn và rất
nhanh, một người bình thường không thể nào thấy được việc ấy, cho dù họ
có nhìn. Mỗi giây phút nào cũng có mặt trong đó một chuỗi những sự kiện,
và không có giây phút nào mà lại không có một sự kiện xảy ra. Chúng ta
không thể nào ghi nhận một giây phút mà lại không ghi nhận những sự kiện
đang có mặt trong giây phút ấy. Vì vậy, giây phút mà ta đang chú tâm
bằng một sự chú ý đơn thuần phải là giây phút hiện tại này. Tâm ta đi
qua một chuỗi sự kiện như là những hình ảnh chạy ngang qua máy chiếu
phim. Có những hình ảnh phát sinh từ những kinh nghiệm trong quá khứ, và
có những hình ảnh là do sự tưởng tượng của ta về những dự định trong
tương lai.
Tâm ta không thể nào tập trung được nếu nó không có một đối tượng. Vì
vậy, ta cần tìm cho tâm mình một đối tượng mà lúc nào cũng sẵn sàng và
có mặt trong giây phút hiện tại. Một trong những đối tượng ấy là hơi
thở. Hơi thở lúc nào cũng có mặt và rất dễ tìm thấy. Trong mỗi giây mỗi
phút, hơi thở ra vào nơi mũi của ta. Khi ta thực tập thiền quán, tâm ta
có thể dễ dàng tập trung vào hơi thở vì nó rõ rệt và đều đặn hơn bất cứ
một đối tượng nào khác.
Sau khi bạn ngồi thật yên như chúng ta đã trình bày, và ban rải tình
thương đến tất cả mọi người, hãy thở ba hơi dài và sâu. Sau khi thở ba
hơi, hãy để cho hơi thở trở lại bình thường, ra vào tự nhiên, không có
một cố gắng nào hết. Bạn bắt đầu tập trung sự chú ý vào vành lỗ mũi, nơi
không khí ra vào xúc chạm. Chỉ đơn giản ghi nhận cảm giác của hơi thở ra
vào nơi đầu mũi. Khi một hơi thở vào vừa xong và trước khi một hơi thở
ra bắt đầu, có một sự ngưng nghỉ ngắn. Ghi nhận nó và ghi nhận sự bắt
đầu của hơi thở ra. Khi hơi thở ra chấm dứt, cũng có một sự ngừng nghỉ
ngắn trước khi hơi thở vào bắt đầu. Bạn cũng nhớ ghi nhận giai đoạn
ngừng nghỉ ấy. Có nghĩa là chúng ta có hai lúc hơi thở tạm ngừng - một ở
cuối hơi thở vào và một ở cuối hơi thở ra. Hai khoảng ngừng ấy rất ngắn,
xảy ra chỉ trong giây lát, có thể chúng ta không hề nhận thấy. Nhưng với
sự thực tập chính niệm, ta có thể ghi nhận được chúng rất rõ ràng.
Bạn không nên nói thầm hay tưởng tượng thêm một điều gì cả. Hãy đơn giản
ghi nhận hơi thở ra vào mà không cần phải nói thêm, “Tôi thở vào,” hoặc
là “Tôi thở ra.” Khi ta đặt sự chú ý của mình vào hơi thở, ta bỏ qua hết
một bên mọi tư tưởng, trí nhớ, âm thanh, mùi vị... và chỉ hoàn toàn chú
tâm vào hơi thở mà thôi, không một điều gì khác.
Lúc đầu, cả hơi thở vào và ra đều rất ngắn, vì thân và tâm của ta chưa
được lắng yên và buông thư. Ghi nhận cảm giác của hơi thở vào ngắn và
hơi thở ra ngắn trong khi nó xảy ra, nhưng đừng nói thầm “thở vào ngắn”
hoặc “thở ra ngắn”. Trong khi ta tiếp tục ghi nhận cảm giác của hơi thở
vào ngắn và thở ra ngắn, thân và tâm ta sẽ trở nên tĩnh lặng hơn. Hơi
thở ta sẽ tự nhiên trở nên dài hơn. Và ta hãy ghi nhận cảm giác của hơi
thở dài ấy mà không cần phải nói thầm: “hơi thở dài”. Tiếp theo đó, ta
ghi nhận toàn thể tiến trình của hơi thở từ đầu cho đến cuối. Hơi thở ta
sẽ dần dà trở nên vi tế hơn, thân và tâm ta sẽ trở nên tĩnh lặng hơn.
Ghi nhận cảm giác tĩnh lặng và an vui này của hơi thở mình.
Ta làm gì khi tâm mình nghĩ đến việc khác?
Cho dù có cố gắng hết sức để giữ cho tâm mình luôn chú ý vào hơi thở,
tâm ta vẫn luôn có khuynh hướng đi lan man đến những nơi khác. Nó có thể
lang thang về quá khứ, nhớ lại những nơi chốn mình đã một lần viếng
thăm, những người đã có dịp gặp, những bạn bè cách xa lâu ngày, một
quyển sách đã đọc từ lâu, mùi vị của chiếc bánh ngày hôm qua... và rồi
cứ tiếp tục mãi. Mỗi khi bạn vừa ý thức là tâm mình không còn chú ý đến
hơi thở nữa, hãy mang nó trở về với hơi thở, và bỏ neo nơi đó. Nhưng có
lẽ chỉ vài giây sau là bạn lại có thể bị lôi kéo nghĩ đến tiền nhà chưa
trả, tiền chợ chưa đưa, cần phải gọi điện thoại cho một người bạn, viết
một lá thư, giặt quần áo, đi chợ, đi ăn tiệc, dự tính cho chuyến nghỉ hè
sắp tới... Và mỗi khi bạn thấy tâm mình không còn với hơi thở, bạn chỉ
cần nhẹ nhàng mang nó trở về trong chính niệm. Dưới đây là một vài đề
nghị có thể giúp bạn phát huy một định lực cần thiết cho sự thực tập
chính niệm.
1.Đếm hơi thở
Trong những trường hợp nói trên, việc đếm hơi thở sẽ giúp ích rất nhiều.
Mục đích của việc đếm là giúp ta tập trung tâm ý mình vào hơi thở. Và
khi tâm ta đã tập trung vào hơi thở rồi, ta không cần phải đếm nữa. Đây
là một phương cách để giúp ta phát huy định lực. Có nhiều cách đếm khác
nhau. Nhưng dù là cách nào, ta cũng phải đếm thầm trong tâm mà thôi,
không nên phát ra tiếng động. Dưới đây là một vài phương cách đếm hơi
thở:
a) Trong khi thở vào, đếm “một, một, một...” cho đến khi phổi đầy dưỡng
khí. Trong khi thở ra, đếm “hai, hai, hai...” cho đến khi buồng phổi ta
trống không. Và khi tiếp tục thở vào hơi kế, đếm “ba, ba, ba...” cho đến
khi buồng phổi đầy trở lại, và khi thở ra cũng đếm “bốn, bốn, bốn...”
cho đến khi hết hơi thở ra. Đếm cho đến mười rồi quay trở lại một.
b) Phương pháp thứ hai là đếm nhanh từ một đến mười. Trong khi đếm “một,
hai, ba...” cho đến mười, bạn thở vào hết một hơi, và khi thở ra bạn
cũng đếm “một, hai, ba...” cho đến mười. Có nghĩa là trong mỗi hơi thở
vào và thở ra bạn đều đếm từ một cho đến mười. Bạn có thể tiếp tục
phương pháp này bao nhiêu lần cũng được, cho đến khi nào tâm ta được
định vào hơi thở.
c) Phương pháp thứ ba là đếm nối tiếp nhau từ một đến mười. Thở vào ta
chỉ đếm đến năm mà thôi: “một, hai, ba, bốn, năm”, thở ra ta đếm lên đến
sáu “một, hai, ba, bốn, năm, sáu”. Rồi khi thở vào, ta lại đếm đến bảy:
“một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy”, và khi thở ra ta đếm cho đến tám
“một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám”. Tiếp tục, thở vào ta đếm cho
đến chín, thở ra ta đếm cho đến mười. Ta có thể tiếp tục như vậy bao
nhiêu lần cũng được, cho đến khi nào tâm ta được định vào hơi thở.
d) Phương pháp thứ tư là thở dài hơi. Khi phổi ta đầy không khí, niệm
thầm “một” và thở ra hoàn toàn cho đến khi nào phổi trống không. Tiếp đó
đếm thầm “hai”, thở vào một hơi dài, đếm “ba” và thở ra hoàn toàn như
lần trước. Khi phổi ta đã trống không, niệm thầm “bốn”... Tiếp tục đếm
như vậy cho đến mười. Rồi lại đếm ngược từ mười cho đến một. Tiếp tục
đếm từ một đến mười rồi lại từ mười đến một.
e) Phương pháp thứ năm là nối liền hơi thở vào với hơi thở ra. Khi buồng
phổi ta xẹp hẳn không còn không khí, niệm thầm “một”. Lần này, bạn đếm
cả hơi thở vào và hơi thở ra là một. Bạn tiếp tục thở vào và thở ra, và
đếm thầm “hai”. Theo phương pháp này, bạn chỉ đếm từ một đến năm và lặp
lại từ năm đến một. Bạn có thể thực tập theo cách này cho đến khi nào
hơi thở mình trở nên thật tinh tế và nhẹ nhàng.
Nên nhớ rằng không phải lúc nào ta cũng cần đếm hơi thở. Khi tâm ta đã
tập trung được vào vành mũi, nơi hơi thở vào ra xúc chạm, và ta bắt đầu
cảm thấy hơi thở mình trở nên tinh vi và nhẹ nhàng, ta không còn phân
biệt được giữa hơi thở vào và hơi thở ra nữa, lúc đó bạn nên ngừng đếm.
Phương pháp đếm dùng để giúp cho tâm mình được tập trung lên một đối
tượng nào đó.
2. Nối liền
Sau hơi thở vào, đừng đợi giây phút ngắn mà hơi thở ta ngưng lại, hãy
nối liền hơi thở vào với hơi thở ra, để ta cảm thấy hai hơi thở vào và
ra như là một hơi thở liên tục.
3. Điểm nối liền
Sau khi nối liền hơi thở vào với hơi thở ra, giữ cho tâm ta ở ngay điểm
mà ta cảm thấy hơi thở vào và hơi thở ra giao tiếp với nhau. Thở vào-ra
như là một hơi thở duy nhất đi vào ra và xúc chạm, tiếp xúc với đầu mũi
của mình.
4. Tập trung tâm ý như người thợ mộc
Người thợ mộc vạch một đường thẳng trên tấm ván mà anh muốn cưa. Rồi anh
giữ lưỡi cưa của mình cho thẳng, cắt ngay theo đường đã vạch sẵn. Anh
không hề nhìn theo những răng cưa khi anh kéo lưỡi cưa lên xuống trên
tấm ván. Anh hoàn toàn đặt hết tâm ý của mình vào đường đã vẽ, để giữ
cho tấm ván được cắt ngay. Cũng vậy, chúng ta nên giữ tâm của mình ngay
trên vành mũi, nơi điểm mà ta cảm nhận được sự xúc chạm của hơi thở rõ
ràng nhất.
5. Tâm ta làm người gác cổng
Một người gác cổng không bao giờ cần chú ý đến mọi chi tiết của những
nguời ra vào. Anh ta chỉ cần ghi nhận những người nào đang vào và ra
cổng. Cũng thế, khi bạn tập trung tâm ý của mình, bạn không cần quan tâm
đến các chi tiết những kinh nghiệm của mình. Chỉ cần đơn giản chú ý và
ghi nhận cảm giác của hơi thở ra vào ngay nơi đầu lỗ mũi.
Khi bạn tiếp tục sự thực tập của mình, thân và tâm của bạn sẽ trở nên
nhẹ bỗng, khiến có lúc bạn cảm thấy như mình đang lơ lửng trong không
khí, hoặc là đà trên mặt nước. Bạn cũng có thể cảm thấy như thân mình
đang bay bổng lên trời. Khi những phần thô thiển của hơi thở đã chấm
dứt, phần vi tế của hơi thở vào-ra sẽ sinh khởi. Hơi thở tinh tế này bây
giờ trở thành đối tượng tập trung tâm ý của ta. Và đó là dấu hiệu của
định. Một đối tượng có hình tướng được thay thế bằng một đối tượng càng
lúc càng vi tế hơn. Ta có thể ví dụ việc ấy cũng giống như một tiếng
chuông. Khi chúng ta lấy một cây dùi lớn đánh vào chuông, ban đầu ta sẽ
nghe một âm thanh lớn và thô. Khi tiếng vang nhỏ dần đi, âm thanh sẽ
càng lúc càng trở nên rất vi tế. Cũng thế, hơi thở vào-ra của ta lúc ban
đầu có một hình tướng rất thô thiển. Khi ta đem một sự chú ý đơn thuần
đặt lên trên hơi thở của mình, hình tướng của nó sẽ dần dần trở nên tinh
tế hơn. Tâm ý của ta vẫn hoàn toàn tập trung vào đầu lỗ mũi, nơi hơi thở
ra vào xúc chạm. Lúc ấy, những đối tượng thiền quán khác sẽ càng lúc
càng trở nên rõ rệt, trong khi hơi thở càng lúc càng trở nên nhẹ nhàng
và vi tế hơn. Nhiều lúc, ta có cảm tưởng như không còn nhận diện được
hơi thở mình nữa. Bạn đừng thất vọng nghĩ rằng ta đã đánh mất hơi thở
của mình, hoặc là sự thực tập không còn tiến bộ nữa. Đừng lo việc ấy.
Hãy giữ chính niệm và kiên trì mang cảm giác của hơi thở về lại nơi đầu
lỗ mũi của mình. Đây là lúc bạn phải thực hành cho thật tinh tiến, giữ
cho quân bình năm năng lượng của tín, tấn, niệm, định và tuệ.
Tỷ dụ người nông phu
Có một bác nông phu dùng trâu để cày ruộng. Đến giữa ngày, bác tháo mở
cho những con trâu được tự do, và tự mình đến nằm nghỉ dưới bóng mát của
một gốc cây. Khi bác thức dậy thì không thấy những con trâu đâu nữa!
Nhưng bác không lo lắng, bác chỉ đi xuống phía bờ ao, nơi những con thú
vẫn thường tụ tập để uống nước, và bác tìm thấy những con trâu của mình
nơi đây. Bác lại dắt chúng trở về, gắn chiếc ách vào và cày tiếp thửa
ruộng.
Cũng tương tự như vậy, khi bạn tiếp tục thực tập, sẽ có lúc hơi thở bạn
trở nên rất vi tế và nhẹ nhàng, khiến bạn hoàn toàn như không thể ghi
nhận cảm giác của hơi thở được nữa. Khi việc này xảy ra, bạn đừng nên lo
lắng. Nó không mất đi đâu hết. Nó cũng vẫn có mặt ngay nơi đó như trước
- ở ngay đầu lỗ mũi của bạn. Bạn thử thở nhanh vài hơi là bạn sẽ cảm
thấy nó lại ngay. Cứ tiếp tục nhận diện đơn thuần vào cảm giác xúc chạm
của hơi thở với vành lỗ mũi của mình.
Khi bạn tiếp tục tập trung chú ý vào đầu mũi, bạn sẽ bắt đầu ghi nhận
được những dấu hiệu tiến triển của thiền tập. Bạn sẽ cảm thấy được một
cảm xúc dễ chịu của một dấu hiệu, hay một biểu tượng, bắt đầu xuất hiện.
Mỗi hành giả sẽ có một kinh nghiệm riêng. Dấu hiệu ấy sẽ giống như một
vì sao, một viên ngọc quý tròn, một hạt trân châu, một hột bông gòn, một
cái chốt làm bằng gỗ quý, một sợi dây dài, một tràng hoa, một làn khói,
một màn nhện, một làn mây mỏng, một hoa sen, một vòng mặt trăng hay mặt
trời...
Khi ta bắt đầu thực tập, ta lấy hơi thở vào và hơi thở ra làm những đối
tượng của thiền tập. Bây giờ ta lại có thêm một đối tượng thứ ba nữa là
dấu hiệu ấy. Khi bạn tập trung tâm vào đối tượng thứ ba này, tâm bạn sẽ
đạt đến một trạng thái định sâu sắc đủ để có thể giúp cho sự thực tập
thiền quán. Dấu hiệu ấy có mặt rất rõ rệt ngay nơi đầu mũi. Bạn hãy tập
làm chủ nó, hoàn toàn kiểm soát được nó, để bất cứ khi nào cần đến, nó
sẽ sẵn sàng cho bạn. Hãy đem tâm ta hòa nhập với dấu hiệu ấy, mà nó chỉ
có mặt trong giờ phút hiện tại, và để cho tâm ta đi theo từng giây phút
kế tiếp nhau. Khi ta chú tâm một cách đơn thuần, ta sẽ thấy dấu hiệu ấy
đang biến đổi trong từng giây phút. Giữ cho tâm mình có mặt với từng sự
thay đổi ấy. Và ta cũng ghi nhận rằng, tâm mình chỉ có thể tập trung vào
giây phút hiện tại này mà thôi.
Sự kết hợp giữa tâm mình và giây phút hiện tại được gọi là định nhất
thời (momentary concentration). Vì khi những giây phút cứ tiếp tục trôi
ngang qua, không ngừng nghỉ, tâm ta cũng sẽ đi theo cùng một nhịp độ,
thay đổi theo chúng, sinh diệt theo chúng, mà không hề bị dính mắc vào
bất cứ một cái nào. Nếu chúng ta cố gắng bắt tâm mình dừng lại trong một
giây phút, ta sẽ trở nên hoang mang và bối rối, vì tâm thức ta không thể
nào dừng yên được. Nó phải theo kịp với những gì đang xảy ra trong mỗi
giây phút mới. Vì giây phút hiện tại có thể được tìm thấy trong bất cứ
một lúc nào, cho nên mỗi giây phút tỉnh thức của ta có thể là một giây
phút tập trung, một loại định nhất thời.
Muốn kết hợp tâm ta với giây phút hiện tại, chúng ta phải tìm một cái gì
đó đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Nhưng dĩ nhiên, bạn không thể
nào tập trung tâm ý mình vào tất cả những thay đổi, nếu bạn không có
được một mức định lực nào đó. Và khi có được định lực rồi, bạn sẽ có thể
dùng nó để tập trung tâm ý vào bất cứ một kinh nghiệm nào của mình - sự
phồng xẹp của bụng theo hơi thở, sự lên xuống ở ngực, sự phát sinh và
chấm dứt của cảm xúc, hơi thở, tư tưởng của mình...
Muốn được tiến triển trên con đường thiền quán, bạn cần phải có được
loại định nhất thời này. Thật ra, trên con đường thực tập thiền quán,
bạn chỉ cần có bấy nhiêu thôi, bởi vì tất cả những kinh nghiệm của ta
chỉ có mặt trong một phút chốc. Khi bạn tập trung tâm định này vào những
sự biến đổi đang xảy ra trong thân và tâm, bạn sẽ ghi nhận rằng, hơi thở
chính là thuộc về thân, và những cảm xúc hơi thở, ý thức về cảm xúc, và
ý thức về các dấu hiệu, chính là thuộc về tâm. Trong khi định tâm vào
đó, bạn sẽ thấy rằng chúng luôn thay đổi không ngừng nghỉ. Bạn cũng có
thể cảm nhận được một số những cảm giác khác có mặt trong thân, ngoài
cảm giác của hơi thở. Hãy quán sát toàn thân mình. Nhưng cũng đừng cố
gắng tạo thêm một cảm thụ nào không tự nhiên phát sinh trong ta. Chỉ ghi
nhận tất cả những cảm giác nào khởi lên trong thân. Và khi có một tư
tưởng khởi lên, ta cũng cần phải ghi nhận nó. Trong mọi việc xảy ra, bạn
chỉ cần nhìn thấy được tự tính vô thường, vô ngã và bất toại nguyện có
mặt trong tất cả những kinh nghiệm của mình, cho dù đó là thuộc về thân
hay tâm.
Khi chính niệm của ta phát triển, sự bất mãn về những đổi thay, sự ghét
bỏ những kinh nghiệm khó chịu và nắm giữ những gì dễ chịu, và ý niệm về
một cái tôi, tất cả những điều đó sẽ được thay thế bằng một nhận thức
sâu sắc về vô thường, vô ngã và bất toại nguyện. Cái nhìn mới về thực
tại này sẽ giúp cho ta có được một thái độ an tĩnh và chín chắn hơn về
cuộc đời. Ta sẽ thấy rằng, những gì trong quá khứ ta cho rằng thường
hằng và bất biến, thật ra đang thay đổi rất nhanh, tưởng chừng như tâm
ta cũng không thể nào bắt theo kịp. Nhưng dù vậy, chúng ta vẫn ghi nhận
được hầu hết những biến đổi ấy. Ta sẽ thấy được sự vi tế của tự tính vô
thường và vô ngã. Những tuệ giác này sẽ mang lại cho ta an vui và hạnh
phúc, và giúp ta đối diện với những vấn đề trong đời sống hằng ngày một
cách sáng suốt hơn.
Khi tâm ta hợp nhất với một hơi thở luôn chuyển động, ta sẽ tự nhiên có
mặt trong giây phút hiện tại này. Ta ghi nhận được cảm thụ phát sinh do
hơi thở tiếp xúc với vành lỗ mũi. Khi yếu tố đất của hơi thở tiếp xúc
với yếu tố đất của lỗ mũi, tâm ta sẽ cảm nhận được sự chuyển động của
không khí ra vào. Cảm giác ấm áp có mặt nơi đầu mũi, hoặc ở bất cứ phần
nào trên cơ thể, là do sự tiếp xúc với yếu tố lửa phát sinh lên bởi tiến
trình của hơi thở. Cảm thụ về vô thường của hơi thở phát khởi lên khi
yếu tố gió của nó chuyển động xúc chạm với lỗ mũi. Mặc dù yếu tố nước
cũng có mặt trong hơi thở, nhưng tâm ta không thể ghi nhận được nó.
Và ta cũng cảm nhận được sự phồng xẹp và co giãn của buồng phổi, bụng,
phần dưới đan điền, khi hơi thở trong sạch được vào ra nơi phổi. Sự co
giãn của phần dưới rốn, bụng và ngực đều là một phần của một tiết độ
nhịp nhàng chung của vũ trụ. Tất cả mọi việc trong vũ trụ này đều có một
nhịp co thắt và giãn nở, cũng giống như hơi thở và cơ thể của ta. Mọi sự
việc đều sinh ra và diệt đi. Nhưng ở đây, chúng ta chỉ chủ yếu quan tâm
đến hiện tượng sinh diệt của hơi thở và những phần chi tiết của thân và
tâm mà thôi.
Mỗi khi ta thở vào, ta kinh nghiệm được một sự tĩnh lặng nho nhỏ nào đó.
Sự tĩnh lặng đó sẽ trở thành sự căng thẳng nếu ta ngừng lại trong giây
lát và không chịu thở ra. Khi ta thở ra, sự căng thẳng sẽ biến mất. Và
sau khi thở ra, ta cũng sẽ cảm thấy khó chịu nếu chúng ta chờ đợi hơi
lâu một chút, trước khi mình lại thở vào. Điều đó có nghĩa là, mỗi khi
phổi ta đầy, ta phải thở ra, và mỗi khi phổi ta trống, ta phải thở vào.
Sau mỗi lần thở vào ta sẽ cảm thấy một sự an tĩnh nho nhỏ, và sau mỗi
lần thở ra ta cũng cảm thấy một cảm giác an tĩnh nho nhỏ. Chúng ta muốn
được an tĩnh và thoải mái, ta không thích cảm giác căng thẳng vì thiếu
hơi thở. Ta muốn sự thoải mái ấy được kéo dài lâu hơn, và sự căng thẳng
qua đi nhanh hơn. Nhưng sự căng thẳng ấy không qua nhanh như ý ta muốn,
và cảm giác tĩnh lặng ấy cũng không ở lâu như ta mong cầu. Và vì vậy mà
ta đâm ra bực bội và cau có. Điều đó giúp cho ta thấy được một sự thật
là, chỉ cần một mức độ nắm bắt rất nhỏ nhoi, trong một hoàn cảnh vô
thường, cũng có thể mang lại cho ta nhiều khổ đau. Và vì không có một
cái tôi nào có khả năng làm chủ được tình trạng ấy, ta lại càng cảm thấy
thất vọng hơn nữa.
Nhưng nếu ta biết theo dõi hơi thở của mình mà không mong cầu sự an
tĩnh, và cũng không ghét bỏ sự căng thẳng phát sinh theo mỗi hơi thở ra
vào, chúng ta chỉ kinh nghiệm thuần túy những tự tính vô thường, vô ngã
và bất toại nguyện của hơi thở mình, tâm ta sẽ tự nhiên trở nên tĩnh
lặng và an vui.
Tâm ta không phải lúc nào cũng có mặt với hơi thở. Nó cũng sẽ có mặt với
những âm thanh, ký ức, tình cảm, ý tưởng, nhận thức và các tâm hành khác
khởi lên. Khi chúng ta kinh nghiệm được trạng thái này, ta nên tạm quên
đi cảm thụ của hơi thở, và lập tức đem sự chú tâm của mình đặt lên các
đối tượng mới - mỗi lần chỉ một cái thôi, đừng bao giờ một lúc mà gom
hết tất cả. Và khi những đối tượng ấy phai mờ đi, ta lại đem tâm mình
trở về với hơi thở. Hơi thở là một căn nhà trú ẩn mà tâm ta có thể trở
về sau mỗi chuyến đi, dài hoặc ngắn, đến những trạng thái khác nhau của
thân tâm. Và chúng ta cũng nên nhớ rằng, tất cả những hành trình này đều
xảy ra ngay trong chính tâm thức của mình.
Mỗi khi ta mang tâm mình trở lại với hơi thở, nó trở về mang theo một
tuệ giác sâu sắc hơn về tự tính vô thường, vô ngã và bất toại nguyện có
mặt trong tất cả. Tâm ta có được nhiều tuệ giác hơn nhờ biết quán chiếu,
theo dõi những gì xảy ra một cách khách quan, không dính mắc. Ta ý thức
được một sự thật là thân này, cảm thụ này, nhận thức này và các tâm hành
này, chỉ được dùng với một mục đích duy nhất, là để giúp ta nhìn và hiểu
sâu về một thực tại phức tạp của thân tâm.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.238.70.175 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đang online: Minh Hữu Truong Minh Chanh Luong hai Tuyet Pham Liennguyen tamtran.ussh van chương Phan Hoàng Mai Khánh Nga Huệ Trí 1975 NGUYỄN TRỌNG TÀI Không Xã Nguyên Chơn Dsk Hắc Huyền Tử Tâm Cam Lộ lamtrinh Mật Quân ducnt4u Viên Hiếu Thành Huệ Lộc 1959 hoangquycong Tịnh Tây Cao Hải Dương Sony Huy Quang Phu Quảng Minh ECE nguyễn văn tuấn Thiện sỹ Thiện Hướng lehoangdo Lãn Tử Thích Quảng Ba Khải Chúng Trì Pháp Nhat Quang tuanmel@hotmail.com Trầm Minh Ngọc Anh Đinh khánh Đăng ... ...
Việt Nam (1.180 lượt xem) - Hoa Kỳ (187 lượt xem) - Romania (79 lượt xem) - Australia (55 lượt xem) - Nhật Bản (21 lượt xem) - Trung Hoa (9 lượt xem) - Pháp quốc (7 lượt xem) - Na-uy (2 lượt xem) - Senegal (1 lượt xem) - Hà Lan (1 lượt xem) - ... ...
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.