Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Trang chủ »» Danh mục »» KINH ĐIỂN »» Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn »» 7. THƯỜNG LẠC NGÃ TỊNH »»
 Xem Mục lục
   Xem Mục lục  
	 
 
      (Bản dịch từ kinh tạng Pāli của Hòa 
      thượng Thích Minh Châu)
    
      
      Và chính vì thế, mỗi phần giáo pháp được đức Phật thuyết giảng trong 
      một giai đoạn nhất định đều là hướng đến mục tiêu dẫn dắt thính 
      chúng trên con đường tu tập, không nhằm trang bị những kiến thức hay 
      tri kiến không liên quan đến sự tu tập. Dựa trên nền tảng nhận thức 
      này, chúng ta có thể thấy ngay một điều là những ai không có sự thực 
      hành theo lời Phật dạy sẽ không bao giờ có được khả năng nhận hiểu 
      hoặc luận bàn về ý nghĩa của các giáo pháp đó. Họ chỉ có thể đưa ra 
      những nhận thức hết sức cạn cợt trong phạm trù hý luận, không bao 
      giờ có thể cảm nhận được những ý nghĩa sâu xa và tác dụng chuyển hóa 
      của Phật pháp trong đời sống tu tập.
    
      
      Trở lại với vấn đề đã nêu trên, những ý nghĩa vô thường, khổ, vô 
      ngã, bất tịnh đã được đức Phật đưa ra như một chỉ dẫn thiết thực cho 
      người tu tập, không phải như những giáo điều hay cơ sở lý luận. Vì 
      thế, những ý nghĩa này chắc chắn đã mang đến tác dụng chuyển hóa 
      tích cực cho tất cả những ai thực sự hành trì theo đó, và bằng chứng 
      cụ thể là Tăng đoàn đã liên tục phát triển khắp mọi nơi, ngày càng 
      có thêm nhiều người thực hành theo lời Phật dạy. Về sự thuyết giảng 
      các ý nghĩa này, đức Phật dạy:
    
      
      “Ta lại thị hiện vì những kẻ chấp thường mà giảng thuyết phép quán 
      tưởng vô thường; vì những kẻ chấp lấy sự vui mà giảng thuyết phép 
      quán tưởng lẽ khổ; vì những kẻ chấp ngã mà giảng thuyết phép quán vô 
      ngã; vì những kẻ chấp lấy sự trong sạch mà giảng thuyết về sự bất 
      tịnh.” 
    
      
      (trang 446, tập I)
    
      
      Thật vậy, khi con người đang đắm say trong dục lạc và ngày ngày nuôi 
      dưỡng những độc tố tham lam, sân hận, si mê, liều thuốc vô thường, 
      khổ, vô ngã, bất tịnh do đức Phật đưa ra như vậy đã ngay lập tức 
      chữa lành vô số thương tổn tinh thần cho những con người đang đau 
      khổ. Do ý nghĩa đó mà các vị tỳ-kheo trong thính chúng đã bạch Phật 
      như sau:
    
      
      “Thế Tôn thuyết dạy [cho chúng con] những lý vô thường, khổ, không, 
      vô ngã thật đáng mừng thay!
  
    
      
      “Bạch Thế Tôn! Ví như trong dấu chân của muôn loài thì dấu chân voi 
      là to nhất. Phép quán tưởng vô thường cũng thế, là bậc nhất trong 
      các phép quán tưởng. Như ai tinh cần tu tập phép quán tưởng ấy, có 
      thể trừ diệt tất cả tâm tham dục và ái luyến trong Dục giới, tâm ái 
      luyến trong cõi Sắc giới và Vô sắc giới, cũng như trừ được vô minh, 
      kiêu mạn cùng với những tư tưởng vô thường.”
    
      
      (trang 246-247, tập I)
    
      
      Và với niềm tin tưởng vào phần giáo pháp đã tự mình tu tập chứng 
      nghiệm, các vị tỳ-kheo cũng xác quyết:
    
      
      “Thế Tôn! Những ai không tu tập các phép quán tưởng: khổ, vô thường, 
      vô ngã thì chẳng đáng gọi là bậc thánh. Những người ấy thường buông 
      thả, biếng nhác, trôi lăn trong sinh tử.” 
    
      
      (trang 251, tập I)
    
      
      Tuy nhiên, với trí tuệ giác ngộ viên mãn của mình, đức Phật biết rõ 
      rằng con đường tu tập hướng đến sự giải thoát không thể dừng lại ở 
      đó. Một khi cội gốc sâu xa nhất của vô minh phiền não chưa được dứt 
      trừ hoàn toàn thì sự sanh khởi của khổ đau chỉ là điều sớm muộn. Vì 
      thế, khi nhận thấy sự tu tập của đại chúng đã đạt đến một trình độ 
      nhất định cũng như lòng tin vào Chánh pháp đã được kiên cố, ngài mới 
      quyết định đưa ra phần giáo pháp sâu xa uyên áo nhất, có công năng 
      dứt trừ tận gốc rễ của mọi hình thức khổ đau trong hiện tại cũng như 
      tương lai. Đó là giáo pháp thường, lạc, ngã, tịnh trong kinh Đại Bát 
      Niết-bàn này. Đức Phật dạy:
    
      
      “Vì điên đảo nên người thế gian biết văn tự mà không biết nghĩa chân 
      thật. Thế nào là nghĩa chân thật? Vô ngã là sanh tử, ngã tức là Như 
      Lai; vô thường là hàng Thanh văn và Duyên giác, thường tức là pháp 
      thân Như Lai; khổ là tất cả ngoại đạo, lạc tức là Niết-bàn; bất tịnh 
      là pháp hữu vi, tịnh tức là Chánh pháp của chư Phật, Bồ Tát. Đó gọi 
      là không điên đảo. 
    
      
      “Vì không điên đảo nên biết được cả văn tự và nghĩa chân thật. Nếu 
      muốn lìa xa bốn pháp điên đảo, cần phải biết rõ nghĩa chân thật 
      thường, lạc, ngã, tịnh như vậy.”
    
      
      (trang 253, tập I)
    
      
      Như vậy, rõ ràng là sự so sánh những giáo pháp do đức Phật thuyết 
      giảng hoàn toàn không thể dựa trên cơ sở ngôn ngữ và lý luận, mà cần 
      phải có sự thực chứng đối với từng vấn đề được nêu ra. Vì thế, nếu 
      những ai chưa tu tập pháp quán tưởng vô thường theo đúng lời Phật 
      dạy để có thể tự mình trực nhận ý nghĩa vô thường trong đời sống – 
      chứ không chỉ là sự lặp lại những điều ghi trong kinh điển – thì sẽ 
      chưa có đủ khả năng để nhận biết về ý nghĩa thường mà Phật thuyết 
      dạy trong kinh này. Đối với các pháp khổ, vô ngã và bất tịnh cũng 
      đều như vậy.
    
      
      Khi thực sự tu tập và nhận biết được các ý nghĩa vô thường, khổ, vô 
      ngã, bất tịnh, cho dù đạt được rất nhiều thành tựu về tinh thần cũng 
      như giảm nhẹ rất nhiều khổ đau trong cuộc sống, nhưng người tu tập 
      rồi một lúc nào đó chắc chắn cũng sẽ tự mình chạm đến những giới hạn 
      như lời Phật dạy trong kinh này:
    
      
      “Nếu nói các pháp thảy đều không có ngã tức là đoạn kiến. Nếu nói 
      rằng có cái ngã tồn tại, tức là thường kiến. 
    
      
      “Nếu nói rằng hết thảy các hành đều không thường còn tức là đoạn 
      kiến. Nếu nói rằng các hành đều thường còn, lại cũng là thường kiến. 
    
      
      “Nếu nói [tất cả các pháp đều là] khổ tức là đoạn kiến, nếu nói [tất 
      cả các pháp đều là] vui, lại cũng là thường kiến. 
      
    
      
      “Tu tập [theo tư tưởng] tất cả các pháp đều thường tồn sẽ rơi vào 
      đoạn kiến. Tu tập [theo tư tưởng] tất cả các pháp đều đoạn diệt sẽ 
      rơi vào thường kiến. 
    
      
      (trang 253, tập I)
    
      
      Như vậy, những quan điểm vô ngã và có ngã, vô thường và thường, khổ 
      và vui, cho đến sự tu tập tư tưởng các pháp là thường tồn hay là 
      đoạn diệt đều không phải những pháp môn giải thoát rốt ráo. Ở đây, 
      chúng ta thấy rõ một điều là khi chưa đạt đến sự giải thoát rốt ráo 
      thì mọi quan điểm của chúng ta đều bị giới hạn và xoay vòng trong 
      phạm trù khái niệm, buông bên này sẽ vướng vào bên kia, khác nào như 
      một quả cầu trong sân chơi, liên tục bị người chơi đánh qua đá lại:
    
      
      “...Tất cả chúng sanh cũng giống như vậy, vì không thấy tánh Phật 
      nên tự tạo nghiệp trói buộc, luân chuyển mãi trong sanh tử, khác nào 
      như trái cầu [bị người chơi đánh qua lại mãi]!” 
      
    
      
      (trang 272, tập V)
    
      
      Theo câu kinh này thì muốn thực sự giải thoát khỏi sanh tử chỉ có 
      một cách duy nhất là phải đạt đến nhận thức chân thật: thấy được 
      tánh Phật. Bởi vì vấn đề được xác định rõ ở đây là “vì không thấy 
      tánh Phật nên tự tạo nghiệp trói buộc, luân chuyển mãi trong sanh 
      tử”. 
    
      
      Trong phần nói về tánh Phật, chúng ta đã thấy được rằng tánh Phật, 
      hay năng lực giải thoát, hay cảnh giới chứng ngộ rốt ráo của Như 
      Lai, là không thuộc về thời gian và không gian. Vì thế, thật ra tánh 
      Phật cũng không thuộc các phạm trù thường hay vô thường, khổ hay 
      vui... Chỉ vì tùy thuận theo sự nhận biết của chúng sanh, muốn khai 
      mở chỗ bế tắc cho những chúng sanh phàm phu còn chưa tự mình thấy 
      được tánh Phật nên đức Phật mới thuyết giảng các ý nghĩa thường, 
      lạc, ngã, tịnh.
    
      
      Do đó, chúng ta sẽ không bao giờ có thể hiểu được vấn đề nếu như ta 
      thực hiện sự “khảo cứu” của mình một cách máy móc theo kiểu đặt khái 
      niệm thường ở một phía và khái niệm vô thường ở phía ngược lại rồi 
      so sánh tính hợp lý hay bất hợp lý của chúng. Cách làm tưởng như rất 
      “logic” này thật ra là hết sức khôi hài và chắc chắn không mang lại 
      bất cứ kết quả nào khi tìm hiểu về những vấn đề trong Phật pháp nói 
      chung, và về những ý nghĩa chúng ta đang xét đến nói riêng. Tuy 
      nhiên, nếu không có được chút kinh nghiệm tu tập nào trong Phật pháp 
      thì đây sẽ là cách thức duy nhất mà các học giả có thể làm khi 
      nghiên cứu về giáo pháp của đức Phật. 
    
      
      Giáo pháp của đức Phật là giáo pháp dành cho những ai thực sự hành 
      trì và tự chứng nghiệm. Đức Phật đã thuyết giảng các lẽ vô thường, 
      khổ, vô ngã, bất tịnh để dẫn dắt chúng sanh trong sự tu tập hướng 
      đến giải thoát, thì giờ đây khi ngài thuyết giảng các lẽ thường, 
      lạc, ngã, tịnh trong kinh Đại Bát Niết-bàn này cũng vẫn là đi theo 
      con đường duy nhất đó, con đường hướng đến sự giải thoát rốt ráo 
      khỏi sanh tử luân hồi.
    
      
      Từ đó chúng ta có thể hiểu được rằng không hề có sự mâu thuẫn giữa 
      các phần giáo pháp được chứa đựng trong những lớp vỏ ngôn ngữ tưởng 
      chừng trái ngược nhau, không thể cùng tồn tại như thường với vô 
      thường, khổ với lạc, ngã với vô ngã, tịnh với bất tịnh.
    
      
      Đức Phật giảng giải về sự tu tập chân chánh theo các pháp thường, 
      lạc, ngã, tịnh như sau:
    
      
      “Ngã là nghĩa Phật; thường là nghĩa Pháp thân, lạc là nghĩa 
      Niết-bàn, tịnh là nghĩa pháp.
    
      
      “... ... 
    
      
      “Khổ cho là vui, vui cho là khổ, đó là pháp điên đảo.
    
      
      “Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường, đó là pháp điên 
      đảo.
    
      
      “Vô ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã, đó là pháp điên đảo.
    
      
      “Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh, đó là pháp điên đảo.
    
      
      “Người nào có bốn pháp điên đảo như vậy là không biết tu tập các 
      pháp một cách chân chánh.   
        
    
      
      (trang 251-252, tập I)
    
      
      Như vậy, vấn đề ở đây không phải là sự thuyết dạy lẽ thường để bác 
      bỏ vô thường, ngã để bác bỏ vô ngã... mà điểm quan trọng chính là 
      người tu tập phải nhận biết một cách chân thật về tính chất của các 
      pháp khác nhau, phải biết phân biệt được giữa những gì thực sự là 
      thường tồn với những gì là vô thường, giả tạm, cũng như những gì 
      thực sự là khổ não, những gì là an lạc... Nếu người tu tập đạt được 
      sự thấy biết phân biệt chân chánh như vậy mới gọi là dứt trừ được 
      các pháp điên đảo.
    
      
      Và để giải thích rõ sự phương tiện tùy thuận thuyết pháp qua từng 
      giai đoạn khác nhau, đức Phật dẫn câu chuyện một vị lương y trước đó 
      đã từng tâu xin vua cấm hẳn việc dùng sữa làm thuốc, rồi sau lại 
      khuyên chính đức vua ấy dùng sữa để trị bệnh. Tuy vậy, quyết định 
      thích hợp của ông ta trong từng trường hợp, dù là cấm dùng sữa hay 
      khuyên dùng sữa đều đã mang lại kết quả tốt đẹp, trị dứt được bệnh 
      tật. Sau đó, đức Phật kết luận:
    
      
      “... Đức Như Lai ở trong pháp Phật mà thuyết dạy là vô ngã. Vì điều 
      phục chúng sanh, vì biết lúc thích hợp, nên nói pháp vô ngã như vậy. 
    
      
      “Khi đủ nhân duyên lại thuyết pháp hữu ngã. Như vị lương y kia, biết 
      rành tính chất của sữa, cũng là thuốc mà cũng không phải là thuốc, 
      không giống như chỗ những kẻ phàm phu suy lường cái ngã mà ta thuyết 
      dạy. 
    
      
      “... ...  
    
      
      “Cho nên Phật dạy rằng: Các pháp là vô ngã, nhưng thật chẳng phải vô 
      ngã. Thế nào là thật? Nếu như có pháp là chân thật, là thường tồn, 
      là chủ tể, là chỗ nương theo, bản tánh không thay đổi, đó gọi là 
      ngã.” 
    
      
      (trang 260-261, tập I)
    
      
      Pháp chân thật, thường tồn ở đây chính là cảnh giới giải thoát rốt 
      ráo của Như Lai mà đức Phật đang hết lòng thuyết dạy để dẫn dắt 
      chúng sanh đi đến. Vì thế, dù là “vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh” 
      hay “thường, lạc, ngã, tịnh” cũng đều là những phương thuốc linh 
      diệu mà bậc Đại Y vương đã vì liệu trị cho tất cả chúng sanh bệnh 
      khổ nên mới tùy phương tiện dùng đến.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.105 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn. 
 
  Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
  Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
 Viên Hiếu Thành
 Viên Hiếu Thành  Huệ Lộc 1959
 Huệ Lộc 1959  Bữu Phước
 Bữu Phước  Chúc Huy
 Chúc Huy  Minh Pháp Tự
 Minh Pháp Tự  minh hung thich
 minh hung thich  Diệu Âm Phúc Thành
 Diệu Âm Phúc Thành  Phan Huy Triều
 Phan Huy Triều  Phạm Thiên
 Phạm Thiên  Trương Quang Quý
 Trương Quang Quý  Johny
 Johny  Dinhvinh1964
 Dinhvinh1964  Pascal Bui
 Pascal Bui  Vạn Phúc
 Vạn Phúc  Giác Quý
 Giác Quý  Trần Thị Huyền
 Trần Thị Huyền  Chanhniem Forever
 Chanhniem Forever  NGUYỄN TRỌNG TÀI
 NGUYỄN TRỌNG TÀI   KỲ
 KỲ  Dương Ngọc Cường
 Dương Ngọc Cường  Mr. Device
 Mr. Device  Tri Huynh
 Tri Huynh  Thích Nguyên Mạnh
 Thích Nguyên Mạnh  Thích Quảng Ba
 Thích Quảng Ba  T TH
 T TH  Tam Thien Tam
 Tam Thien Tam  Nguyễn Sĩ Long
 Nguyễn Sĩ Long   caokiem
 caokiem  hoangquycong
 hoangquycong  Lãn Tử
 Lãn Tử  Ton That Nguyen
 Ton That Nguyen  ngtieudao
 ngtieudao  Lê Quốc Việt
 Lê Quốc Việt  Du Miên
 Du Miên  Quang-Tu Vu
 Quang-Tu Vu  phamthanh210
 phamthanh210  An Khang 63
 An Khang 63  zeus7777
 zeus7777  Trương Ngọc Trân
 Trương Ngọc Trân  Diệu Tiến ... ...
 Diệu Tiến ... ...