Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)

Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh [妙法蓮華經] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh [妙法蓮華經] »» Bản Việt dịch quyển số 1

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Việt dịch (3) » Việt dịch (4) » English version (1) » English version (2) » Nguyên bản Sanskrit » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.67 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.98 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 7 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Dẫn nhập



Kinh Diệu pháp liên hoa, hay kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh phổ biến nhất đối với Phật tử Việt Nam. Đặc biệt, phẩm Phổ môn trong kinh này đã được đưa vào nghi thức tụng niệm hằng ngày ở nhiều tự viện. Phẩm Phổ môn cũng được gọi là kinh Cầu an, được người Phật tử tụng niệm tại tư gia mỗi khi muốn tìm cầu sự bình an trong cuộc sống. Hình tượng “Quán Âm cứu khổ” xuất phát từ phẩm kinh này từ lâu đã thâm nhập sâu xa trong tâm tưởng của nhiều người Phật tử.

Bản Phạn văn của kinh Pháp hoa được truyền đến nước ta từ rất sớm và được dịch sang Hán ngữ vào khoảng tháng 7 năm 256. Điều này được ghi chép trong nhiều tài liệu Trung Hoa, nhưng dường như có ít người Việt Nam biết đến. Mặc dù bản dịch Hán ngữ sớm nhất này đã mất, nhưng việc lưu hành ở nước ta từ thời điểm đó chắc hẳn cũng đã tạo ra ít nhiều ảnh hưởng đối với niềm tin của người Việt. Đây có thể là một trong những hạt giống ban sơ được gieo trồng để về sau kinh Pháp hoa dễ dàng được đón nhận và lưu hành rộng rãi tại nước ta.

Từ khi chữ quốc ngữ được sử dụng, sự lưu hành bản Hán ngữ của kinh này đã dẫn đến nhu cầu Việt dịch và kinh văn đã được Việt dịch từ khá sớm. Tuy nhiên, việc nhận hiểu ý nghĩa kinh văn không hề dễ dàng, do đó mà trong nhiều thập kỷ qua, những bản Việt dịch khác nhau vẫn tiếp nối ra đời, đóng góp ngày càng phong phú hơn cho sự tìm hiểu cũng như tu tập hành trì bộ kinh này. Bản Việt dịch lần này của chúng tôi cũng là một trong những nỗ lực đóng góp như vậy.

1. Các bản dịch sang Hán ngữ

Sách Pháp hoa truyền ký[1] ghi nhận có 6 bản dịch kinh Pháp hoa sang Hán ngữ được biết đến sau đây, nhưng trong số đó có 3 bản đã mất hẳn.

  1. Bản dịch sớm nhất được Nội điển lục và một số mục lục kinh điển khác ghi nhận có tên là Pháp hoa tam-muội kinh (法華三昧經), gồm 6 quyển, đã mất, được một vị tăng ngoại quốc (có lẽ người Ấn Độ) là Chi-cương-lương-tiếp[2] mang theo Phạn bản đến Giao Châu (tức Việt Nam vào thời đó) và chuyển dịch vào tháng bảy, niên hiệu Cam Lộ nguyên niên (256) của Tào Mao nhà Ngụy, thời Tam quốc của Trung Hoa, có sa-môn Đạo Hinh (道馨) giữ việc bút thụ.[3]
  2. Niên hiệu Thái Thủy nguyên niên (265) đời Tấn Vũ Đế triều Tây Tấn, ngài Pháp Hộ[4] mang Phạn bản từ Ấn Độ đến Trung Hoa, dịch kinh này thành 6 quyển, gọi tên là Tát-vân Phân-đà-lợi kinh. Bản dịch này đã mất.
  3. Niên hiệu Thái Khang thứ bảy (286) đời Tấn Vũ Đế, cũng chính ngài Pháp Hộ lại dùng Phạn bản đó để dịch ra bản kinh đầy đủ hơn, gồm 10 quyển, gọi tên là Chánh pháp hoa kinh.[5]
  4. Niên hiệu Hàm Khang nguyên niên (335) đời Tấn Thành Đế, ngài Chi Đạo Lâm dịch kinh này với tên là Phương đẳng Pháp hoa kinh,[6] gồm 6 quyển. Bản dịch này đã mất.
  5. Niên hiệu Hoằng Thủy thứ bảy (405) vua Diêu Hưng, Hậu Tần,[7] ngài Cưu-ma-la-thập[8] mang Phạn bản kinh này đến Trường An, ngụ tại Tiêu Dao viên và dịch sang Hán ngữ với tên kinh là Diệu Pháp liên hoa kinh, gồm 7 quyển.[9]
  6. Niên hiệu Nhân Thọ nguyên niên (601) đời Tùy Văn Đế, hai vị Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa soạn lại, đặt tên kinh này là Thiêm phẩm Diệu pháp liên hoa kinh.[10] Theo chính lời tựa của bản kinh này thì đây không phải do hai vị này dịch mới toàn kinh, mà họ chỉ đối chiếu, chỉnh sửa và bổ sung cho các bản trước đây của Pháp Hộ và Cưu-ma-la-thập. Trong thực tế so sánh thì hầu hết các phần văn dịch của ngài Cưu-ma-la-thập đều được sao chép lại nguyên vẹn.
Về 6 bản kinh này, có vài điểm đáng lưu ý.

Thứ nhất là trong Đại Chánh tạng hiện có một bản dịch trùng tên với bản dịch thứ nhất, Phật thuyết Pháp hoa tam-muội kinh (佛說法華三昧經). Bản dịch này chỉ có một quyển, do Trí Nghiêm dịch vào đời Tống, nội dung hoàn toàn khác với kinh Pháp hoa.[11] Tuy nhiên, giáo sư Nguyễn Lang trong sách Việt Nam Phật giáo sử luận, khi viết về Chi-cương-lương-tiếp đã nhầm lẫn nên trích dẫn một bài kệ từ kinh này nhưng lại cho là ở trong bản dịch của Chi-cương-lương-tiếp. Bài kệ trích dẫn gồm 8 câu như sau:

Trong pháp thân có tất cả các pháp,
tất cả đều huyễn hóa biến hiện khi nổi khi chìm
các pháp phiền não như dâm, nộ và si thực ra đều vô hình vô thể
cũng như các bọt bèo hiện trên mặt nước

nên quan sát thân ta và mọi hiện tượng
như an trú nơi tịnh diệt vô hình
Chúng được thành lập do sự hội hợp và ly tan
nếu phân biệt kỹ lưỡng, thì sẽ thấy rõ bản tính của chúng là không”.[12]

Nguyên tác Hán văn những câu này là:

法身有一切,
化幻現沈浮
婬怒癡無形,
如水現泡沫。

Pháp thân hữu nhất thiết,
Hóa huyễn hiện trầm phù,
Dâm nộ si vô hình,
Như thủy hiện bào mạt.

觀察人身物,
如滅無形住 ,
離散合自成,
分別 計皆空。

Quán sát nhân thân vật,
Như diệt vô hình trụ.
Ly tán hợp tự thành,
Phân biệt kế giai không.

Như vậy, bài kệ này có nguồn gốc rõ rệt, nằm trong một bản kinh hiện nay vẫn còn trong Đại Chánh tạng.[13] Sai lầm này rất khó hiểu vì ngay trước đó giáo sư cho biết: “Bản dịch kinh Pháp Hoa Tam Muội đã mất vào trước 730.” Nhưng dù trích dẫn một bộ kinh đã mất, Giáo sư lại không cho biết đã trích dẫn từ đâu. Và khó hiểu hơn nữa là Giáo sư lại dựa vào nội dung trích dẫn sai lầm này để đưa đến một câu kết luận mang tính xác quyết: “Như thế Chi Cương Lương Tiếp cũng thuộc hệ phái Phật Giáo đại thừa và cũng có khuynh hướng Thiền học.”[14]

Theo những gì chúng tôi đã trích dẫn trên thì kinh Pháp hoa tam-muội do Trí Nghiêm dịch không liên quan gì đến kinh Pháp hoa, cũng không liên quan gì đến ngài Chi-cương-lương-tiếp, nên không thể phán xét về vị này theo cách như vậy.

Điểm đáng lưu ý thứ hai là trong Đại Chánh tạng hiện có một bản kinh tên Tát-đàm Phân-đà-lợi,[15] 1 quyển, dịch vào đời Tây Tấn, mất tên người dịch. So sánh với tên bản kinh thứ hai là Tát-vân Phân-đà-lợi thì có vẻ như cả hai đều được phiên âm từ tên Phạn ngữ là Saddharma-puṇḍarīka, cũng chính là tên kinh Pháp hoa. Ngoài ra, trong tên kinh Tát-vân Phân-đà-lợi (薩芸芬陀梨法華經), chữ vân (芸) cũng có một cách viết là 雲, rất gần với chữ 曇 (đàm), nên có thể trong việc sao chép đã có sự nhầm lẫn giữa tát-đàm (薩曇) và tát-vân (薩雲), để chỉ cùng một bộ kinh. Hơn nữa, nội dung bản kinh này lại tương tự như phẩm Đề-bà-đạt-đa trong kinh Pháp hoa, do vậy rất đáng ngờ rằng đây là một phần còn sót lại của kinh Tát-vân Phân-đà-lợi (6 quyển). Tuy nhiên, suy đoán này cần được kiểm chứng thêm.

Nói tóm lại, từ năm 256 đến năm 601, trong khoảng 350 năm, chúng ta được biết là đã có 6 bản dịch kinh Pháp Hoa sang Hán ngữ lần lượt ra đời. Đến nay đã mất đi 3 bản, còn lại 3 bản, đều được thu thập vào Đại Chánh tạng ở Tập 9, các kinh số 262, 263 và 264.

2. Các bản giảng luận kinh Pháp hoa

Kinh Pháp hoa là bộ kinh có sức ảnh hưởng rất sâu rộng. Do vậy, trải qua lịch sử truyền thừa đã có rất nhiều bản văn giảng luận ra đời, cũng như nhiều bậc thầy đã trực tiếp giảng giải kinh này.

Bản giảng luận đầu tiên phải kể đến là luận giải của Bồ Tát Thế Thân[16] soạn bằng Phạn ngữ. Ngài Thế Thân viên tịch năm 396 nên niên đại của luận giải này không thể muộn hơn. Nguyên bản Phạn ngữ đã mất hẳn, hiện chỉ còn hai bản Hán dịch là Diệu pháp liên hoa kinh Ưu-ba-đề-xá[17] và Diệu pháp liên hoa kinh luận Ưu-ba-đề-xá.[18] Khi so sánh văn bản, tuy bản thứ nhất được chia thành hai quyển, bản thứ hai chỉ có một quyển, nhưng dung lượng gần như tương đương nhau. Nội dung cũng tương đồng, chỉ khác biệt về cách diễn đạt. Do vậy, có thể sử dụng cả hai bản dịch này để bổ sung cho nhau.

Bản luận này giải thích khá kỹ các phẩm đầu tiên như phẩm Tựa, phẩm Phương tiện, phẩm Thí dụ... Các phẩm về sau được giải thích theo cách nêu ý đại lược, không giảng giải chi tiết. So sánh theo cấu trúc thì có vẻ như bản kinh văn được sử dụng cho luận giải này khá tương tự với bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Điều này góp phần củng cố suy đoán rằng Phạn bản của ngài Cưu-ma-la-thập tuy được chuyển dịch về sau nhưng gần với Phạn bản ban đầu hơn bản được sử dụng bởi ngài Pháp Hộ.

Về giảng luận của các bậc thầy Trung Hoa, nổi bật nhất có Pháp hoa tam đại bộ (法華三大部) của Đại sư Trí Khải, được xem là người khai sáng tông Thiên Thai.[19] Bộ sách này được dùng như giáo thuyết chính yếu của tông Thiên Thai, cũng gọi là Thiên Thai tam đại bộ (天台三大部). Các sách này không do Đại sư Trí Khải trực tiếp biên soạn, mà do học trò là Quán Đảnh (灌頂) thu thập và ghi chép lại những lời giảng của ngài, bao gồm:

- Diệu pháp liên hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義), 20 quyển.[20]

- Diệu pháp liên hoa kinh văn cú (妙法蓮華經文句), 10 quyển.[21]

- Ma-ha chỉ quán (摩訶止觀), 10 quyển.[22]

Trong Tam đại bộ vừa kể trên, Diệu pháp liên hoa kinh huyền nghĩa giảng sâu vào đề kinh và giáo tướng, nêu rõ những ý nghĩa huyền diệu của kinh Pháp hoa. Diệu pháp liên hoa kinh văn cú, cũng gọi là Pháp hoa văn cú, giảng giải sát từng đoạn kinh văn theo bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Những nội dung giảng giải này được diễn đạt vô cùng súc tích, đối với những ai chưa có nền tảng Phật học sâu xa thì rất khó nhận hiểu. Do vậy, ngài Trạm Nhiên (711-782) vào đời Đường đã biên soạn sách Pháp hoa văn cú ký (法華文句記)[23] để giảng rộng thêm ý nghĩa của Pháp hoa văn cú. Cuối cùng, Ma-ha chỉ quán là bộ sách giảng về pháp quán tâm theo kinh Pháp hoa. Tông Thiên Thai lấy kinh Pháp hoa làm tông chỉ và xem những bộ sách này là quan trọng nhất.

Ngoài ra, các bậc thầy Trung Hoa cũng biên soạn rất nhiều bản văn giảng giải khác, dưới đây chỉ kể ra một số bản văn tiêu biểu được nhiều người biết đến:

- Diệu pháp liên hoa kinh sớ (妙法蓮花經疏), 2 quyển, Trúc Đạo Sinh (355-434) soạn.[24]

- Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏), 12 quyển, Cát Tạng (549-623) soạn.[25]

- Pháp hoa kinh nghĩa ký (法華經義記), 8 quyển, Pháp Vân (467-529) soạn.[26]

- Pháp hoa huyền nghĩa thích tiêm (法華玄義釋籤), 20 quyển, Trạm Nhiên soạn.[27]

3. Vấn đề Phạn bản và các bản dịch ở phương Tây

Sau khi kinh Pháp hoa được dịch sang Hán ngữ, các Phạn bản đã dùng để dịch đều thất lạc. Với thời gian trôi qua, việc tìm lại Phạn bản ngày càng thêm khó khăn. Trong thực tế, Phạn bản kinh này cũng không còn tại Ấn Độ.

Khoảng giữa thế kỷ 19, một người Anh là Brian Houghton Hodgson (1801-1894) đến làm việc ở Nepal. Ông là một trong những người châu Âu đầu tiên quan tâm đến các Phạn bản kinh điển Phật giáo. Hodgson đã sưu tầm được nhiều thủ bản bằng Phạn ngữ từ các tự viện ở Nepal. Năm 1837, ông gửi một số các Phạn bản này cho Hội Á châu học Paris,[28] trong đó có Phạn bản kinh Pháp hoa (Saddharmapuṇḍarīka-sūtra).

Bản kinh này đã đến tay Eugène Burnouf (1801-1852), một người Pháp và là một trong những học giả tiên phong của ngành Ấn Độ học và Phật học tại châu Âu vào thời đó. Burnouf đã chuyển dịch bản Phạn ngữ sang tiếng Pháp với tên là Le Lotus de la Bonne Loi. Vào khoảng giữa năm 1852, ông quyết định xuất bản bản dịch này. Khi việc in ấn đã gần hoàn tất thì ông đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh. Theo thông tin từ bản in năm 1852, Burnouf đã không kịp viết Lời nói đầu cho bản dịch như dự tính.[29]

Phạn bản do Hodgson sưu tầm được các nhà nghiên cứu đánh giá là một bản sao chép muộn, có thể vào khoảng thế kỷ 11-13. Kinh văn chép trên lá bối, có hư rách nhiều nơi nên Burnouf phải tự đối chiếu, suy đoán để khôi phục văn bản trong suốt quá trình dịch, và thực tế cũng có nhiều nơi không thể suy đoán chắc chắn. Tuy nhiên, đây dường như là Phạn bản sớm nhất của kinh Pháp hoa được biết đến và chuyển dịch để giới thiệu ở phương Tây.

Theo Haruaki Kotsuki, vào năm 1903 có một viên lãnh sự Nga là Nikolay F. Pe-trovsky (1837-1908) mua được một Phạn bản kinh Pháp Hoa tại Kashgar, được cho là đã phát hiện ở gần Khotan. Các Phạn bản này được ước đoán có niên đại sao chép vào khoảng thế kỷ 9-10, nhìn chung tuy bảo tồn được một phần kinh văn nhưng không đủ để khôi phục toàn văn. Các nhà nghiên cứu gọi đây là Phạn bản Trung Á. Phạn bản mà ngài Cưu-ma-la-thập đã sử dụng có nhiều khả năng thuộc nhóm Phạn bản này.[30]

Vào thập niên 1930, một số Phạn bản kinh Pháp hoa được phát hiện tại một địa điểm gần Gilgit ở Kashmir,[31] nhưng chỉ là một số phần rời rạc. Các Phạn bản này được ước đoán niên đại sao chép vào khoảng thế kỷ 7. Các Phạn bản này không đồng nhất, được phân thành các nhóm khác nhau và bị mất mát nhiều nên cũng không đủ để khôi phục bản kinh. Nhóm Phạn bản này được gọi là Phạn bản Gilgit.

Nhóm Phạn bản tìm được ở Nepal và nhóm Gilgit có vẻ gần gũi, tương đồng với nhau, trong khi nhóm Phạn bản Trung Á khác biệt khá nhiều. Các nhà nghiên cứu đã nỗ lực để tái tạo một bản hoàn thiện hơn từ các bản tìm được ở Nepal và Gilgit.[32] Kết quả tiên phong của những nỗ lực này là công trình của Hendrik Kern (1833-1917) và Bunyiu Nan-jio (1849-1927). Kern là người Hà Lan, giáo sư Phạn ngữ Đại học Leiden, trong khi Nanjio là một tăng sĩ, học giả người Nhật sang châu Âu học tập. Công trình được Imperial Academy of Sciences (Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia) xuất bản năm 1884 tại Nga. Đây là Phạn bản đầu tiên của kinh Pháp hoa được công bố trọn vẹn.

Như vậy, những hiểu biết về Phạn bản kinh Pháp hoa cho đến nay đã củng cố nhận định trước đây về khác biệt giữa các Phạn bản được ngài Cưu-ma-la-thập và Pháp Hộ sử dụng, đồng thời cũng xác định bản được ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng có khả năng là bản cổ xưa hơn, gần với nguyên bản hơn.

Cũng trong năm 1884, Hendrik Kern đã xuất bản kinh Pháp hoa dịch sang Anh ngữ dựa trên Phạn bản vừa thực hiện. Bản dịch Anh ngữ này được cho là có độ chuẩn xác cao hơn bản dịch Pháp ngữ của Burnouf nhờ dựa trên một Phạn bản hoàn thiện hơn. Đồng thời, trong quá trình chuyển dịch Kern cũng đã tham khảo bản dịch Pháp ngữ để tiếp thu những thành quả trước đó của Burnouf và nhìn ra những thiếu sót để điều chỉnh tốt hơn. Sau khi xuất bản năm 1884, bản dịch này được tái bản rất nhiều lần. Chỉ riêng nhà xuất bản Motilal Banarsidass tại Delhi, Ấn Độ đã tái bản vào các năm 1965, 1968, 1974 và 1980.[33]

Trong Lời nói đầu viết cho bản dịch của mình, Kern cũng bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Ông thừa nhận các khác biệt có thể là đại diện cho nhóm Phạn bản Trung Á so với nhóm Phạn bản Nepal-Gilgit, nhưng đồng thời cũng đặt nghi vấn về việc liệu điều này có phải do ngài Cưu-ma-la-thập vì muốn cho bản dịch rõ ràng mạch lạc mà đã không bám sát Phạn bản hay chăng?[34] Câu hỏi này sẽ không thể trả lời được trừ phi các nhà nghiên cứu có thể thành công trong những nỗ lực hiện nay để phục hồi một Phạn bản nguyên vẹn từ các phần rời rạc được tìm thấy ở Trung Á.

Dù vậy, với các bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp, cùng với Phạn bản đã được công bố, các học giả phương Tây đã có đủ điều kiện để tiến hành nhiều nghiên cứu tìm hiểu về kinh Pháp hoa. Các học giả, dịch giả phương Tây tiếp tục cho ra đời nhiều bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy nhiên, cho đến nay hầu hết vẫn dựa trên những thành tựu ban đầu của Burnouf và Kern cùng với bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập là chủ yếu. Do vậy, ngoài một số khám phá nhỏ được đưa ra trong mỗi công trình, chúng ta chưa thấy được những phát kiến mới mang tính đột biến.

Những hiểu biết về kinh Diệu pháp liên hoa cho đến hiện nay, thông qua các Phạn bản và bản dịch đã có, có thể nói chung là “đại đồng tiểu dị”. Tuy có một số khác biệt nhỏ giữa các nhà nghiên cứu cũng như giữa các bản dịch, nhưng về tổng thể thì ý nghĩa toàn bộ kinh văn vẫn có thể được nhận hiểu rất tương đồng.

4. Khảo sát một số vấn đề về kinh Pháp hoa

Trong số ba bản Hán dịch hiện còn của kinh Pháp hoa, bản Thiêm phẩm có một lời tựa không dài lắm nhưng cung cấp nhiều thông tin rất quý giá.[35] Lời tựa được viết vào niên hiệu Nhân Thọ nguyên niên (601), đời Tùy Văn Đế, gần 200 năm sau khi ngài Cưu-ma-la-thập dịch kinh Diệu pháp liên hoa, có thể xem là ghi chép khảo cứu sớm nhất về các bản dịch kinh Pháp hoa. Do vậy, việc khảo sát các bản dịch kinh Pháp hoa nên được bắt đầu từ các nhận xét được ghi lại trong lời tựa này.

Người viết lời tựa có vẻ như tham gia trong nhóm tổ chức công việc này và cũng tự mình làm công việc khảo cứu, so sánh các bản dịch, nhưng lại không ghi tên khi viết lời tựa. Lời tựa cho biết, sau khi khảo sát đã xác định được là Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoa dịch từ 2 Phạn bản khác nhau. Người viết cũng xác nhận chính mình đã đọc qua cả 2 Phạn bản, thấy rằng bản dịch Chánh pháp hoa tương ứng với Phạn bản chép trên lá đa-la, và bản dịch Diệu pháp liên hoa phù hợp với Phạn bản Quy Tư.

Phạn bản Quy Tư nghĩa là mang đến từ Quy Tư (龜茲). Tuy nhiên, Hòa thượng Thích Trí Quang trong Lời dẫn cho bản dịch của mình đặt nghi vấn “tài liệu này không nói rõ là Phạn văn lưu hành ở Quy Tư hay là văn tự Quy Tư”.[36] Hendrik Kern khi xử lý thông tin này thì nhận hiểu là “in the letters of Kwei-tsz” (bằng chữ viết của Quy Tư).[37] Tuy nhiên, điều này không đúng. Vì trong Tây vực ký, nước Quy Tư được gọi là nước Khuất-chi (屈支), và khi ngài Huyền Trang đi qua đây có xác nhận rằng nước này sử dụng Phạn ngữ,[38] không có chữ viết riêng.

Cũng theo lời tựa này, các bản dịch Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoa đều có thiếu sót khi so sánh với Phạn bản. Các phần thiếu sót được kể ra như sau:

- Chánh pháp hoa không có phần kệ trong phẩm Phổ môn.[39]

- Diệu pháp liên hoa thiếu nửa sau phẩm Dược thảo dụ; thiếu phần đầu của cả 2 phẩm Phú-lâu-na[40] và phẩm Pháp sư; thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa và phần kệ trong phẩm Phổ môn.

- Diệu pháp liên hoa dời phẩm Chúc lụy ra trước phẩm Dược Vương.[41]

- Cả 2 bản đều đặt phẩm Đà-la-ni sau phẩm Phổ môn.[42]

Với độ tuổi ra đời cách đây hơn 14 thế kỷ, những thông tin trong Lời tựa của Thiêm phẩm có giá trị xác chứng rất cao nhưng cũng làm phát sinh một số nghi vấn cần được khảo chứng thêm, như chúng tôi sẽ trình bày dưới đây:

Thứ nhất, việc Lời tựa này xác định ngay từ đầu rằng Chánh pháp hoa và Diệu pháp liên hoa đã sử dụng hai Phạn bản khác nhau là một xác chứng quan trọng. Điều này hoàn toàn tương hợp với suy đoán của nhà nghiên cứu Haruaki Kotsuki như đã dẫn trong phần trước. Ngoài ra, H. Kern khi phục hồi Phạn bản Nepal-Gilgit cũng xác định rằng nhóm Phạn bản Trung Á có nhiều khác biệt và có thể cổ xưa hơn. Ông còn đi xa hơn khi suy đoán rằng nguyên bản trước đó nữa có thể chỉ dừng lại ở phẩm Chúc lụy và những phẩm từ đó về sau đã được thêm vào.[43] Tất nhiên, nhận xét này chỉ mang tính tham khảo.

Thứ hai, Lời tựa này không xác định trong các bản Phạn văn đã sử dụng thì bản nào có trước. Có thể hiểu là điều này ngoài khả năng của những người soạn Thiêm phẩm vào thời đó. Nhưng khi không có căn cứ về niên đại sớm muộn thì sự khác biệt có thể hiểu theo cả hai cách trái ngược nhau, vì bản của ngài Cưu-ma-la-thập có thể cho là thiếu nhưng ngược lại thì bản đối chiếu cũng có thể xem là thừa, do sự thêm thắt của người đời sau. Điều này chỉ có thể xác định khi biết chắc về niên đại của cả hai bản. Do vậy, những điểm mà Lời tựa nêu ra cho rằng “thiếu” thì cũng hoàn toàn có thể là do Phạn bản dùng để đối chiếu đã bị “thừa”.

Thứ ba, việc Lời tựa này cho rằng bản của ngài Cưu-ma-la-thập thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa gợi lên một số điểm nghi vấn. Sách Pháp hoa văn cú ghi lại nội dung trong quyển 8 giải thích điều này: “Vào thời ấy kinh này có 28 phẩm, vì cung nhân trong cung Trường An thỉnh riêng phẩm Đề-bà-đạt-đa này lưu giữ trong nội cung, nên khi lưu truyền đến Giang Đông chỉ còn 27 phẩm, không có phẩm này.”[44] Tuy nhiên, Pháp hoa văn cú cũng cho biết là phẩm kinh này sau đó đã tìm lại được và bổ sung vào như chúng ta thấy hiện nay, nghĩa là đủ 28 phẩm: “Đến đời Trần, thiền sư Nam Nhạc xếp phẩm này ngay sau phẩm Hiện tháp báu. Về sau, đối chiếu với kinh Chánh Pháp hoa thì hoàn toàn tương hợp. Ngày nay thiên hạ thống nhất, tìm lại được bản dịch cũ ở Trường An thấy sắp xếp đúng như vậy, nên mới biết 2 bậc thầy nói trên đều hiểu sâu ý kinh.”[45]

Như vậy, theo sách Pháp hoa văn cú thì bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập không bị thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa, mà đây là một sự cố bị thất lạc ngay sau khi dịch. Có lẽ chính vì điều này nên Diệu pháp liên hoa kinh sớ do Trúc Đạo Sinh, một đệ tử lớn của ngài Cưu-ma-la-thập biên soạn, đã liệt kê kinh Pháp hoa chỉ có 27 phẩm, thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa.[46] Tuy nhiên, như trên đã nói, khi sách Pháp hoa văn cú ra đời thì phẩm kinh này đã được đưa trở lại vào kinh Pháp hoa, và phần giảng giải của Pháp hoa văn cú có bao gồm phẩm này. Vậy câu hỏi đặt ra là, ai đã đưa phẩm Đề-bà-đạt-đa trở lại vào kinh Pháp hoa và vào lúc nào? Nếu là trước khi Thiêm phẩm viết Lời tựa (601), thì tại sao Lời tựa cho rằng thiếu phẩm này? Nếu là sau, thì tại sao nội dung phẩm này thêm vào trong bản Thiêm phẩm lại cũng chính xác là bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, mà không phải là do hai vị Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa dịch mới để thêm vào như phần kệ của phẩm Phổ môn?

Ở đây có thể suy đoán hai điều. Thứ nhất, nếu phẩm Đề-bà-đạt-đa đã được thêm vào kinh Diệu pháp liên hoa trước thời điểm viết Lời tựa của Thiêm phẩm, thì có thể những người soạn Thiêm phẩm vẫn chưa có được bản kinh đầy đủ đó, mà đang sử dụng một bản sao chép từ trước. Thứ hai, có thể những người soạn Thiêm phẩm đã có được phẩm Đề-bà-đạt-đa lúc đó lưu thông ở dạng biệt hành, nên mới sử dụng nội dung để đưa vào Thiêm phẩm. Do vậy, ngày nay chúng ta so sánh thấy rõ phần thêm vào Thiêm phẩm ở sau phẩm Hiện bảo tháp hoàn toàn là bản dịch phẩm Đề-bà-đạt-đa của ngài Cưu-ma-la-thập. Nếu suy đoán này đúng thì Lời tựa của Thiêm phẩm đã thiếu sót khi không đề cập đến việc này.

Thứ tư, việc Thiêm phẩm cho rằng phẩm Phổ môn không có phần kệ trùng tụng là đúng, và việc chuyển dịch bổ sung phần kệ trùng tụng này cũng được ghi nhận trong các mục lục, rằng phần kệ này là bản dịch của hai vị Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa. Tuy nhiên, việc không có phần này chưa hẳn là thiếu, vì so với cấu trúc của phẩm Diệu Âm Bồ Tát ngay trước đó cũng không có phần kệ tụng. Cho nên, rất có khả năng đây là cấu trúc ban đầu trong bản Phạn ngữ. Về sau, đã có người thêm phần kệ này vào bản Phạn ngữ và Thiêm phẩm căn cứ phần thêm vào để cho rằng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập bị thiếu.

Thứ năm, việc Thiêm phẩm cho rằng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập thiếu nửa sau của phẩm Dược thảo dụ cũng tương tự như đã nói trên. Rất có thể Thiêm phẩm đã dựa vào một Phạn bản bị thêm vào sau này. Thực tế khảo sát cho thấy phần thêm vào của Thiêm phẩm có nội dung xa rời với tên phẩm này là Dược thảo dụ (Thí dụ cỏ thuốc), trong khi bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập dừng lại rất hợp lý. Đây cũng là một vấn đề tồn nghi cần tiếp tục nghiên cứu thêm.

Thứ sáu, cũng là điểm quan trọng nhất, Thiêm phẩm cho rằng ngài Cưu-ma-la-thập đã “dời phẩm Chúc lụy ra trước phẩm Dược Vương”. Do vậy, trong Thiêm phẩm thì phẩm Chúc lụy đưa về đặt ở cuối bản kinh. Tuy nhiên, vấn đề vị trí của phẩm Chúc lụy có thể được nhìn nhận theo nhiều hướng khác nhau. Cụ thể là Pháp hoa văn cú ký đã dành khá nhiều nội dung để biện luận rằng vị trí phẩm Chúc lụy như trong bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập là hoàn toàn hợp lý. Chúng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề này ở đây, nhưng lưu ý rằng đối với một vấn đề còn đang tranh luận thì nhận xét của Thiêm phẩm cần được xem xét lại.

Ngoài ra, sự khác biệt này cũng nên được nhìn từ góc độ văn bản học. Bản Phạn văn mà ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng có nhiều khả năng đã cấu trúc các phẩm theo đúng như vậy, bởi nếu không có một nguyên do rõ rệt nào thì người dịch sẽ không cần thay đổi vị trí các phẩm kinh. Vì nhiều lý do khác nhau, có thể các bản Phạn văn về sau do sai lệch khi sao chép, hoặc do quá trình mất mát, tìm kiếm và lắp ghép, hoặc cũng có thể do một người sao chép nào đó đã dựa theo cách nhận hiểu riêng của mình mà thay đổi vị trí các phẩm kinh. Trong thực tế, ngoài phẩm Chúc lụy thì vị trí phẩm Đà-la-ni cũng có thay đổi và phẩm Đề-bà-đạt-đa bị xóa bỏ, ghép chung vào sau phẩm Hiện bảo tháp. Cũng từ nhận định này, có thể thấy rằng Phạn bản được gọi là bản Quy Tư mà những người soạn Thiêm phẩm dùng để đối chiếu chưa hẳn đã đúng là Phạn bản mà ngài Cưu-ma-la-thập đã sử dụng.

Do những điểm tồn nghi trong lời tựa của Thiêm phẩm như đã trình bày trên, độ tin cậy của bản soạn lại này dường như cũng không thể vượt qua bản dịch ban đầu của ngài Cưu-ma-la-thập.

Ngoài ra, còn có một điểm khác biệt quan trọng giữa bản dịch của Pháp Hộ với bản dịch của Cưu-ma-la-thập mà Thiêm phẩm không nhắc đến. Đó là trong phần mở đầu, Chánh pháp hoa ghi nhận có 1.200 vị tỳ-kheo, trong khi bản Diệu pháp liên hoa ghi là 12.000 vị. Và mặc dù không nêu ra khác biệt này, Thiêm phẩm đã chọn cách giữ lại thông tin theo bản Diệu pháp liên hoa.

Sở dĩ chúng tôi xem đây là khác biệt quan trọng vì có thể tin chắc là ngài Cưu-ma-la-thập đã dịch đúng Phạn bản, và Thiêm phẩm sau khi đối chiếu lại với Phạn bản mà họ có, cũng tiếp tục thừa nhận con số này, tức là 12.000 vị.

Vì Chánh pháp hoa sử dụng một Phạn bản khác, nên chúng ta có thể tin rằng đây không phải là lỗi dịch thuật, mà là sự khác biệt giữa hai Phạn bản. Do vậy, để xác định con số nào là đúng, chúng ta cần xem xét ngay trong nội dung văn bản. Kết quả xem xét cho thấy con số 12.000 không tương hợp với tất cả những vị trí khác trong cùng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Vì khi đề cập đến số lượng các vị A-la-hán thì kinh văn những nơi khác đều ghi là 1.200.

Trước hết, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập ghi: “cùng với chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là bậc A-la-hán”.[47] Như vậy, câu này cho biết cả 12.000 vị “đều là bậc A-la-hán”.

Nhưng trong phẩm Phương tiện nói rằng: “Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị.”[48]

Tiếp theo, trong phẩm Thí dụ nói: “Trong số 1.200 vị đạt tâm tự tại ở đây, thuở xưa khi còn ở bậc hữu học…”[49]

Trong thực tế, sau khi rà soát trong toàn bộ kinh văn, chúng tôi tìm thấy có 6 vị trí nêu số lượng các vị A-la-hán và đều nói là 1.200 vị, trong khi đó không có bất kỳ nơi nào khác nhắc lại con số 12.000 như trong đoạn mở đầu. Do vậy, có phần chắc rằng con số này đã bị nhầm lẫn ngay từ trong Phạn bản được ngài Cưu-ma-la-thập sử dụng.

Tóm lại, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập như được lưu hành hiện nay có khác biệt so với bản lưu hành ban đầu, do những nguyên do đã trình bày ở trên. Khác biệt thứ nhất là được thêm vào (hay trả lại) phẩm Đề-bà-đạt-đa như Pháp hoa văn cú đã giải thích rõ. Khác biệt thứ hai là có thêm phần kệ tụng sau phẩm Phổ môn, có lẽ được lấy từ Thiêm phẩm. Phần kệ tụng thêm vào này làm phong phú thêm cho bản dịch và không ảnh hưởng gì đến những tư tưởng chính được truyền tải trong kinh Pháp hoa.

5. Tư tưởng trong kinh Pháp hoa

Kinh Pháp hoa là bộ kinh được đức Phật thuyết giảng trong giai đoạn về sau, khi cơ duy-ên của thính chúng đã thuần thục. Do vậy, người Phật tử muốn tiếp nhận kinh Pháp hoa cũng cần có sự chuẩn bị học tập, hành trì thích hợp, không chỉ đơn thuần dựa vào việc đọc kinh mà có thể nhận hiểu trọn vẹn được ngay.

Theo hệ thống Ngũ thời bát giáo,[50] tông Thiên Thai xếp kinh Pháp hoa và kinh Đại Bát Niết-bàn vào đệ ngũ thời, tức là giáo pháp được thuyết giảng sau cùng và cũng là rốt ráo nhất. Tuy vậy, cách trình bày tư tưởng rốt ráo của Pháp hoa và Đại Bát Niết-bàn không phải hoàn toàn giống nhau.

Trong kinh Pháp hoa, đức Phật dạy: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.”[51]

Và đức Phật giải thích rõ: “Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sanh khai mở tri kiến Phật để được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sanh thấy được tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sanh thể nhập đạo tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời.”[52]

Như vậy, ở đây đề cập đến “tri kiến Phật” tức là sự thấy biết rốt ráo, là trí tuệ vô thượng; cho nên “thể nhập tri kiến Phật” cũng tức là thành Phật. Hay nói ngắn gọn lại, lời dạy này nêu rõ, chư Phật ra đời chỉ vì một mục đích: dạy chúng sanh thành Phật.

Nhưng muốn thành Phật thì trước hết chúng sanh phải tự mình sẵn có khả năng thành Phật. Như người nông dân gieo hạt, trước hết tự thân hạt giống phải sẵn có khả năng nảy mầm. Nếu hạt giống không có khả năng nảy mầm, chẳng hạn như hạt giống hỏng, thì dù có chăm sóc tưới tẩm bao lâu đi nữa, hạt giống ấy cũng không thể mọc lên thành cây. Cũng vậy, chúng sanh phải tự mình sẵn có tiềm năng thì chư Phật ra đời mới có thể dạy chúng sanh thành Phật. Tiềm năng sẵn có để thành Phật được gọi là tánh Phật, và chính vì thế nên Phật dạy trong kinh Đại Bát Niết-bàn rằng “tất cả chúng sanh đều có tánh Phật”, và kinh Pháp hoa tiếp tục khẳng định: “Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật.”

Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, đức Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, nhưng vì phiền não che lấp nên không thấy được. Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy thấy được pháp cao trổi nhất là tánh Phật, nhưng không biết được Như Lai là pháp thường trụ. Vì vậy nên nói rằng: ‘Hàng Bồ Tát Thập trụ tuy thấy tánh Phật nhưng không thật rõ ràng.’”[53]

Trong kinh Pháp hoa, đức Phật dạy:

“Thậm chí trẻ chơi đùa,
Vun cát làm tháp Phật...
Những trường hợp như thế,
Đều đã thành Phật đạo.”[54]

Lời dạy về tánh Phật trong cả hai kinh đều đúng thật, nhưng với cách trình bày trong kinh Đại Bát Niết-bàn như trên, chúng ta thấy rõ là hướng đến hàng căn cơ nhanh nhạy, vượt trội. Cho đến Bồ Tát Thập trụ mà còn “thấy tánh Phật không thật rõ ràng” thì hạng phàm phu căn cơ thấp kém làm sao có cơ hội được khuyến khích? Trong khi đó, kinh Pháp hoa mở rộng phạm vi đề cập đến bất kỳ nhân lành tu tập nào, một khi đã được thực hiện đều sẽ là nhân dẫn đến việc chúng sanh thành Phật trong tương lai. Thậm chí, chỉ cần biểu lộ sự cung kính Phật bằng cách “niệm một tiếng nam-mô” thì cũng sẽ thành Phật đạo.[55]

Điểm đặc biệt của tư tưởng Pháp hoa chính là ở chỗ dung nhiếp được tất cả chúng sanh vào con đường “học làm Phật” mà chư Phật ra đời để chỉ dạy. Pháp hoa mô tả tiến trình tu tập từ một chúng sanh phàm phu đến quả Phật viên mãn như một con đường dài. Trên con đường đó, có những người tiến bước rất nhanh, có những người chậm chạp lê bước, thậm chí có cả những người thỉnh thoảng phải dừng lại, dậm chân tại chỗ; lại có những người đã đi được rất xa, có người chỉ vừa qua một đoạn ngắn, và cũng có cả những người chỉ mới rụt rè đi những bước đầu tiên, thậm chí có người còn loanh quanh nơi đầu đường quan sát, chưa thực sự bước lên đường.

Bằng cách mô tả như vậy, kinh Pháp hoa không bỏ sót bất kỳ một chúng sanh nào trong phạm vi giáo hóa của Phật, từ những hạng chúng sanh thấp kém tầm thường nhất cho đến những người căn cơ nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt; từ những người chưa phát khởi niềm tin đối với Tam bảo, cho đến hàng Bồ Tát đã đạt giai vị không còn thối chuyển. Tất cả đều cần đến và đều được bình đẳng thọ nhận sự giáo hóa của Phật, không hề phân biệt, giống như cơn mưa lớn tưới đều cho hết thảy cây cỏ, không phân biệt chủng loại hay cao thấp, lớn nhỏ.[56]

Để hiểu rõ tính dung nhiếp của tư tưởng Pháp hoa, cũng cần biết rằng, trước khi Phật thuyết kinh Pháp hoa thì một số kinh Đại thừa khác cũng đã nêu ra hạn chế của quả vị Thanh văn khi so sánh với hàng Bồ Tát. Chẳng hạn như trong kinh Duy-ma-cật, những giới hạn của các vị Thanh văn được nêu ra rất rõ. Một số người còn cho rằng kinh Duy-ma-cật bài xích Tiểu thừa khi xem các vị Thanh văn chỉ là “mầm hư giống hỏng”, không thể thành Phật. Tuy nhiên, đây là một cách hiểu nhầm lẫn vì không xét kỹ văn kinh. Trong kinh Duy-ma-cật, ngài Ca-diếp nói với ngài Xá-lợi-phất: “Tại sao chúng ta lại đoạn tuyệt cội gốc của mình đối với Đại thừa, khiến tự mình như hạt giống hư hỏng?”[57] Như vậy, “mầm hư giống hỏng” không phải là lời Phật nói về Thanh văn, mà là lời tự trách của chính các vị. Điều này cũng lặp lại trong kinh Pháp hoa, khi ngài Xá-lợi-phất tự nói: “Chúng con thật đáng trách, sao tự xem thường mình?” Các vị tự trách vì đã không đủ tự tin vào khả năng thành Phật của chính mình, do vậy chỉ dám theo đuổi mục đích giải thoát phiền não của Tiểu thừa, vốn chưa phải là sự giải thoát rốt ráo, giống như người đi trên đường dài, tuy đã đi được xa nhưng thật sự vẫn chưa đến đích. Và đây cũng chính là vấn đề được đức Phật nêu ra và giải quyết rốt ráo trong kinh Pháp hoa.[58]

Về cách nhận hiểu rằng kinh Duy-ma-cật phê phán, bài xích Tiểu thừa, có thể nhắc đến nhận xét của thầy Nhất Hạnh khi giảng kinh Pháp hoa: “Kinh Duy Ma Cật và những kinh Đại Thừa xuất hiện trước đó, đã dùng những quả trọng pháo rất lớn để bắn vào hàng ngũ của những người Thanh văn. Ngược lại, kinh Pháp Hoa là kinh Đại Thừa đầu tiên sử dụng ngôn từ hòa ái, chấp nhận mọi bộ phái và mọi khuynh hướng ở trong đạo Bụt.”[59]

Trong thực tế, tất cả kinh điển mà đức Phật truyền dạy đều sử dụng ngôn từ hòa ái, không có chuyện ngược lại, càng không thể có việc “dùng những quả trọng pháo rất lớn để bắn vào hàng ngũ của những người Thanh văn”. Cách diễn giải này dễ đưa đến sự hiểu lầm rằng các giáo pháp của đức Phật có sự xung đột, mâu thuẫn nhau. Bởi thật ra thì mọi sự so sánh phân biệt để chỉ ra những hạn chế của hàng Thanh văn đều không nhằm phê phán, chỉ trích, mà chỉ là để khuyến khích hướng đến mục đích cuối cùng là quả Phật. Cho nên, đó hoàn toàn không phải là “sự tấn công” vào “những người Thanh văn”, mà nên hiểu là sự chỉ bày chân thật rốt ráo của đức Phật để đưa tất cả chúng sanh đạt đến quả vị Phật. Trong kinh Pháp hoa, mục đích này cuối cùng đã đạt được qua việc đức Phật thụ ký cho tất cả các vị Thanh văn đều sẽ thành Phật. Do vậy, dù là trong kinh Duy-ma-cật hay bất kỳ kinh Đại thừa nào khác thì việc chỉ rõ sự chưa rốt ráo của hàng Thanh văn cũng đều là cần thiết và mang tính chỉ bày, khích lệ, hoàn toàn không phải là sự công kích, phỉ báng như trong nhận xét sau đây:

“Trong kinh Duy-Ma-Cật, cái địa vị của Thầy Xá Lợi Phất tồi tệ bao nhiêu thì trong kinh Pháp Hoa cái địa vị của Thầy nó quan trọng bấy nhiêu. Trong Duy-Ma-Cật, đối tượng đó là để nhục mạ, trong kinh Pháp Hoa đối tượng đó là để mà săn sóc, thương yêu, để mà đầu tư giáo pháp vào trong tương lai.”[60]

Kinh Pháp hoa mang đến cho người học Phật một cái nhìn bao quát, một cách nhận hiểu đúng đắn và toàn diện về giáo pháp của đức Phật cũng như tiến trình tu tập. Do vậy, sau khi học kinh Pháp hoa, chúng ta sẽ có một cái nhìn cởi mở và đúng thật hơn đối với những kinh điển khác. Dưới ánh sáng soi rọi của Pháp hoa, chúng ta hiểu được rằng tất cả mọi giáo pháp của đức Phật đều cùng hướng đến một mục đích duy nhất là chỉ bày cho chúng sanh con đường đạt đến sự giải thoát rốt ráo, thành tựu quả Phật viên mãn. Điều khác biệt ở đây là, kinh Pháp hoa mở rộng phạm vi giáo hóa đến tất cả mọi tầng lớp, mọi khả năng, từ kém cỏi nhất cho đến thông minh sáng suốt nhất. Trong khi đó, kinh Duy-ma-cật hướng đến một nhóm thính chúng có chọn lọc, không phải dành cho tất cả mọi tầng bậc. Do vậy, từ góc độ phàm phu chúng ta sẽ thấy có vẻ như các vị A-la-hán đang bị “nhục mạ” bằng cách phơi bày chỗ thấp kém của họ, nhưng đối với chính bản thân các vị ấy thì thật ra là họ đang được khai mở để nhìn thấy rõ hơn cảnh giới của hàng Bồ Tát, và xa hơn nữa là biết rằng mình cần phải tiếp tục tu tập cho đến khi thành tựu quả Phật viên mãn.

Xét kỹ về điểm này chúng ta mới có thể nhận hiểu và thấy rõ được tính bao quát và trọn vẹn của tư tưởng trong kinh Pháp hoa.

Nói rằng tư tưởng của Pháp hoa là bao quát, bởi vì Pháp hoa hướng đến mọi đối tượng giáo hóa, không loại bỏ bất kỳ tầng lớp nào. Pháp hoa nêu ra “bốn hạng đệ tử có niềm tin”[61] thì trong số đó hầu như hết thảy chúng sanh đều có thể dự phần. Hạng thứ nhất được xác định là những người chỉ cần nghe kinh và phát khởi niềm tin, tương đương với hạng thứ nhất trong năm hạng pháp sư. Năm hạng pháp sư lần lượt chỉ đến những người (1) có thể tin nhận thọ trì kinh, (2) đọc kinh, (3) tụng kinh, (4) sao chép truyền rộng kinh và (5) vì người khác giảng giải kinh. Như vậy, việc phát khởi niềm tin là bước khởi đầu, và điều này không đòi hỏi phải là người có căn cơ vượt trội hay trí tuệ sáng suốt. Thậm chí trong kinh còn đưa ra hình ảnh Bồ Tát Thường Bất Khinh là một tiền thân của đức Phật Thích-ca nhưng chỉ là một vị tỳ-kheo rất bình thường, thậm chí là tầm thường, vì kinh nói rằng “vị tỳ-kheo này không chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái”.

Một vị tỳ-kheo không tụng đọc kinh điển, tức là chỉ thuộc vào hạng thấp nhất trong năm hạng pháp sư vừa kể trên. Và vị tỳ-kheo bình thường như vậy cuối cùng cũng đã thành tựu quả Phật, cho nên tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật. Ngay cả với những chúng sanh vì không tin nhận hoặc vì chưa đủ nhân duyên gặp được kinh này nên không thành tựu quả Phật rốt ráo, thì chư Phật cũng vẫn sẽ tiếp tục hóa hiện để thuyết dạy kinh này cho họ nghe, giúp họ cuối cùng cũng thành tựu quả Phật.[62] Do vậy nên nói rằng tư tưởng của Pháp hoa là bao quát.

Lại nói rằng tư tưởng của Pháp hoa là trọn vẹn, bởi vì mục đích cuối cùng mà Pháp hoa nhắm đến là dạy cho tất cả chúng sanh đều được thành Phật. Đây là mục đích rốt ráo, tối thượng, không còn bất kỳ một mục đích nào khác sau đó hoặc cao hơn nữa. Toàn bộ quá trình giáo hóa của đức Phật Thích-ca cũng như chư Phật trong mười phương ba đời đều là nhắm đến mục đích cuối cùng này. Kinh Pháp hoa đã trình bày đầy đủ về tánh Phật của tất cả chúng sanh cũng như con đường tu tập để thành tựu quả Phật, do vậy nên là trọn vẹn.

Tư tưởng bao quát và trọn vẹn như vừa nói trên đã được vận dụng xuyên suốt trong kinh này để chuyển tải hai sự thật quan trọng nhất trong giáo pháp của đức Phật.

Thứ nhất, tuy đức Phật đã thuyết dạy rất nhiều kinh điển khác nhau trong các thừa khác nhau, nhưng sự thật là chỉ có duy nhất một Phật thừa, hay Nhất thừa, với mục đích cao nhất là dẫn dắt hết thảy chúng sanh thành Phật. Tất cả các thừa Thanh văn, Duyên giác hay Bồ Tát đều là do đức Phật phương tiện quyền thuyết. Và sự quyền thuyết đó cũng không ra ngoài mục đích của Nhất thừa, tức là để dẫn dắt chúng sanh thành Phật. Do vậy, sự thật là chỉ có Nhất thừa, không có bất kỳ thừa nào khác.

Thứ hai, mặc dù chúng sanh có rất nhiều chủng loại, tầng bậc khác nhau, nhưng tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh Phật, không loại trừ bất cứ chúng sanh nào. Do sẵn có tánh Phật nên tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, không phân biệt tuổi tác, như Long nữ 8 tuổi thành Phật; không phân biệt giới tính, như các vị tỳ-kheo-ni cũng được thụ ký sẽ thành Phật; không phân biệt chủng loại, như Long nữ là loài rồng, tức thuộc hạng súc sinh, vẫn được thành Phật; không loại trừ cả người phạm tội nặng, như Đề-bà-đạt-đa cũng được thụ ký sẽ thành Phật; và cuối cùng là không loại trừ phân biệt tông phái nào, dù là Đại thừa hay Tiểu thừa, như tất cả Thanh văn trong hội Pháp hoa đều được thụ ký sẽ thành Phật.

Vì thế, có thể nói rằng kinh Pháp hoa đã cụ thể hóa việc “tất cả chúng sanh đều có tánh Phật”, để từ sự thật này mà khích lệ hết thảy chúng sanh đều mạnh dạn phát khởi niềm tin vào Phật pháp, dấn bước lên con đường tu tập và xác định mục tiêu cao quý nhất là thành tựu quả Phật.

Về mặt ứng dụng trong tu tập, dựa trên những tư tưởng nói trên, có thể thấy kinh Pháp hoa truyền tải hai thông điệp quan trọng đối với những ai mới bước chân vào con đường tu tập. Cả hai thông điệp này đều dựa trên sự tin tưởng nhưng được chia ra theo hai ý nghĩa: tin tưởng vào năng lực của chính mình và tin tưởng vào Phật pháp.

Thứ nhất là tin tưởng vào năng lực của chính mình, hay nói rõ theo Pháp hoa là tin rằng mình sẵn có tánh Phật, có khả năng thành Phật.

Trong phẩm Phân biệt công đức, Phật dạy rằng nếu có người bố thí đầy đủ cho tất cả chúng sanh suốt cuộc đời của họ, đến khi họ già yếu lại giáo hóa bằng Phật pháp giúp cho tất cả đều chứng quả A-la-hán. Lại có người được nghe kinh Pháp hoa rồi nói lại cho người khác, truyền dần cho đến người thứ năm mươi. Người nghe thứ năm mươi này nếu sinh tâm tùy hỷ, dù với một bài kệ trong kinh Pháp hoa, cũng được công đức vượt xa hơn so với người bố thí vừa nói trên.[63]

“Sinh tâm tùy hỷ” với kinh Pháp hoa này tức là tin nhận lời dạy của Phật về khả năng thành Phật của tự thân mình, là phát tâm cầu quả Phật, sẽ tự mình thành Phật. Chính vì vậy mà công đức của người này vượt hơn tất cả những công đức khác. Bởi vì dù có tạo tác bao nhiêu công đức trong luân hồi thì cũng chỉ có thể nhận lại được những sự an vui hạnh phúc trong luân hồi, không thể đạt được sự giải thoát rốt ráo.

Cũng giống như chỉ có hạt đậu mới có thể mọc lên cây đậu; nếu là những hạt giống khác, dù có chăm bón bất cứ cách nào cũng không thể mọc lên thành cây đậu. Người Phật tử là con Phật thì chắc chắn rồi sẽ thành Phật. Nếu không tin việc mình sẽ thành Phật thì người đó cũng chưa thực sự tin nhận mình là con Phật.

Như trong thí dụ về ông trưởng giả và đứa con thất lạc trong phẩm Tin hiểu,[64] tất cả những người giúp việc cho ông trưởng giả, cho dù có được hưởng bao nhiêu của cải, được giao cho quản lý bao nhiêu kho tàng, thì rốt cuộc họ vẫn chỉ là người ngoài, không thể được thừa kế gia tài như đứa con của ông. Ngược lại, đứa con ấy cho dù đang làm những công việc hèn kém, ngủ nghỉ trong chòi lá tồi tàn, nhưng vì là con ông trưởng giả nên một khi tin nhận thân phận của mình thì sẽ trở thành người thừa kế gia sản.

Tất cả những người học Phật cũng đều như vậy. Nếu có thể tùy hỷ khi nghe kinh Pháp hoa, tin nhận mình là con Phật, sẵn có tánh Phật, thì chắc chắn rồi sẽ thành Phật. Nếu chưa có sự phát tâm này thì cho dù có thực hiện bao nhiêu công hạnh, tu tập bao nhiêu pháp môn, cũng chỉ đạt được những sự giải thoát có giới hạn, không phải là quả Phật rốt ráo. Sự phát tâm tin nhận này cũng được gọi là phát tâm Bồ-đề, là tâm nguyện hướng đến quả Phật, được xem là quan trọng bậc nhất đối với bất cứ ai mới bắt đầu bước vào con đường tu tập.

Thông điệp thứ hai của kinh Pháp hoa là niềm tin đối với Phật pháp. Theo kinh Pháp hoa, người phát khởi niềm tin là bắt đầu đứng vào hàng “tứ tín đệ tử”, có thể vững bước trên đường tu tập.

Do vậy, niềm tin ở đây không phải là niềm tin nói chung, mà cụ thể là tin vào Phật, bậc giác ngộ có khả năng chỉ bày con đường giải thoát; tin vào Pháp do Phật thuyết dạy, ở đây là kinh Pháp hoa này. Có được niềm tin như vậy thì mới có thể thực sự bước vào Phật pháp. Như Đại sư Trí Khải nói: “Phật pháp như biển, chỉ có niềm tin mới vào được. Niềm tin là cội nguồn của đạo, là mẹ sinh ra các công đức.”[65]

Trong kinh Pháp hoa, đức Phật nhiều lần nhắc lại về niềm tin và công đức lớn lao của người phát khởi niềm tin. Công đức đó chính là được khởi sinh từ sự xác định chắc chắn con đường tu tập theo lời Phật dạy. Cho nên, chỉ khi đã phát khởi được niềm tin thì người Phật tử mới thực sự có khả năng bước vào tu tập đúng hướng.

Trong hai vấn đề vừa đề cập trên, phát tâm Bồ-đề là phần nỗ lực tự thân; tin tưởng vào Phật pháp là nương theo sự dẫn dắt đúng đắn. Giống như người đi đường xa, phải có quyết tâm tự mình dấn bước, đồng thời cũng phải tin tưởng vào người chỉ đường đúng thì mới có thể chắc chắn đi đến đích. Thiếu đi một trong hai yếu tố này thì chuyến đi không thể thành công. Người tu tập không tự mình phát tâm hoặc không tin tưởng nương theo Phật pháp thì cũng không thể thành tựu. Đây là những thông điệp quan trọng mà kinh Pháp hoa đã truyền đạt rất rõ ràng.

6. Vài đặc điểm trong phương thức trình bày của kinh Pháp hoa

Để truyền đạt những tư tưởng sâu xa và độc đáo như trên, kinh Pháp hoa đã sử dụng đến những phương thức trình bày, diễn đạt vô cùng hiệu quả.

Thứ nhất, hầu hết các tư tưởng, ý niệm trừu tượng đều được kinh Pháp hoa diễn đạt thông qua các thí dụ. Điều này giúp cho độc giả có thể tự hình dung và nhận hiểu dễ dàng hơn nhiều so với sự diễn đạt đơn thuần bằng từ ngữ.

Chúng ta thử xét qua một thí dụ cụ thể được dùng trong kinh này. Khi giảng giải về tiềm năng thành Phật luôn sẵn có của mỗi chúng sanh, kinh văn đưa ra thí dụ về đứa con bỏ cha trốn nhà đi xa suốt nhiều năm. Việc làm ăn thất bại, đứa con ấy trở nên nghèo khó khốn cùng, nhưng vì đi xa đã quá lâu nên thậm chí hình dáng người cha cũng không còn nhớ đến, không nhận biết được. Khi trên đường lưu lạc gặp lại cha, lúc đó là một trưởng giả cực kỳ giàu có, đứa con này không hề tự biết mình là con ruột của ông. Tuy nó không nhận biết, nhưng không thể vì thế mà mất đi tư cách là con. Cho nên, ông trưởng giả khi nhận biết con liền âm thầm dùng phương tiện giữ lại, gần gũi dạy bảo, cho đến thời điểm cuối cùng thích hợp thì nói ra sự thật và giao lại toàn bộ gia tài cho đứa con thừa kế.

Thí dụ này tương hợp với việc chúng sanh đều sẵn có tiềm năng thành Phật, nhưng không tự biết được nên phải làm hạng phàm phu thấp kém, luân hồi trong ba cõi. Đức Phật biết rõ điều đó, vẫn thường phương tiện hóa hiện gần gũi dạy bảo, cho đến khi chúng sanh chịu nghe theo và tu tập, tự nhận biết được tánh Phật của mình, thì tự nhiên sẽ nhận được gia tài pháp bảo, tự mình cũng được giải thoát thành Phật.

Như vậy, từ một ý niệm trừu tượng khó nhận hiểu, kinh văn đã trình bày thành một câu chuyện đơn giản nhưng thú vị, với ý nghĩa tương hợp để giúp người nghe có thể dễ dàng hình dung và nhận hiểu được vấn đề.

Tương tự, trong suốt bộ kinh, chúng ta gặp rất nhiều các thí dụ như vậy, và mỗi thí dụ đều được trình bày nhằm tương hợp với ý niệm đang được giảng giải, giúp người nghe có thể liên tưởng và nhận hiểu, thậm chí nhờ đó còn dễ dàng hơn trong việc ghi nhớ. Những thí dụ như căn nhà đang bốc cháy; hoặc thí dụ cơn mưa và các loại cây cỏ; hoặc thí dụ người bạn được tặng hạt châu trong chéo áo nhưng không hay biết; hoặc thí dụ vua chuyển luân giấu viên ngọc quý nhất trong búi tóc v.v. Tất cả đều là những thí dụ giàu hình tượng và mang ý nghĩa biểu trưng, tương hợp với phần giáo pháp đang giảng giải.

Trong thực tế, rất nhiều thí dụ được dùng trong kinh Pháp hoa đã đi sâu vào tâm tưởng người Phật tử qua nhiều thế hệ và trở thành những hình ảnh hết sức quen thuộc, có ý nghĩa gợi nhớ đến giáo pháp mà Pháp hoa truyền đạt. Như thí dụ “căn nhà đang cháy” để ví như chúng sanh đang trầm luân trong ba cõi là một thí dụ rất điển hình mà hầu như người Phật tử nào cũng từng biết đến.

Ngoài việc sử dụng các thí dụ, kinh Pháp hoa cũng kể lại nhiều câu chuyện trong quá khứ để giải thích và minh họa cho những điều trong hiện tại. Đặc biệt, những câu chuyện trong tiền thân của đức Phật và hạnh nguyện thuở xưa của các vị Đại Bồ Tát đều là những hình ảnh so sánh rất cụ thể giúp cho thính chúng dễ dàng nhận hiểu và tin tưởng vào lời Phật dạy.

Một điểm đặc biệt khác của kinh Pháp hoa là kinh văn thường xuyên sử dụng rất nhiều hình ảnh để mô tả. Ngay từ đầu kinh ta đã thấy hình ảnh mưa hoa rơi xuống, cõi đất chấn động, đức Phật phóng hào quang chiếu sáng các thế giới hiện ra v.v. Những hình ảnh sống động này giúp cho kinh văn không còn khô khan mà mang tính biểu cảm cao, đồng thời cũng giúp thu hút sự chú ý của người đọc vào những giảng giải theo sau đó.

Trong thực tế, có thể nói hình ảnh trong kinh văn Pháp hoa là cả một nghệ thuật biểu đạt. Hình ảnh được sử dụng rất nhiều trong các thí dụ như kể trên, chẳng hạn như hình ảnh căn nhà đang cháy với những câu kệ tụng ngắn gọn nhưng rất gợi tả:

“Rồi đồng loạt bốn phía,
Lửa bốc cao hừng hực.
Rồi xà ngang cột dọc,
Nổ lớn, xé tung ra,
Gãy đổ cùng rơi rụng,
Tường vách nghiêng đổ xuống.”

Và đây là những hình ảnh bên trong căn nhà:

“Nước tiểu, phân hôi thối,
Nhơ nhớp chảy lan tràn.
Giòi, bọ hung lúc nhúc,
Trên những ô uế đó.

Lũ cáo, sói, chồn hoang,
Liếm láp rồi giẫm đạp,
Cắn xé những xác chết,
Làm vung vãi xương thịt...

Do vậy bầy chó ho-ang,
Cùng xúm lại tranh nhau.
Chúng đói, gầy, sợ sệt,
Khắp chốn tìm thức ăn,
Cấu xé giành giật nhau,
Gầm rú, sủa, tru tréo.”

Nhưng hình ảnh cũng được sử dụng nhiều trong những đoạn kinh văn mô tả, chẳng hạn như đây là cảnh tháp báu của đức Phật Đa Bảo hiện lên uy nghi:

“Lúc bấy giờ, ngay trước đức Phật, bỗng từ trong lòng đất phóng vọt lên một tòa tháp bảy báu... ...trụ yên lơ lửng giữa không trung, có đủ mọi vật báu trang nghiêm tô điểm. Bao quanh tháp có năm ngàn dãy lan can, tầng dưới có ngàn muôn bệ thờ, có vô số cờ phướn trang nghiêm làm đẹp, muôn ức chuỗi ngọc quý và chuông báu nhỏ được treo ở phần trên tháp. Từ bốn phía quanh tháp có mùi hương chiên-đàn đa-ma-la-bạt lan tỏa thơm ngát khắp thế giới. Bên trên tháp có những lọng che bằng bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và ngọc mai khôi, cao vút lên tận cung trời Tứ thiên vương.”

Và đây là khung cảnh các vị Bồ Tát khi nghe thuyết pháp đã từ lòng đất vọt lên:

“Khi đức Phật vừa nói lời này, mặt đất ở khắp các cõi nước trong thế giới Ta-bà đều chấn động nứt ra, rồi từ trong lòng đất có vô số ngàn muôn ức vị Đại Bồ Tát đồng thời phóng vọt lên. Các vị Bồ Tát này đều có thân màu vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng tốt, tỏa hào quang vô lượng...”

Bằng cách sử dụng nhiều hình ảnh như vậy, kinh Pháp hoa mang đến một phương cách diễn đạt tươi mát, sinh động và để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Đây là một điểm khác biệt so với nhiều bản kinh khác.

Ngoài ra, nếu nói riêng về văn phong của bản Hán ngữ, cũng cần lưu ý đến sự lưu loát, mạch lạc trong bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, là bản được chúng tôi chọn dùng để chuyển dịch. Đây cũng là một trong những lý do giúp bản Hán dịch này được lưu hành rộng nhất.

7. Một số bản Việt dịch

Nếu không xét đến giai đoạn nước ta còn sử dụng chữ Nôm, thì bản Việt dịch kinh Diệu pháp liên hoa sớm nhất có lẽ là của ông Đoàn Trung Còn, xuất bản vào năm 1936. Bản dịch này được tái bản nhiều lần, chẳng hạn như bản in lần thứ ba là vào năm 1969.

Bản Việt dịch kinh Pháp hoa của Hòa thượng Thích Trí Tịnh được thực hiện vào khoảng năm 1947, xuất bản lần đầu năm 1948. Từ đó đến nay, bản dịch này được tái bản rất nhiều lần và trở thành bản dịch được sử dụng phổ biến nhất.

Bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Trí Quang có lẽ được thực hiện muộn hơn, nhưng không biết chính xác từ năm nào. Theo lời dẫn của Hòa thượng trong lần xuất bản năm 1998, Nxb TP.HCM, thì trước đó đã có 4 lần xuất bản.

Để hiểu rõ hơn về các bản Việt dịch trên, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu bản dịch của ông Đoàn Trung Còn.

Vì ra đời khá sớm và trong những lần tái bản cũng không được chỉnh sửa nhiều, nên bản dịch này nhìn chung có văn phong và từ ngữ đã trở thành xưa cũ, rất khó tiếp nhận đối với độc giả đương đại. Ngoài ra, theo chính lời tựa của dịch giả, ông đã sử dụng cùng lúc cả bản Hán ngữ và Pháp ngữ nhưng không đưa ra chuẩn mực nhất định, chỉ dựa vào nơi nào văn nghĩa rõ ràng hơn thì chọn dùng. Cách làm này dễ dàng làm sai lệch ý chính trong nguyên tác. Chẳng hạn, cuối phẩm Dược thảo dụ của bản Hán ngữ, ông dựa vào bản Pháp ngữ để dịch thêm phần cuối và ghi chú rằng “không có chánh văn chữ Hán”.[66] Thật ra thì phần này chính là phần mà Thiêm phẩm đã cho là “thiếu”, nhưng có trong bản dịch của Chánh pháp hoa của Pháp Hộ và cũng được thêm vào trong Thiêm phẩm. Có lẽ ông Đoàn Trung Còn đã không tham khảo các bản này nên cho rằng không có chữ Hán và dùng bản Pháp ngữ để dịch.

Ngoài ra, việc sử dụng lẫn lộn cả hai bản Hán ngữ và Pháp ngữ đã làm cho bản dịch không còn trung thành với nguyên tác kinh văn. Chẳng hạn, dưới đây là đoạn kinh văn giới thiệu về các vị tỳ-kheo tham dự Pháp hội:

“皆是阿羅漢,諸漏已盡,無復煩惱,逮得己利,盡諸有結,心得自在。” (…giai thị A-la-hán, chư lậu dĩ tận, vô phục phiền não, đãi đắc kỷ lợi, tận chư hữu kết, tâm đắc tự tại.)

Ông Đoàn Trung Còn dịch đoạn kinh văn này như sau:

“Các vị này đều không còn lầm lỗi, thoát khỏi sự phiền não, đạt tới sức mạnh huyền-vi, tư tưởng tự do, tâm trí tự tại, biết hết tất cả. Các vị này giống như những thớt tượng lớn đã làm tròn phận sự, đã làm việc phải làm, đã trút đồ nặng xuống rồi, đã đi tới chỗ cùng, đã diệt tất cả những dây trói buộc vào kiếp sống. Được tự do tự tại về tư tưởng, nhờ có đạo lý hoàn toàn. Được hoàn-mĩ nhờ làm chủ tư tưởng của mình. Có đủ phép thần thông.[67]

Khi so sánh với bản dịch Pháp ngữ mà ông Đoàn Trung Còn sử dụng, đoạn tương đương là:

“…exempts de toute faute, sauvés de la corruption [du mal], parvenus à la puis-sance, dont les pensées étaient bien affranchies, dont l’intelligence l’était également, sachant tout, semblables à de grands éléphants, qui avaient rempli leur devoir, ac-compli ce qu’ils avaient à faire, déposé leur fardeau, atteint leur but, supprimé complètement les liens qui les at-tachaient à l’existence; dont les pensées étaient bien affranchies par la science par-faite; qui avaient obtenu cette perfection su-prême d’être complètement maîtres de leurs pensées; qui étaient en possession des [cinq] connaissances surnaturelles, tous grands Çrâvakas…”[68]

Rõ ràng phần chữ in nghiêng trong đoạn Việt dịch là được dịch từ bản Pháp văn. Như vậy, thay vì chọn lọc giữa hai bản, dịch giả đã chuyển dịch cả hai. Vì thế, trong phần dịch Hán ngữ đã thấy “tư tưởng tự do, tâm trí tự tại” nhưng ngay sau đó lại nói “được tự do tự tại về tư tưởng”. Thay vì tạo ra một đoạn văn dịch đầy đủ rõ ràng hơn nhờ sử dụng hai văn bản, dịch giả đã đưa ra một đoạn văn dịch trùng lặp, và điều quan trọng nhất là không theo đúng nguyên tác kinh văn.

Hòa thượng Trí Tịnh dịch đoạn này là: “Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt sự ràng buộc trong các cõi, tâm được tự tại.”[69]

Và Hòa thượng Trí Quang dịch: “…toàn là những bậc A La Hán mà sự sơ hở đã được tận diệt, sự phiền não không còn tái sanh, đã đạt được sự ích lợi của bản thân, đã dứt hết sự ràng buộc vào hiện hữu, tâm trí tự tại giải thoát.”[70]

Chúng ta cũng thấy rằng, ở đây hai vị dịch giả có hai cách dịch hơi khác nhau. “Đãi đắc lợi kỷ” được Hòa thượng Trí Tịnh hiểu là “việc lợi mình đã xong”, trong khi Hòa thượng Trí Quang dịch là “đã đạt được sự ích lợi của bản thân”. Hòa thượng Trí Tịnh dịch “chư lậu dĩ tận” thành “các lậu đã hết”, trong khi Hòa thượng Trí Quang dịch là “sự sơ hở đã được tận diệt”.

Khuynh hướng dịch khác biệt này được chính Hòa thượng Trí Quang nêu rõ trong Lời dẫn trước bản dịch: “Không có dịch phẩm nào của tôi dịch chữ Hoa và chữ Hoa Việt ra chữ Việt nhiều bằng Pháp Hoa.”[71]

“Chữ Hoa và chữ Hoa Việt” tức là Hán ngữ và những từ ngữ âm Hán Việt. Do khuynh hướng này, Hòa thượng đã dịch chữ “lậu” thành “sơ hở”. Tương tự, trong bản dịch của Hòa thượng, chúng ta sẽ thấy rất nhiều sự Việt hóa theo cách này. Chẳng hạn, “phân biệt công đức” dịch là “phân tích thành quả”; “Chúc lụy” dịch là “giao phó trọng trách”; “thọ lượng” dịch là “sự sống lâu” v.v.

Tất nhiên, chúng ta cũng dễ dàng thấy được là nhiều từ Hán Việt thật ra được thay thế bằng từ Hán Việt khác, nhưng có thể dịch giả cho rằng những từ thay thế đó dễ hiểu hơn. Chẳng hạn, phân biệt và phân tích, công đức và thành quả, chúc lụy và giao phó trọng trách… tất cả đều là những từ Hán Việt.

Có thể thấy, chủ trương Việt hóa trong bản dịch của Hòa thượng Trí Quang là một nỗ lực rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, với những cách hiểu đã quen thuộc về các thuật ngữ Phật học truyền thống như công đức, lậu hoặc… thì việc chuyển sang diễn đạt là “thành quả”, “sự sơ hở”… có thể làm cho một số Phật tử cảm thấy hơi xa lạ và khó hiểu.

8. Về bản Việt dịch này

Bản Việt dịch kinh Pháp hoa này được chúng tôi thực hiện song song với việc chuyển dịch sách Pháp hoa văn cú. Bộ sách này ghi lại những lời giảng giải kinh Pháp hoa của Đại sư Trí Khải tại Kim Lăng từ khoảng năm 587.

Trong khi chuyển dịch Pháp hoa văn cú, chúng tôi nhận ra rằng lời giảng giải của Đại sư luôn đi sát với kinh văn Hán ngữ. Nếu không đọc kèm kinh văn người đọc sẽ rất khó tiếp nhận trọn vẹn ý nghĩa trong lời giảng. Vì vậy, nhằm tạo điều kiện cho người đọc dễ dàng theo dõi, chúng tôi quyết định đưa kèm kinh văn vào sách. Như vậy, người đọc có thể dễ dàng theo dõi các đoạn văn giảng giải cùng lúc với phần kinh văn được giảng giải. Cách làm này giúp ích cho người đọc rất nhiều. Vì độc giả ngày nay không phải ai cũng thuộc lòng kinh văn để có thể đọc các nội dung giảng giải mà không cần xem lại.

Khó khăn của chúng tôi khi thực hiện việc này là các bản dịch hiện có đều không đáp ứng yêu cầu đi sát theo các phần giảng giải, hoặc trong một số trường hợp là người dịch kinh có sự nhận hiểu không hoàn toàn giống như người giảng kinh.

Chẳng hạn như đoạn kệ tụng sau đây:

見聞若斯,
及千億事,
如是眾多,
今當略說。

Kiến văn nhược tư
Cập thiên ức sự
Như thị chúng đa
Kim đương lược thuyết.

Hòa thượng Trí Tịnh đã dịch là:

Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra.

Tuy nhiên, theo giảng giải của Pháp hoa văn cú thì “như thị chúng đa” không phải là “thấy rất nhiều như thế”, vì như vậy là chỉ ngược về “nghìn ức việc khác” vừa nói ở câu trước. Pháp hoa văn cú giảng rằng “như thị chúng đa” là “hội chúng như vậy có rất nhiều hạng người”. Chúng ta thấy rằng hai ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Hoặc như đoạn kệ tụng này:

如斯罪人,
常生難處,
狂聾心亂,
永不聞法。

Như tư tội nhân
Thường sinh nan xứ
Cuồng lung tâm loạn
Vĩnh bất văn pháp.

Hòa thượng Trí Quang dịch là:

“Tội nhân như vậy
thường sinh những chỗ
đủ thứ tai nạn,
điên cuồng điếc lác
tâm trí thác loạn,
trong thì gian dài
không hề nghe được
chánh pháp Như Lai.”

Hòa thượng Trí Tịnh dịch đoạn kệ này là:

“Những người tội như đây
Thường sanh chỗ hoạn nạn
Tâm cuồng loạn, tai điếc
Trọn không nghe pháp được.”

Không xét đến những điểm khác biệt khác, ở đây cả hai vị dịch giả đều hiểu “nan xứ” (難處) thành “nạn xứ” nên đều dịch là “thường sinh những chỗ, đủ thứ tai nạn” hoặc “thường sanh chỗ hoạn nạn”. Tuy nhiên, khi đưa vào giảng giải đoạn kệ tụng này thì “nan xứ” không phải là “những chỗ hoạn nạn”, mà kinh văn đang nói đến “bát nan xứ”, tức là 8 điều kiện rất khó gặp Phật ra đời, bao gồm các cảnh giới: 1. địa ngục, 2. súc sanh, 3. ngạ quỷ, 4. Trường thọ thiên (cõi trời sống rất lâu), 5. biên địa (những vùng xa nơi trung tâm, chẳng hạn như biên giới, nơi hẻo lánh, không thuận tiện cho việc tu học Chánh pháp), 6. căn khuyết (tật nguyền như mù, câm, điếc...), 7. tà kiến (tin theo những kiến giải sai lệch, bất thiện), 8. không gặp Phật ra đời.

Phân tích kỹ 8 điều kiện khó gặp Phật này thì không phải là những nơi luôn có hoạn nạn. Như cõi Trường thọ thiên, chư thiên an ổn, sống rất lâu, không có hoạn nạn, nhưng chính vì vậy họ rất khó phát tâm tu tập Phật pháp. Hoặc như những nơi không gặp Phật ra đời thì chúng sanh không được nghe giáo pháp, nhưng không phải tất cả đều gặp hoạn nạn.

Với những khác biệt như trên, chúng tôi đã không thể sử dụng các bản dịch có sẵn để đưa vào Pháp hoa văn cú. Để có thể đưa kinh văn vào bộ sách giảng giải này mà không vấp phải khác biệt, chúng tôi phải tự mình thực hiện một bản Việt dịch. Do vậy, trong khoảng thời gian từ giữa năm 2022 đến gần cuối năm 2025, chúng tôi đã hoàn tất cùng lúc bản Việt dịch sách Pháp hoa văn cú kèm theo với bản Việt dịch kinh Pháp hoa này.

Mặc dù phải thực hiện một khối lượng công việc lớn và phức tạp hơn khi cùng lúc chuyển dịch cả hai bản Hán ngữ, nhưng chúng tôi cũng đồng thời có được lợi thế rất lớn là nhận hiểu kinh văn rõ ràng hơn nhờ vào sự giảng giải chi tiết của Đại sư Trí Khải.

Nhờ vào trợ duyên đó, chúng tôi hy vọng bản Việt dịch này sẽ đóng góp thêm được phần nào cho việc học tập và hành trì kinh Diệu pháp liên hoa với một số cách tiếp cận và nhận hiểu mới.

9. Kết luận

Kinh Diệu pháp liên hoa là một bộ kinh rất quen thuộc với hầu hết Phật tử Việt Nam. Nhưng chính sự quá quen thuộc này dường như đã khiến cho một số người tiếp cận với kinh văn một cách sơ sài, chỉ biết tụng đọc theo nghi thức mà ít quan tâm đến việc tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của bộ kinh. Phần dẫn nhập này hy vọng sẽ mang đến cho những ai quan tâm có một cách nhìn mới mẻ hơn, hiểu biết nhiều hơn về bộ kinh này. Từ nền tảng đó sẽ có sự quan tâm sâu sắc hơn trong việc học tập và tìm hiểu ý nghĩa kinh văn.

Như chúng ta đã thấy, văn bản kinh Diệu pháp liên hoa có một lịch sử truyền thừa rất lâu đời. Từ khi được mang đến nước ta (tức Giao Châu ngày xưa) vào năm 256 để rồi thất lạc, tiếp đến lần lượt là các bản Hán dịch của ngài Pháp Hộ và ngài Cưu-ma-la-thập, có thể thấy rằng kinh Pháp hoa đã chiếm một vị thế quan trọng trong Phật giáo từ xưa đến nay. Việc tìm hiểu so sánh kỹ các bản Hán dịch này đã giúp phát hiện ra nhiều điều thú vị trong lịch sử truyền thừa cũng như giúp làm tăng thêm sự tin cậy đối với bản dịch mà chúng ta đang sử dụng.

Bản Hán dịch ra đời từ trước đây hơn 15 thế kỷ nên tự thân sự tồn tại của nó đã là một giá trị lớn lao và không thể thay thế về mặt lịch sử và văn bản học. Nhưng còn hơn thế nữa, kinh Pháp Hoa thực sự chuyển tải một tư tưởng vĩ đại mà nhân loại đã từng có được trong suốt chiều dài lịch sử. Tính bình đẳng trong phát biểu “tất cả chúng sanh đều có tánh Phật” là nền tảng siêu việt hơn bất kỳ chủ thuyết bình đẳng nào khác, và tính bao quát của tư tưởng Nhất thừa đã dung hợp tất cả mọi pháp môn tu tập, xóa bỏ mọi ranh giới, mâu thuẫn hay xung đột. Ngoài ra, kinh Pháp hoa chuyển tải tất cả những điều trên bằng cách sử dụng những thí dụ cụ thể và gần gũi, những câu chuyện và hình ảnh sinh động, giúp cho những giáo lý sâu xa có thể đến với mọi tầng lớp người đọc, từ những người bình dân ít học cho đến các học giả uyên bác, hầu như ai cũng đều có thể tìm thấy những ý nghĩa thích hợp với mình trong kinh văn. Quan trọng hơn nữa, từ sự tiếp cận dễ dàng đó mà kinh văn sẽ dẫn dắt tất cả mọi chúng sanh đi vào con đường tu tập, xác quyết được mục tiêu tối thượng là thành tựu quả Phật.

Với những giá trị to lớn như trên, việc chuyển dịch kinh Pháp hoa sang tiếng Việt là một nỗ lực có phần vượt quá khả năng và trình độ hạn hẹp của chúng tôi. Tuy nhiên, với tâm nguyện góp phần duy trì và lan tỏa giáo pháp của đức Phật, chúng tôi đã vượt qua những ngần ngại e dè để cố gắng thực hiện bản dịch này với tất cả sự nghiêm cẩn và chân thành. Mong rằng với sự gia trì của chư Phật và Bồ Tát như kinh văn đã dạy, bản Việt dịch này sẽ có thể mang đến cho người đọc thêm một phương tiện mới để nhận hiểu lời Phật dạy.

Nguyện cho khắp thảy chúng sanh trong mười phương đều có đủ duyên lành để đón nhận bộ kinh quý giá này.

Trân trọng,

Nguyễn Minh Tiến

________________________

CHÚ THÍCH

[1] Pháp hoa truyền ký (法華傳記), quyển 1, Tăng Tường soạn vào đời Đường. (ĐCT, T51, 2068, tr.50c, d.4)

[2] Chi-cương-lương-tiếp (支彊梁接), Hán dịch là Chánh Vô Úy (正無畏).

[3] Xem Đại Đường Nội điển lục (大唐內典錄), quyển 2, Đạo Tuyên soạn vào đời Đường. (ĐCT, T55, 2149, tr.227a, d.23-26) Các mục lục khác cũng chép tên người bút thụ là Trúc Đạo Hinh (竺道馨), Thích Đạo Thanh (釋道聲), có thể do sai biệt khi sao chép. Giáo sư Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận có nhắc đến bản dịch này nhưng cho rằng “Kinh này nói đến một loại thiền định gọi là thiền định hoa sen, trong ấy các quan niệm về pháp thân, huyễn hóa và không đã được đề cập tới.” Nhận định này có vẻ như không liên quan nhiều đến nội dung kinh Diệu pháp liên hoa, do ông đã nhầm lẫn giữa hai bản dịch trùng tên nhưng hoàn toàn khác nhau. (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 3, trang 67-68. Nxb Văn học, 2000)

[4] Pháp Hộ, cũng gọi là Trúc Pháp Hộ (竺法護) hoặc Chi Pháp Hộ (支法護), tên Phạn ngữ là Dharmarakṣa, âm dịch Đàm-ma-la-mật (曇摩羅蜜) hoặc Đàm-ma-la-sát (曇摩羅察). Ngài là người nước Nguyệt Chi (月支), không rõ năm sinh, có thuyết cho là ngài viên tịch vào khoảng niên hiệu Kiến Hưng (建興 – 313-316).

[5] Chánh Pháp hoa kinh (正法華經), ĐCT, T9, 263.

[6] Phương đẳng Pháp hoa kinh (方等法華經) cũng được ghi nhận trong Đại Đường Nội điển lục, Cổ kim dịch kinh đồ ký, Khai Nguyên Thích giáo lục v.v. nhưng các mục lục này đều ghi là có 5 quyển, không phải 6 quyển.

[7] Pháp hoa truyền ký ghi là “弘始七甲辰” (Hoằng Thủy thất Giáp Thìn). Tuy nhiên, năm Hoằng Thủy thứ bảy là năm Ất Tỵ (405), không phải Giáp Thìn (404). Đại Đường Nội điển lục ghi là “弘始八年” (Hoằng Thủy bát niên), tức là năm 406. (ĐCT, T55, 2149, tr.252b, d.28)

[8] Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什), phiên âm từ Phạn ngữ Kumārajīva, Hán dịch là Đồng Thọ (童壽).

[9] Diệu Pháp liên hoa kinh (妙法蓮華經), ĐCT, T9, 262. Chúng tôi sẽ thường xuyên dùng tên gọi ngắn gọn là kinh Pháp hoa để chỉ bản dịch này.

[10] Thiêm phẩm Diệu pháp liên hoa kinh (添品妙法蓮華經). ĐCT, T9, 264. Các mục lục có nơi ghi là Xà-na-quật-đa (闍那崛多) và Đạt-ma Cấp-đa (達摩笈多) cùng dịch (共譯) tại chùa Đại Hưng Thiện, Trường An, nhưng trong bản kinh chỉ ghi thiêm phẩm (添品), nghĩa là thêm phẩm kinh vào. Sau đây sẽ gọi tắt bản này là Thiêm phẩm.

[11] ĐCT, T9, 269.

[12] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 3, trang 68. Nxb Văn học, 2000.

[13] ĐCT, T9, 269, tr.286b, d.21.

[14] Nguyễn Lang, sách đã dẫn, trang 67-68.

[15] Tát-đàm Phân-đà-lợi kinh (薩曇分陀利經), ĐCT, T9, 265.

[16] Tức luận sư Bà-tẩu-bàn-đậu (S. Vasubandhu, H. 婆藪槃豆), Hán dịch là Thế Thân (世親), là vị luận sư nổi tiếng người Ấn Độ, được tôn xưng là Bồ Tát do ảnh hưởng lớn lao từ những tác phẩm của ngài. Ngài cũng được xem là Tổ sư thứ 21 trong dòng truyền thừa của Thiền tông Ấn Độ.

[17] Diệu pháp liên hoa kinh Ưu-ba-đề-xá (S. Saddharmapuṇḍarīka-sūtra-upadeśa, H. 妙法蓮華經憂波提舍), do Bồ-đề-lưu-chi (菩提留支) và Đàm Lâm (曇林) cùng dịch. Bản dịch này gồm 2 quyển (ĐCT, T26, 1519, tr.1a, d.1 - tr.10b, d.25).

[18] Diệu pháp liên hoa kinh luận ưu-ba-đề-xá (S. Saddharmapuṇḍarīka-śāstra-upadeśa, H. 妙法蓮華經 論憂波提舍), do Lặc-na-ma-đề (勒那摩提) và Tăng Lãng (僧朗) cùng dịch. Bản dịch chỉ có 1 quyển (ĐCT, T26, 1520, tr.10c, d.1 - tr.20b, d.1).

[19] Mặc dù trong truyền thống này có hai vị thầy trước đó là Huệ Văn (慧文) và Huệ Tư (慧思), nhưng với vai trò nổi bật trong việc phát triển tông Thiên Thai thành một tông phái lớn, ngài Trí Khải đã được xem như vị Tổ sư khai sáng.

[20] ĐCT, T33, 1716.

[21] ĐCT, T34, 1718. Bộ sách này đã được chúng tôi chuyển dịch sang Việt ngữ.

[22] ĐCT, T46, 1911.

[23] ĐCT, T34, 1719.

[24] VTT, T27, 577.

[25] ĐCT, T34, 1721.

[26] ĐCT, T33, 1715.

[27] ĐCT, T33, 1717.

[28] Hội Á châu học Paris (Société asiatique de Paris) là một trong những học hội lâu đời và uy tín, chuyên nghiên cứu về các nền văn hóa và xã hội châu Á.

[29] Eugène Burnouf, Le Lo-tus de la Bonne Loi, Traduit du Sanscrit, Accompagné d’un Commentaire et de Vingt et Un Mémoires Relatifs au Buddhisme (Paris: Imprimerie Nationale, 1852), Avertissement, i.

[30] Haruaki Kotsuki. “The Path Towards a Criti-cal Edition of the Sanskrit Lotus Sutra Based on Gilgit-Nepalese Manuscripts (C3 Collated Text).” The Journal of Oriental Studies 29 (2019): 148.

[31] Hiện nay thuộc vùng Kashmir do Pakistan kiểm soát.

[32] Haruaki Kotsuki, op. cit.: 147-55.

[33] Hendrik Kern, The Sad-dharma-Pundarika or The Lotus of the True Law (Delhi: Motilal Banarsidass, 1980).

[34] Hendrik Kern, op. cit., Introduction, xii.

[35] ĐCT, T9, 264, tr.134b, d.27- tr.134c.22.

[36] Thích Trí Quang, Kinh Pháp hoa (Hoa sen của chánh pháp), Lời dẫn, Nxb TP.HCM, 1998.

[37] Hendrik Kern, The Saddharma-Pundarika or The Lotus of the True Law (Delhi: Motilal Banarsidass, 1980), Introduction, xxiii.

[38] Đại Đường Tây vực ký (大唐西域記), quyển 1: “文字取則印度,粗有改變。“ (Chữ viết dùng chữ Ấn Độ có đôi chút cải biến.) ĐCT, T51, 2087, tr.870a, d.20

[39] Các tên phẩm đề cập trong phần này là tên Hán Việt, trừ phi đề cập đến bản Việt dịch sẽ dùng tên Việt dịch.

[40] Phẩm Phú-lâu-na: tức là phẩm Ngũ bá đệ tử thụ ký, vì đầu phẩm này nói việc đức Phật thụ ký cho ngài Phú-lâu-na nên lấy tên người làm tên phẩm.

[41] Thiêm phẩm cho rằng Phạn bản đặt phẩm Chúc lụy ở cuối cùng.

[42] Thiêm phẩm cho rằng theo Phạn bản thì phẩm Đà-la-ni nằm ngay sau phẩm Thần lực Như Lai, nghĩa là trước phẩm Phổ môn.

[43] Hendrik Kern, op. cit., Introduction, xxi-xxii.

[44] Đại sư Trí Khải, Quán Đảnh ghi, Diệu pháp liên hoa kinh văn cú, bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Như Điển và cư sĩ Nguyễn Minh Tiến, Tập 3, trang 100. - Nxb Liên Phật Hội, Cali-fornia, 2025.

[45] Đại sư Trí Khải, Quán Đảnh ghi, sách đã dẫn, Tập 3, trang 101.

[46] VTT, T27, 577, tr.1a, d.9-20.

[47] Nguyên tác Hán văn: “與大比丘眾萬二千人俱 ,皆是阿羅漢” - dữ đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu, giai thị A-la-hán” (ĐCT, T9, 262, tr.1c, d.20)

[48] Nguyên tác Hán văn: “爾時大眾中有諸聲聞漏盡阿羅漢,阿若憍陳如等千二百人 - Nhĩ thời đại chúng trung hữu chư Thanh văn lậu tận A-la-hán, A-nhã Kiều-trần-như đẳng thiên nhị bá nhân…” (ĐCT, T9, 262, tr.6a, d.28-29)

[49] Nguyên tác Hán văn: “是諸千二百心自在者,昔住學地 - Thị chư thiên nhị bá tâm tự tại giả, tích trụ học địa…” (ĐCT, T9, 262, tr.12b, d.3-4)

[50] Ngũ thời bát giáo (五時 八教): là hệ thống phân loại toàn bộ giáo pháp và phương thức giảng giải trong Phật giáo. Ngũ thời phân chia giáo pháp được đức Phật thuyết giảng thành 5 thời tiếp nối là thời Hoa nghiêm (華嚴時), thời A-hàm (阿含), thời Phương đẳng (方等時), thời Bát-nhã (般若時) và thời Pháp hoa - Niết-bàn (法華涅槃時). Bát giáo phân chia sự giảng giải và tu tập giáo pháp thành hóa nghi tứ giáo (化儀四教 - bốn phương thức giáo hóa) bao gồm đốn giáo (頓教), tiệm giáo (漸教), bí mật giáo (秘密教) và bất định giáo (不定) và hóa pháp tứ giáo (化法四教 - bốn nội dung giáo pháp) bao gồm Tạng giáo (藏教), Thông giáo (通教), Biệt giáo (別教) và Viên giáo (圓教). Hệ thống phân loại này về sau không chỉ giới hạn trong tông Thiên Thai mà đã mở rộng ảnh hưởng đến nhiều tông phái khác.

[51] Phẩm Phương tiện, trang 51.

[52] Phẩm Phương tiện, trang 51.

[53] Nguyễn Minh Tiến dịch, Kinh Đại Bát Niết-bàn, Tập 2, phẩm Bồ Tát Sư Tử Hống, trang 222. Nxb Liên Phật Hội, 2020.

[54] Phẩm Phương tiện, trang 83.

[55] Phẩm Phương tiện, trang 85.

[56] Xem phẩm Thí dụ cây cỏ, trang 000.

[57] Hán văn: “我等何為永絕其根,於此大乘已如敗種 - Ngã đẳng hà vi vĩnh tuyệt kỳ căn, ư thử Đại thừa dĩ như bại chủng.” ĐCT, T14, 475, tr547a, d.8-9.

[58] Xem phẩm Thí dụ hóa thành, trang 000.

[59] Thích Nhất Hạnh, Sen nở trời phương ngoại (thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp hoa), trang 11. Nxb Lá Bối, 2001.

[60] Thích Nhất Hạnh, sách đã dẫn, trang 34.

[61] “Tứ tín đệ tử” (四信弟子), chỉ bốn hạng đệ tử được phân chia theo mức độ niềm tin và sự nhận hiểu. Thứ nhất là hạng nghe hiểu, có niềm tin nhưng không thể vì người khác giảng nói; thứ hai là hạng tin nhận và có thể vì người khác giảng giải sơ lược; thứ ba là hạng có niềm tin và nghe nhiều hiểu rộng, có thể vì người khác giảng rộng; thứ tư là hạng tin sâu, hiểu rõ, có khả năng thuyết pháp rộng rãi, đầy đủ cả năng lực quán chiếu và thực hành.

[62] Xem phẩm Phương tiện, trang 000.

[63] Xem phẩm Phân biệt công đức, trang 000.

[64] Xem phẩm Tin hiểu, trang 000.

[65] Đại sư Trí Khải, Ma-ha chỉ quán (摩訶止觀), quyển 5: “佛法如海唯信能入, 信則道源功德母。” (ĐCT, T46, 1911, tr.54c, d.18-19)

[66] Đoàn Trung Còn, Diệu pháp liên hoa kinh, trang 91. Phật học tùng thư, Saigon, 1969.

[67] Đoàn Trung Còn, sách đã dẫn, trang 5-6.

[68] Burnouf, Eugène. Le Lotus de la bonne loi. Paris: Imprimerie Royale, 1852, p. 1. Tạm dịch: “…không còn lỗi lầm, thoát khỏi sự hư hoại, đạt đến năng lực, tâm ý đã hoàn toàn giải thoát, trí tuệ cũng vậy, thông suốt tất cả, giống như những con voi lớn đã hoàn thành bổn phận, làm xong những gì cần làm, đặt xuống gánh nặng, đạt đến mục đích, dứt trừ hẳn những ràng buộc gắn liền với sự tồn tại; tư tưởng đã hoàn toàn giải thoát nhờ trí tuệ viên mãn; đã đạt đến sự thành tựu tối thượng là làm chủ hoàn toàn tâm ý của mình; lại có được thần thông, tất cả đều là những vị Thanh văn lớn…”

[69] Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu pháp liên hoa, Quyển 1, phẩm 1, Phật học viện Quốc tế, 1988.

[70] Thích Trí Quang, Kinh Pháp hoa (Hoa sen của chánh pháp), Cuốn 1, phẩm 1, Nxb TP.HCM, 1998.

[71] Thích Trí Quang, sách đã dẫn, phần Lược dẫn, Nxb TP.HCM, 1998.


_________________________________

1. Phẩm Tựa



Tôi nghe như thế này, vào lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá, giữa núi Kỳ-xà-quật, cùng với chúng đại tỳ-kheo 1.200 vị,[1] hết thảy đều là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại, được lợi lạc bản thân, dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại.

Tên các ngài là: A-nhã Kiều-trần-như,[2] Ma-ha Ca-diếp,[3] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp,[4] Xá-lợi-phất,[5] Đại Mục-kiền-liên,[6] Ma-ha Ca-chiên-diên,[7] A-nậu-lâu-đà,[8] Kiếp-tân-na,[9] Kiều-phạm-ba-đề,[10] Ly-bà-đa,[11] Tất-lăng-già-bà-sa,[12] Bạc-câu-la,[13] Ma-ha Câu-hi-la,[14] Nan-đà,[15] Tôn-đà-la Nan-đà,[16] Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử,[17] Tu-bồ-đề,[18] A-nan,[19] La-hầu-la.[20] Đó là các vị đại A-la-hán được nhiều người biết đến.[21]

Lại có các vị hữu học, vô học[22] đến 2.000 người.

Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề[23] cùng với ni chúng 6.000 người cùng đến. Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la[24] cũng cùng đến với ni chúng.

Có 80.000 vị Đại Bồ Tát, tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,[25] đều đạt được đà-la-ni, có tài biện luận vui thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển, từng cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật, ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức, thường được chư Phật ngợi khen xưng tán, dùng tâm từ tu thân, khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao, đạt đến bờ giải thoát, danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới, thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh.

Danh hiệu của các vị là: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi,[26] Bồ Tát Quán Thế Âm,[27] Bồ Tát Đắc Đại Thế,[28] Bồ Tát Thường Tinh Tấn,[29] Bồ Tát Bất Hưu Tức,[30] Bồ Tát Bảo Chưởng,[31] Bồ Tát Dược Vương,[32] Bồ Tát Dũng Thí,[33] Bồ Tát Bảo Nguyệt,[34] Bồ Tát Nguyệt Quang,[35] Bồ Tát Mãn Nguyệt,[36] Bồ Tát Đại Lực,[37] Bồ Tát Vô Lượng Lực,[38] Bồ Tát Việt Tam Giới,[39] Bồ Tát Bạt-đà-bà-la,[40] Bồ Tát Di-lặc,[41] Bồ Tát Bảo Tích,[42] Bồ Tát Đạo Sư[43]… Các vị Đại Bồ Tát như vậy, cả thảy 80.000 vị cùng tham dự pháp hội.

Lúc bấy giờ có Thích-đề-hoàn-nhân[44] và quyến thuộc 20.000 vị thiên tử cùng đến. Lại có Thiên tử Danh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, Tứ đại Thiên vương[45] và quyến thuộc 10.000 thiên tử cùng đến. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc 30.000 thiên tử cùng đến. Phạm Thiên vương chủ thế giới Ta-bà,[46] cùng Đại Phạm Thi-khí,[47] Đại Phạm Quang Minh[48]... và quyến thuộc 12.000 thiên tử cùng đến.

Có 8 vị long vương:[49] Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Sa-già-la, Long vương Hòa-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Ưu-bát-la,[50] mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.

Có bốn vị vua khẩn-na-la:[51] Vua Khẩn-na-la Pháp, Vua Khẩn-na-la Diệu Pháp, Vua Khẩn-na-la Đại Pháp, Vua Khẩn-na-la Trì Pháp, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.

Có bốn vị vua càn-thát-bà:[52] Vua Càn-thát-bà Nhạc, Vua Càn-thát-bà Nhạc Âm, Vua Càn-thát-bà Mỹ, Vua Càn-thát-bà Mỹ Âm, mỗi vị đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

Có bốn vị vua a-tu-la:[53] Vua A-tu-la Bà-trĩ, Vua A-tu-la Khư-la-kiển-đà, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la La-hầu, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

Có bốn vị vua ca-lâu-la:[54] Vua Ca-lâu-la Đại Uy Đức, Vua Ca-lâu-la Đại Thân, Vua Ca-lâu-la Đại Mãn, Vua Ca-lâu-la Như Ý, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi[55] cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc, hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có bốn chúng đi nhiễu quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.[56] Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động.

Lúc bấy giờ trời mưa xuống các loại hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la,[57] mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa;[58] hoa rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng.

Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa,[59] càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già,[60] người và các loài phi nhân…[61] cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương. Đại chúng gặp việc chưa từng có, hoan hỷ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.

Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày,[62] soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông, không một nơi nào không soi thấu, phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ,[63] phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá.[64]

Từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sanh các cõi kia,[65] lại thấy chư Phật hiện tại ở các cõi ấy cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng, cùng thấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị tu hành đạt đạo. Lại thấy các vị Đại Bồ Tát, đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo, thực hành đạo Bồ Tát. Lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn ; lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, đại chúng thu xá-lợi Phật, dựng tháp thờ bằng bảy món báu.

Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Phật Thế Tôn đã nhập tam-muội, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp?” Rồi lại nghĩ rằng: “Ngài Văn-thù-sư-lợi là con đấng Pháp vương, đã từng thân cận cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ, chắc hẳn đã từng được thấy tướng ít có này, nay ta nên thưa hỏi.” Lúc ấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần... cũng đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông hào quang chiếu sáng của đức Phật, nay biết thưa hỏi ai?”

Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình, lại quán sát thấy được tâm nghi của bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng chư thiên, loài rồng, quỷ thần... nên thưa hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành Phật hiện tướng thần thông, phóng hào quang lớn chiếu đến 18.000 thế giới ở phương đông, [đại chúng] thấy hết được những cõi Phật trang nghiêm nơi ấy?”

Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên liền đọc kệ thưa hỏi rằng:

Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Vì sao đấng Đạo sư,
Từ giữa hai chân mày,
Phóng hào quang soi chiếu.

Mưa hoa mạn-đà-la,
Với hoa mạn-thù-sa,
Gió thơm hương chiên-đàn,
Đại chúng đều hoan hỷ?

Lại do nhân duyên này,
Mặt đất đều nghiêm tịnh,
Và khắp thế giới này,
Chấn động theo sáu cách.[66]

Bấy giờ cả bốn chúng,
Đều vui mừng hoan hỷ,
Thân ý đều sảng khoái,
Được việc chưa từng có.

Hào quang từ giữa mày,
Soi chiếu thấu phương đông,
Khắp mười tám ngàn cõi,
Đều sáng đẹp sắc vàng;

Từ địa ngục A-tỳ,
Lên đến trời Hữu đỉnh,
Các thế giới trong đó,
Đủ sáu đường chúng sanh,
Sống, chết, đi về đâu,
Hay nghiệp duyên lành dữ,
Chịu quả báo tốt xấu,
Từ đây đều thấy rõ.

Lại thấy các đức Phật,
Bậc Sư tử Thánh chúa,
Diễn thuyết nhiều kinh điển,
Đều vi diệu bậc nhất.

Âm thanh thật thanh tịnh,
Tiếng nói nghe dịu dàng,
Dạy bảo hàng Bồ Tát,
Vô số muôn ngàn người.

Tiếng cõi trời sâu mầu,
Ai ai cũng thích nghe.
Mỗi vị nơi cõi mình,
Đều giảng thuyết chánh pháp,
Cùng đủ mọi nhân duyên,
Và vô số thí dụ,
Làm sáng tỏ Phật pháp,
Để khai ngộ chúng sanh.

Với những người gặp khổ,
Chán bỏ già, bệnh, chết,
Vì họ thuyết Niết-bàn,
Dứt hết mọi cảnh khổ.

Với những người có phước,
Đã từng cúng dường Phật,
Quyết cầu pháp vượt trội,
Liền dạy pháp Duyên giác;

Riêng với hàng con Phật,
Tu đủ mọi công hạnh,
Cầu trí tuệ Vô thượng,
Liền thuyết đạo thanh tịnh.

Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi ở tại nơi đây,
Thấy nghe những việc ấy,
Cùng muôn ngàn việc khác,
Hội chúng đủ hạng người,
Nay chỉ xin lược nói.

Tôi thấy những cõi kia,
Có vô số Bồ Tát,
Dùng đủ mọi nhân duyên,
Để cầu thành Phật đạo.

Có người thường bố thí,
Vàng bạc với san hô,
Hạt châu quý ma-ni,
Xa cừ cùng mã não,

Kim cương, các trân bảo,
Nô tỳ và xe cộ,
Trang trí bằng châu báu,
Đều hoan hỷ bố thí.

Hồi hướng cầu Phật đạo,
Nguyện đạt được Phật thừa,
Bậc nhất trong ba cõi,
Chư Phật đều khen ngợi.

Hoặc có những Bồ Tát,
Bố thí cả xe quý,
Có bốn ngựa, lọng che,
Cùng trang sức xinh đẹp.

Lại thấy các Bồ Tát,
Bố thí cả xương thịt,
Chân tay cùng vợ con,
Vì cầu đạo Vô thượng.

Lại thấy các Bồ Tát,
Ưa thích, vui mừng thí,
Đầu, mắt cùng thân thể,
Vì cầu trí tuệ Phật.

Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi thấy các vị vua,
Đến viếng thăm chỗ Phật,
Thưa hỏi đạo Vô thượng,
Rồi bỏ cõi dục lạc,
Cung điện nhiều mỹ nữ,
Cạo sạch cả râu tóc,
Mặc pháp phục xuất gia.

Hoặc thấy các Bồ Tát,
Mà hiện làm tỳ-kheo,
Sống cô độc nhàn tĩnh,
Ưa thích tụng kinh điển.

Lại thấy các Bồ Tát,
Sức dũng mãnh tinh tấn,
Vào tận trong núi sâu,
Nỗ lực tư duy đạo.

Lại thấy bậc ly dục,
Thường sống nơi nhàn tịnh,
Tu sâu pháp thiền định,
Đạt được năm thần thông.

Lại thấy các Bồ Tát,
Trong thiền định chắp tay,
Dùng muôn ngàn lời kệ,
Ngợi khen các đức Phật.

Lại thấy các Bồ Tát
Trí sâu chí nguyện vững,
Thường thưa hỏi chư Phật,
Nghe giảng liền thọ trì.

Lại thấy hàng con Phật,
Đã trọn đủ định, tuệ,
Dùng vô số thí dụ,
Vì đại chúng giảng pháp.

Vui thích thuyết chánh pháp,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Phá trừ hết quân ma,
Đánh vang rền trống Pháp.

Lại thấy các Bồ Tát,
Trụ yên trong tịch lặng,
Trời, rồng đều cung kính,
Nhưng không lấy làm vui.

Lại thấy các Bồ Tát,
Từ rừng sâu phóng quang,
Chúng sanh khổ địa ngục,
Khiến được vào đạo Phật.

Lại thấy hàng con Phật,
Tỉnh thức không ngủ nghỉ,
Trong rừng sâu kinh hành,
Chuyên cần cầu đạo Phật.

Lại thấy người giữ giới,
Oai nghi không khuyết tổn,
Trong sáng như châu ngọc,
Để cầu thành Phật đạo.

Lại thấy hàng con Phật,
An trụ sức nhẫn nhục,
Dù những kẻ kiêu mạn,
Mắng chửi và đánh đập,
Cũng đều nhẫn nhịn được,
Để cầu thành Phật đạo.

Lại thấy hàng Bồ Tát,
Lìa xa chuyện cợt đùa,
Không gần kẻ ngu si,
Thân cận bậc trí tuệ,
Chuyên tâm trừ loạn tưởng,
Giữa núi rừng nhiếp tâm,
Trong suốt muôn ngàn năm,
Để cầu thành Phật đạo.

Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Dùng thức ăn ngon quý,
Cùng trăm loại thuốc thang,
Cúng dường Phật và Tăng.

Dùng y phục thượng hạng,
Giá muôn ngàn lượng vàng,
Hoặc quý báu vô giá,
Cúng dường Phật và Tăng.

Dùng trăm ngàn muôn loại,
Nhà quý gỗ chiên-đàn,
Với tòa ngồi tốt đẹp,
Cúng dường Phật và Tăng.

Dâng vườn rừng yên tĩnh,
Có hoa trái sum suê,
Suối chảy, hồ trong mát,
Cúng dường Phật và Tăng.

Cúng dường những thứ ấy,
Đều tốt đẹp nhiệm mầu,
Tâm hoan hỷ không chán,
Vì cầu đạo Vô thượng.

Hoặc có hàng Bồ Tát,
Thuyết giảng pháp tịch diệt,
Dùng mọi cách chỉ bày,
Cho vô số chúng sanh.

Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Quán chiếu các tánh pháp,
Vốn thật không hai tướng,
Thảy đều như hư không.

Lại thấy hàng con Phật,
Tâm không chút dính mắc,
Dùng trí tuệ nhiệm mầu,
Để cầu đạo Vô thượng.

Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Lại có hàng Bồ Tát,
Sau khi Phật diệt độ,
Liền cúng dường xá-lợi.

Lại thấy hàng con Phật,
Xây dựng các tháp miếu,
Nhiều như cát sông Hằng,
Làm trang nghiêm cõi nước.

Tháp báu đẹp tuyệt vời,
Cao năm ngàn do-tuần,
Ngang, rộng giống như nhau,
Đều hai ngàn do-tuần.

Mỗi một ngôi tháp miếu,
Đều có ngàn cờ phướn,
Cùng màn ngọc phủ che,
Với chuông nhỏ hòa ngân.

Có chư thiên, long, thần,
Người và loài phi nhân,
Dùng hương, hoa, âm nhạc,
Thường dâng lên cúng dường.

Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Hết thảy hàng Phật tử,
Vì cúng dường xá-lợi,
Nên trang nghiêm tháp miếu,
Khắp cõi nước tự nhiên,
Thành tươi đẹp tuyệt vời,
Như cây chúa cõi trời,
Đang mùa hoa nở rộ.

Một lần Phật phóng quang,
Tôi cùng cả hội chúng,
Đều thấy cõi nước này,
Đủ mọi vẻ tươi đẹp.

Thần lực của chư Phật,
Trí tuệ thật ít có,
Phóng hào quang thanh tịnh,
Chiếu vô số cõi nước.

Chúng tôi đều được thấy,
Việc xưa nay chưa có.
Nguyện Phật tử Văn-thù!
Vì đại chúng giải nghi.

Bốn chúng đều ngưỡng vọng,
Mong đợi ngài và tôi,
Nói rõ Phật vì sao,
Phóng tỏa hào quang này.
Xin kịp thời giải đáp,
Dứt nghi để được vui.

Lại vì lợi ích gì,
Phật hiện phóng hào quang?
Phật ngồi nơi đạo trường,
Đã chứng đắc diệu pháp,
Nay sẽ thuyết pháp ấy,
Hay vì ai thụ ký?
Nên hiện các cõi Phật,
Với châu báu nghiêm tịnh.
Lại thấy các cõi Phật,
Chẳng phải duyên nhỏ nhặt.

Ngài Văn-thù nên biết,
Bốn chúng, hàng trời, rồng...
Đều mong ngóng chờ xem,
Ngài nói ra những gì?

Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc, các vị đại sĩ và thiện nam tử: “Theo như tôi suy xét thì nay đức Phật Thế Tôn muốn thuyết pháp lớn lao, mưa xuống cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn,[67] đánh tiếng trống pháp lớn, diễn giảng nghĩa pháp lớn.

“Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ từng thấy điềm lành này, phóng hào quang này rồi ắt thuyết pháp lớn lao. Cho nên biết được rằng, nay Phật hiện hào quang cũng giống như vậy, muốn cho chúng sanh thảy đều nghe biết pháp khó tin nhận với tất cả thế gian, cho nên hiện điềm lành này.

“Các thiện nam tử! Như trong quá khứ cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì số kiếp.

“Lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh[68] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.[69]

“[Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, sau cùng cũng tốt đẹp, ý nghĩa sâu xa, ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm, thuần khiết không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của hạnh thanh tịnh trong sáng.

“Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế[70] thích hợp, vượt thoát sinh già bệnh chết, rốt ráo đạt Niết-bàn; vì người cầu quả Duyên giác[71] mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp; vì các Bồ Tát mà thuyết sáu ba-la-mật[72] thích hợp, khiến cho đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu Nhất thiết chủng trí.[73]

“Tiếp đến có Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, rồi tiếp nữa lại có Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy đến 20.000 vị Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại cũng đồng một dòng họ là Phả-la-đọa. Ngài Di-lặc nên biết, từ vị Phật ban đầu đến vị Phật cuối cùng đều cùng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều có đầy đủ mười đức hiệu, và những điều thuyết pháp từ ban sơ, khoảng giữa cho đến cuối cùng đều tốt đẹp.

“Vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con. Người thứ nhất tên là Hữu Ý, thứ hai là Thiện Ý, thứ ba là Vô Lượng Ý, thứ tư là Bảo Ý, thứ năm là Tăng Ý, thứ sáu là Trừ Nghi Ý, thứ bảy là Hưởng Ý, thứ tám là Pháp Ý. Tám vị vương tử này đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều cai trị bốn thiên hạ. Các vị vương tử nghe tin phụ vương xuất gia, đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền xả bỏ vương vị theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều là những vị pháp sư, ở nơi muôn ngàn đức Phật trồng các cội lành.

“Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết kinh xong liền ở giữa đại chúng ngồi kết già nhập tam-muội Vô lượng nghĩa xứ,[74] thân tâm chẳng động. Khi ấy, trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rải lên thân Phật và đại chúng. Khắp cõi Phật, mặt đất chấn động theo sáu cách. Khi ấy trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương... Đại chúng như vậy được việc chưa từng có, đều hoan hỷ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật. Khi ấy, đức Như Lai phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày, soi chiếu về phương đông đến 18.000 cõi Phật, không nơi nào không soi thấu, cũng giống như ngày nay đã thấy hiển bày các cõi Phật. Ngài Di-lặc nên biết, khi ấy trong chúng hội có hai triệu Bồ Tát ưa muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát này thấy hào quang soi chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn rõ biết nhân duyên của hào quang này.

“Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang,[75] có 800 người đệ tử. Khi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội, nhân vì Bồ Tát Diệu Quang mà thuyết kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm, trong 60 tiểu kiếp không đứng dậy khỏi tòa ngồi. Chúng hội cũng ngồi yên một chỗ, trong 60 tiểu kiếp thân tâm không dao động, lắng nghe Phật thuyết kinh, đều cảm thấy chỉ như thời gian một bữa ăn. Lúc ấy trong chúng hội không một người nào thấy thân hoặc tâm sinh ra lười mỏi.

“Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi, liền tuyên bố với chúng hội gồm các vị phạm chí, ma, sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, người, a-tu-la rằng: ‘Hôm nay vào lúc giữa đêm, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn Vô dư.’[76]

“Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng,[77] Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thụ ký, nói với các vị tỳ-kheo: ‘Bồ Tát Đức Tạng này sẽ thành Phật tiếp theo, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác…’[78]

“Đức Phật thụ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn Vô dư. Sau khi Phật diệt độ, Bồ Tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trọn 80 tiểu kiếp vì người khác giảng thuyết. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thờ ngài Diệu Quang làm thầy, được ngài dạy dỗ, khiến cho được tâm kiên cố đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh Giác. Các vương tử này, sau khi cúng dường vô số trăm ngàn muôn ức vị Phật rồi thảy đều thành Phật. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong số 800 đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham chấp lợi dưỡng, tuy cũng tụng đọc kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều đều quên mất, cho nên có hiệu là Cầu Danh. Người này vì cũng từng gieo trồng nhiều căn lành nên được gặp vô số trăm ngàn muôn ức đức Phật, đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.

“Ngài Di-lặc nên biết, Bồ Tát Diệu Quang thuở ấy nào phải ai khác, chính là tôi đây. Còn Bồ Tát Cầu Danh chính là ngài đó.

“Nay tôi thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác, nên suy xét rằng: “Hôm nay đức Như Lai sẽ thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.”

Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi ở giữa đại chúng muốn trùng tuyên ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

Tôi nhớ đời quá khứ,
Vô lượng vô số kiếp,
Có Phật, đấng cao quý,
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.

Thế Tôn thuyết giảng pháp,
Độ vô lượng chúng sanh,
Vô số ức Bồ Tát,
Khiến vào trí tuệ Phật.

Khi Phật chưa xuất gia,
Sinh ra tám vương tử,
Thấy Đại thánh xuất gia,
Cũng theo tu thanh tịnh.

Khi Phật thuyết Đại thừa,
Kinh tên Vô Lượng Nghĩa,
Liền ở giữa đại chúng,
Vì người rộng phân biệt.

Phật thuyết kinh ấy rồi,
Liền ngồi trên pháp tòa,
Kết già nhập tam-muội,
Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ.

Trời mưa hoa mạn-đà,
Trống trời tự nhiên vang,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Cúng dường Bậc Tôn quý.

Hết thảy bao cõi Phật,
Đều tức thời chấn động,
Phật phóng quang giữa mày,
Hiện những việc ít có.

Hào quang chiếu phương đông,
Mười tám ngàn cõi Phật,
Chúng sanh đều được thấy,
Chỗ nghiệp báo sinh tử.

Cũng thấy các cõi Phật,
Dùng châu báu trang nghiêm,
Màu lưu ly, pha lê,
Đều do hào quang Phật.

Lại thấy chúng trời người,
Rồng, thần và dạ-xoa,
Càn-thát, khẩn na la,
Đều cúng dường Phật ấy.

Lại thấy các vị Phật,
Tự nhiên thành Phật đạo,
Thân sáng như núi vàng,
Đoan nghiêm rất vi diệu.

Trong sạch như lưu ly,
Hiện thành tượng vàng ròng,
Thế Tôn giữa đại chúng,
Rộng thuyết pháp sâu mầu.

Nơi mỗi một cõi Phật,
Có vô số Thanh văn,
Nương hào quang Phật chiếu,
Thấy rõ các chúng ấy.

Hoặc có những tỳ-kheo,
Thường sống giữa núi rừng,
Tinh tấn giữ giới hạnh,
Như giữ hạt minh châu.

Lại nhờ hào quang Phật,
Thấy được các Bồ Tát,
Hành bố thí, nhẫn nhục...
Nhiều như cát sông Hằng.

Lại thấy các Bồ Tát,
Vào sâu các thiền định,
Thân tâm lặng chẳng động,
Để cầu đạo Vô thượng.

Lại thấy các Bồ Tát,
Biết tướng pháp tịch diệt,
Ở nơi cõi nước mình,
Thuyết pháp cầu đạo Phật.

Bấy giờ cả bốn chúng,
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng,
Hiện sức thần thông lớn,
Trong tâm đều hoan hỷ,

Các vị cùng hỏi nhau,
Đây là nhân duyên gì?
Đấng trời người tôn kính,
Vừa ra khỏi tam-muội,
Khen Bồ Tát Diệu Quang,
Ông là tai mắt đời,
Người người đều tin theo.
Có thể giữ kho pháp,
Những gì ta thuyết giảng,
Chỉ riêng ông rõ biết.

Thế Tôn ngợi khen rồi,
Khiến Diệu Quang hoan hỷ,
Liền thuyết kinh Pháp hoa,
Trọn sáu mươi tiểu kiếp,
Không rời khỏi chỗ ngồi.
Pháp nhiệm mầu Phật thuyết,
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Đều có thể thọ trì.

Phật thuyết kinh Pháp Hoa,
Khiến đại chúng hoan hỷ,
Rồi ngay trong ngày ấy,
Bảo khắp chúng trời, người:

“Nghĩa thật tướng các pháp,
Đã vì chúng giảng thuyết,
Nay vào giữa đêm này,
Ta sẽ nhập Niết-bàn.

Hãy chuyên tâm tinh tấn,
Lìa xa thói phóng túng,
Cơ hội gặp Phật khó,
Trăm ngàn kiếp mới có.”

Hàng đệ tử Thế Tôn,
Nghe Phật nhập Niết-bàn,
Ai ai cũng bi thương,
Sao Phật chóng nhập diệt?

Bậc Thánh chủ Pháp vương,
An ủi vô số chúng:
“Như Ta diệt độ rồi,
Các người chớ lo sợ.

Bồ Tát Đức Tạng đây,
Tâm đã rõ thông được,
Tướng thật pháp vô lậu,
Kế tiếp sẽ thành Phật,
Hiệu Tịnh Thân Như Lai,
Cũng độ vô số chúng.”

Đêm ấy Phật diệt độ,
Như củi hết lửa tắt.
Phân chia Xá-lợi Phật,
Rồi dựng vô số tháp.

Tỳ-kheo, tỳ-kheo ni,
Nhiều như cát sông Hằng,
Lại càng thêm tinh tấn,
Để cầu đạo Vô thượng.

Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Vâng giữ pháp tạng Phật,
Trong tám mươi tiểu kiếp,
Rộng thuyết kinh Pháp hoa.

Tám vương tử con Phật,
Được Diệu Quang chỉ bày,
Vững vàng trong đạo Phật,
Rồi gặp vô số Phật,
Đều cung kính cúng dường,
Vâng theo tu hành đạo,
Tiếp nối đều thành Phật,
Lần lượt được thụ ký.

Cho đến Phật sau cùng,
Hiệu là Phật Nhiên Đăng,
Là thầy các tiên nhân,
Độ thoát vô số chúng.

Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Lại có một đệ tử,
Thường ôm lòng biếng nhác,
Mê đắm đường danh lợi,
Tham cầu không biết chán,
Giao du các nhà giàu,
Tụng kinh rồi vất bỏ,
Quên mất không rõ nghĩa.

Vì nhân duyên như thế,
Nên tên là Cầu Danh.
Nhưng tạo các nghiệp lành,
Được gặp vô số Phật,
Cúng dường chư Phật rồi,
Vâng theo, tu hành đạo,
Đủ sáu ba-la-mật,
Nay gặp đức Thích-ca.

Sau này sẽ thành Phật,
Hiệu là Phật Di-lặc,
Rộng độ khắp chúng sanh,
Số nhiều đến vô lượng.

Phật xưa diệt độ rồi,
Cầu Danh chính là ông.
Còn Pháp sư Diệu Quang,
Nay chính là tôi đây.

Tôi thấy Phật Đăng Minh,
Xưa phóng quang như thế,
Nên biết Phật ngày nay,
Sắp thuyết kinh Pháp Hoa.

Tướng nay, điềm lành xưa,
Là phương tiện chư Phật.
Nay Phật phóng hào quang,
Giúp hiện nghĩa tướng thật.

Chư vị nay nên biết,
Chắp tay một lòng chờ,
Phật sẽ ban mưa pháp,
Sung túc người cầu đạo.

Người cầu quả Tam thừa,
Nếu như còn nghi vấn,
Phật sẽ giúp đoạn trừ,
Dứt sạch không còn nghi.

____________________

CHÚ THÍCH

[1] Nguyên tác Hán văn là “大比丘眾萬二千人俱, 皆是阿羅漢 - đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu, giai thị A-la-hán” (chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là bậc A-la-hán). Tuy nhiên, kinh Chánh Pháp Hoa ở chỗ này nói là 1.200 vị tỳ-kheo: “比丘千二百, 一 切無著 - tỳ-kheo thiên nhị bá, nhất thiết vô trước”. Bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern cũng nói là 1.200 vị: “twelve hundred monks, all of them Arhats” (1.200 vị tăng, tất cả đều là bậc A-la-hán). Lại xét trong chính bản dịch này, phẩm Phương tiện nói: “爾時大眾中有諸聲聞漏盡阿羅漢,阿若憍陳如等千二百人 - Nhĩ thời đại chúng trung hữu chư Thanh văn lậu tận A-la-hán, A-nhã Kiều-trần-như đẳng thiên nhị bá nhân…” (Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị.) (ĐCT, T9, 262, tr.6a, d.28-29) Tiếp theo, trong phẩm Thí dụ, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: “是諸千二百心自在者,昔住學地 - Thị chư thiên nhị bá tâm tự tại giả, tích trụ học địa…” (Trong số 1.200 vị đạt tâm tự tại ở đây, thuở xưa khi còn ở bậc hữu học…) (ĐCT, T9, 262, tr.12b, d.3-4) Ngoài ra còn nhiều nơi khác trong kinh khi nhắc đến số A-la-hán cũng đều dùng số 1.200 vị, nhưng không có bất kỳ nơi nào khác nêu số lượng 12.000. Như vậy có thể kết luận rằng con số 12.000 ở đây là nhầm lẫn, nên phải điều chỉnh đúng là 1.200.

[2] A-nhã Kiều-trần-như (H. 阿若憍陳如, S. Ājñātakauṇḍinya), một trong 5 vị tỳ-kheo được Phật giáo hóa trước tiên tại vườn Lộc uyển. Các vị này đều đã từng tu khổ hạnh với đức Phật.

[3] Ma-ha Ca-diếp (H. 摩訶迦葉, S. Mahākāśyapa), cũng gọi là Đại Ca-diếp, một trong 10 đại đệ tử của Phật, được đức Phật khen ngợi là Đệ nhất Đầu-đà (頭陀第一).

[4] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (H. 優樓頻螺迦葉, S. Uruvilvā-kāśyapa), cũng gọi là Kỳ niên Ca-diếp (耆年迦葉). Ông là anh trưởng trong 3 anh em cùng từ bỏ phái ngoại đạo thờ lửa để dẫn tất cả đệ tử của mình về quy y theo Phật. Hai người em cũng được kể ra ở đây là Già-da Ca-diếp (H. 伽 耶迦葉, S. Gayā-kāśyapa) và Na-đề Ca-diếp (H. 那提迦葉, S. Nadī-kāśyapa)

[5] Xá-lợi-phất (H. 舍利弗, S. Śāriputra), một trong 10 đại đệ tử của Phật, cũng được gọi là Xá-lợi Tử (舍利子), Thân Tử (身子), trong kinh Tỳ-kheo Na-tiên gọi là Xá-lê-viết (舍犁曰). Xá-lợi-phất thông minh xuất chúng, từng theo học và thông suốt các luận giải ngoại đạo trước khi quy y Phật. Ngài được Phật khen ngợi là Đệ nhất Trí tuệ (智慧第一).

[6] Đại Mục-kiền-liên, tức Ma-ha Mục-kiền-liên (H. 摩訶目犍連, S. Mahā-maudgalyayāna), một trong 10 đại đệ tử của Phật, là bạn thân với Xá-lợi-phất từ trước khi xuất gia, cùng theo học ngoại đạo. Sau khi Xá-lợi-phất quy y Phật thì Mục-kiền-liên cũng quy y Phật. Ngài được Phật khen ngợi là Đệ nhất Thần thông (神通第一).

[7] Ma-ha Ca-chiên-diên (H. 摩訶迦旃延, S. Mahākātyāyana), một trong 10 đại đệ tử của Phật, từng theo học với tiên nhân A-tư-đà là người xem tướng cho thái tử Tất-đạt-đa lúc mới ra đời. A-tư-đà biết tuổi thọ của mình không còn đủ để được gặp Phật nên dặn dò Ca-chiên-diên sau này nên theo học với Phật. Ngài là người có tài biện luận khuất phục ngoại đạo, được đức Phật ngợi khen là Đệ nhất Luận nghị (論義第一).

[8] A-nậu-lâu-đà (H. 阿㝹樓馱, S. Aniruddha), thường gọi là A-na-luật, một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ngài là người họ Thích, là em họ của Thái tử Tất-đạt-đa, đã xuất gia cùng lúc với nhiều vương tử khác trong dịp đức Phật quay về Ca-tỳ-la-vệ. Sau khi xuất gia, ngài tinh tấn tu tập, nhưng có lần quá mệt mỏi nên ngủ gục trong lúc Phật thuyết pháp, bị Phật quở trách. Từ đó ngài phát nguyện không ngủ, đến nỗi bị đau mắt rồi mù lòa. Ngài càng tinh tấn tu tập hơn nữa và chứng được thiên nhãn, nhìn thấy mà không cần mắt thịt, được đức Phật khen ngợi là Đệ nhất Thiên nhãn (天眼第一).

[9] Kiếp-tân-na (H. 劫賓那, S. Kapphiṇa), cũng gọi là Ma-ha Kiếp-tân-na (摩呵劫賓那). Ngài chỉ nghe biết đạo Phật rồi xuất gia tu hành nhưng chưa được gặp Phật. Vì thế, trên đường đi có lần ngài xin nghỉ nhờ trong nhà một người thợ làm đồ gốm, được ở chung phòng với Phật mà không biết, nhưng nghe Phật thuyết pháp liền giác ngộ, sau đó mới biết người thuyết pháp là Phật.

[10] Kiều-phạm-ba-đề (H. 憍梵波提, S. Gavāṃpati), Hán dịch là Ngưu Tích (牛跡) hay Ngưu Chủ (牛主), vì miệng ngài có thói quen nhóp nhép nhai suốt ngày giống như loài trâu bò nhai lại, được cho là do tập khí từ nhiều đời trước. Để tránh cho người đời khỏi nhìn thấy và chế giễu ngài rồi phải mắc tội, nên ngay trong thời Phật tại thế, ngài vẫn thường lên sống và tu tập thiền định trên cung trời Đao-lợi.

[11] Ly-bà-đa (H. 離婆多, S. Revata), là em của ngài Xá-lợi-phất. Kinh Tăng nhất A-hàm nói rằng ngài là người giỏi tọa thiền nhập định, luôn giữ tâm không điên đảo tán loạn.

[12] Tất-lăng-già-bà-sa (H. 畢陵伽婆蹉, S. Pilin-da-vatsa), Hán dịch là Dư Tập (惡口) hoặc Ác Khẩu (餘習), vì ngài có tập khí từ xưa chưa bỏ được nên nói năng thô lỗ, thường mắng nhiếc người khác nặng lời.

[13] Bạc-câu-la (H. 薄拘羅, S. Bakkula), Hán dịch là Thiện Dung (善容) vì ngài có dung mạo đoan nghiêm đẹp đẽ. Khi chưa xuất gia, ngài từng bị mẹ kế tìm cách giết hại 5 lần nhưng đều không thành. Sau khi xuất gia, suốt đời ngài không hề mắc phải bệnh tật gì và sống đến 160 tuổi.

[14] Ma-ha Câu-hi-la (H. 摩訶拘絺羅, S. Mahākauṣṭhila), Hán dịch là Đại Tất (大膝) hoặc Đại Thắng (大勝). Ngài là cậu của ngài Xá-lợi-phất, khi chưa xuất gia chính là Phạm-chí Trường Trảo, người uyên bác các luận giải ngoại đạo. Vì chuyên tâm học luận đến nỗi không có thời gian cắt móng tay, để dài thường xuyên nên gọi là “trường trảo”.

[15] Nan-đà (H. 難陀, S. Nanda), cũng gọi là Phóng ngưu Nan-đà (放牛難陀), vì trước khi xuất gia vốn là người chăn trâu. Khi vua Tần-bà-sa-la thỉnh Phật và tăng chúng an cư trong 3 tháng thì ngài cúng dường sữa đều đặn mỗi ngày. Vua thấy tâm thành nên cho phép ngài được gặp Phật. Ngài đem việc chăn trâu thưa hỏi, nhân đó Phật đã thu-yết kinh Phóng ngưu (佛說放牛經). Ngài kính phục nên xin được xuất gia tu học từ đó.

[16] Tôn-đà-la Nan-đà (H. 孫陀羅難陀, S. Sundara-nanda), là em trai cùng cha khác mẹ với thái tử Tất-đạt-đa. Ngài có dung nhan rất đẹp, đủ 30 tướng tốt, là người ưa thích nữ sắc, lại cưới người vợ rất đẹp là Tôn-đà-lợi (Sundarī). Sau khi xuất gia vẫn không quên được người vợ nên nhiều lần quay về nhà. Đức Phật dùng phương tiện chỉ ra cho thấy sự vô thường của thế gian, khiến ngài trừ được ái dục, từ đó tinh tấn tu hành.

[17] Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử (H. 富樓那彌多羅尼子, S. Pūrṇa-maitrāyaṇīputra), Hán dịch là Mãn Từ Tử (滿慈子), một trong 10 đại đệ tử của Phật, có tài biện luận, giỏi việc thuyết pháp, được Phật khen ngợi là Đệ nhất Thuyết pháp (說法第一).

[18] Tu-bồ-đề (H. 須菩提, S. Subhūti), Hán dịch là Thiện Hiện (善現) hoặc Không Sanh (空生), một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ngài sinh trong nhà bà-la-môn, thông minh xuất chúng nhưng tính tình nóng nảy, sân hận. Sau được Phật giáo hóa tự biết lỗi lầm, sám hối, từ bỏ tánh xấu, sau chứng quả A-la-hán, được Phật khen ngợi là người thấu hiểu về nghĩa Không giỏi nhất, gọi là Đệ nhất Giải không (解空第一).

[19] A-nan, tức A-nan-đà (H. 阿難陀, S. Ānanda), Hán dịch là Khánh Hỷ (慶喜), là em họ của Thái tử Tất-đạt-đa, một trong 10 đại đệ tử của Phật và cũng là thị giả theo hầu bên Phật. Ngài giữ vai trò quan trọng nhất trong việc truyền lại kinh điển, vì có điều kiện nghe tất cả các kinh Phật thuyết cũng như có trí nhớ siêu việt để truyền lại không sai sót, được Phật khen ngợi là Đệ nhất Đa văn (多聞第一).

[20] La-hầu-la (H. 羅睺羅, S. Rāhula), là con trai của Thái tử Tất-đạt-đa, xuất gia nhân dịp Phật quay về thăm Ca-tỳ-la-vệ và trở thành sa-di nhỏ tuổi nhất khi đó. Về sau, ngài là một trong 10 đại đệ tử của Phật và được Phật khen ngợi là Đệ nhất Mật hạnh (密行第一).

[21] Nguyên tác là “眾所知識 - chúng sở tri thức”, chỉ đến việc nhiều người trong đại chúng đều nghe danh biết đến. Văn cú của ngài Trí Khải cũng đưa ra cách hiểu: “Nghe danh là tri, được gặp gỡ nhìn thấy là thức.” Như vậy, tri thức ở đây chỉ đến danh tiếng được đại chúng biết đến.

[22] Hữu học (H. 有學, S. śaikṣa) và vô học (H. 無學, S. aśaikṣa). Hữu học nghĩa là còn phải học tập; vô học là không còn gì phải học, vì đã đoạn trừ hết mọi sự nghi hoặc. Trong 4 thánh quả Tiểu thừa thì cả 3 quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm đều là hữu học, riêng quả A-la-hán là bậc vô học.

[23] Ma-ha Ba-xà-ba-đề (H. 摩呵波闍波提, S. Mahāprajāpatī), Hán dịch là Đại Ái Đạo (大愛道), di mẫu của Thái tử Tất-đạt-đa, em gái của Hoàng hậu Ma-da. Vì hoàng hậu qua đời chỉ 7 ngày sau khi sinh thái tử, nên bà là người thay thế nuôi dưỡng thái tử đến khi trưởng thành. Sau khi Phật thành đạo được 5 năm, vua Tịnh Phạn băng hà, bà và Da-du-đà-la cùng 500 phụ nữ khác cùng xin xuất gia tu tập và được Phật cho phép, trở thành những tỳ-kheo-ni đầu tiên. Bà cũng là người đầu tiên đứng đầu Ni giới trong đạo Phật. Bà nhập diệt trước khi Phật nhập Niết-bàn 3 tháng.

[24] Da-du-đà-la (H. 耶輸陀羅, S. Yaśodharā), vợ của Thái tử Tất-đạt-đa và là mẹ của La-hầu-la, xuất gia cùng lúc với bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề sau khi Phật thành đạo 5 năm.

[25] Nguyên tác dùng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (H. 阿耨多羅三藐三菩提, S. anuttara-samyak-saṃbodhi), Hán dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (無上正等正覺), cũng tức là quả Phật.

[26] Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (H. 文殊師利, S. Mañjuśrī), Hán dịch là Diệu Đức (妙德) hoặc Diệu Cát Tường (妙吉祥), được xem là bậc đệ nhất trí tuệ trong hàng Bồ Tát.

[27] Bồ Tát Quán Thế Âm (H. 觀世音, S. Ava-lokiteśvara), là vị Bồ Tát sẽ được nói đến trong phẩm Phổ Môn của kinh này.

[28] Bồ Tát Đắc Đại Thế (H. 得大勢, S. Mahā-sthāma-prāpta), cũng được gọi là Bồ Tát Đại Thế Chí. Trong Tịnh độ tông, Bồ Tát Đại Thế Chí và Bồ Tát Quán Thế Âm cùng với đức Phật A-di-đà được tôn xưng là Tây phương Tam thánh.

[29] Bồ Tát Thường Tinh Tấn (H. 常精進菩薩, S. Nityāyukta).

[30] Bồ Tát Bất Hưu Tức (H. 不休息菩薩, S. Ani-kṣiptadhura).

[31] Bồ Tát Bảo Chưởng (H. 寶掌菩薩, S. Ratnapāṇi).

[32] Bồ Tát Dược Vương (H. 藥王菩薩, S. Bhaiṣa-jyarāja).

[33] Bồ Tát Dũng Thí (H. 勇施菩薩, S. Pradānaśūra).

[34] Bồ Tát Bảo Nguyệt (H. 寶月菩薩, S. Ratnacandra).

[35] Bồ Tát Nguyệt Quang (H. 月光菩薩, S. Candraprabha).

[36] Bồ Tát Mãn Nguyệt (H. 滿月菩薩, S. Pūrṇacandra)

[37] Bồ Tát Đại Lực (H. 大力菩薩, S. Mahāvikrāmin).

[38] Bồ Tát Vô Lượng Lực (H. 無量力菩薩, S. Anantavikramin).

[39] Bồ Tát Việt Tam Giới (H. 越三界菩薩, S. Trailokyavikrāmin).

[40] Bồ Tát Bạt-đà-bà-la (H. 跋陀婆羅菩薩, S. Bhadrapāla), tức Bồ Tát Hiền Hộ (賢護菩薩).

[41] Bồ Tát Di-lặc (H. 彌勒菩薩, S. Maitreya), Hán dịch là Từ Thị (慈氏), là vị Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành Phật tiếp theo sau đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hiện nay ngài đang thuyết pháp ở cung trời Đâu-suất.

[42] Bồ Tát Bảo Tích (H. 寶積菩薩, S. Ratnamakuṭa).

[43] Bồ Tát Đạo Sư (H. 導師菩薩, S. Susārthavāha).

[44] Thích-đề-hoàn-nhân (H. 釋提桓因, S. Śakra devānām indraḥ), cũng gọi là Đế-thích (帝釋) hay Thiên đế thích (天帝釋), là vị Thiên chủ ở cõi trời Đao-lợi.

[45] Tứ đại thiên vương (H. 四大天王, S. Caturmahārājakāyikās), cũng gọi Hộ thế tứ vương (護世四天王), là bốn vị trời ở 4 phương lưng chừng núi Tu-di, hộ trì Phật pháp và che chở chúng sinh trong 4 châu, bao gồm: Trì Quốc Thiên (H. 持國天, S. Dhṛitarāṣṭra) ở phương đông; Tăng Trưởng Thiên (H. 增長天, S. Virūḍhaka) ở phương nam, Quảng Mục Thiên (H. 廣目天, S. Virūpākṣa) ở phương tây và Đa Văn Thiên (H. 多聞天, S. Vaiśramaṇa) ở phương bắc.

[46] Phạm thiên vương (H. 梵天王, S. Sahāṃpati), là vị Thiên chủ ở cõi trời Sơ thiền thuộc Sắc giới, được xem là chủ thế giới Ta-bà.

[47] Đại Phạm Thi-khí (H. 尸棄大梵, S. Śikhin).

[48] Đại Phạm Quang Minh (H. 光明大梵, S. Jyotiṣprabha).

[49] Long vương (H. 龍王, S. nāgarāja), chúa loài rồng, một trong 8 bộ chúng.

[50] Tên các vị này lần lượt là: Nan-đà (H. 難陀, S. Nanda), Bạt-nan-đà (H. 跋難陀, S. Upananda), Sa-già-la (H. 娑伽羅, S. Sāgara), Hòa-tu-cát (H. 和修吉, S. Vāsuki), Đức-xoa-ca (H. 德叉迦, S. Takṣaka), A-na-bà-đạt-đa (H. 阿那婆達多, S. Anavatapta), Ma-na-tư (H. 摩那斯, S. Manasvin), Ưu-bát-la (H. 優鉢羅, S. Utpalaka).

[51] Khẩn-na-la (H. 緊那羅, S. kiṃnara), là một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là nhạc thần, được xem là thần phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.

[52] Càn-thát-bà (H. 乾闥婆, S. gandharva), là một trong 8 bộ chúng, chỉ dùng hương thơm làm thức ăn nên được gọi là hương thần, cùng với khẩn-na-la phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.

[53] A-tu-la (H. 阿修羅, S. asura), một trong 8 bộ chúng, được gọi là phi thiên vì có thần thông như chư thiên nhưng kém về phước đức. A-tu-la là loài nhiều sân hận, thường gây chiến tranh với chư thiên. A-tu-la được xếp vào một trong lục đạo, bao gồm: trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[54] Ca-lâu-la (H. 迦樓羅, S. garuḍa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là ca-lâu-la điểu (迦樓羅鳥) hay kim sí điểu (金翅鳥) vì là loài chim lớn có cánh màu vàng. Do nghiệp lực nên loài này lấy loài rồng làm thức ăn.

[55] Vua A-xà-thế (H. 阿闍世王, S. Ajātaśatru), con vua Tần-bà-sa-la (H. S. Bimbisāra) và hoàng hậu Vi-đề-hy (H. 韋提希, S. Vaidehī). Tên của ông có nghĩa là “vị sinh oán” (未生怨), nghĩa là chưa sinh ra đã có sẵn mối oán cừu, vì khi còn trong bụng mẹ có một vị thầy đoán là sau này ông sẽ giết cha nên được đặt tên như vậy. Về sau quả nhiên ông giết vua Tần-bà-sa-la để soán ngôi. Do tội giết cha nên hối hận lo sợ, cuối cùng tìm đến đức Phật, nghe pháp được giác ngộ và từ đó trở thành một vị đại hộ pháp.

[56] Kinh Vô lượng nghĩa (無量義經), tuy được nhắc đến trong kinh Pháp Hoa này nhưng phải đến đời Tiêu Tề (479-502) mới được ngài Đàm-ma-già-đà-da-xá (曇摩伽 陀耶舍) Hán dịch. Hiện còn trong Đại Chánh tạng ở Tập 9, kinh số 276.

[57] Hoa mạn-đà-la (H. S. māndāra), một loại hoa cõi trời màu đỏ tươi, rất đẹp, khiến người nhìn thấy sinh tâm vui thích. Cùng loại hoa này nhưng lớn hơn gọi là ma-ha mạn-đà-la (摩訶曼陀羅華).

[58] Hoa mạn-thù-sa (H. 曼殊沙華, S. mañjūṣaka), một loại hoa cõi trời mềm mại, có màu trắng tươi nên cũng gọi là nhu nhuyến hoa (柔軟華) hay bạch viên hoa (白圓華), được chư thiên rải xuống để cúng dường Phật, trang nghiêm các đạo tràng khi thuyết pháp. Cùng loại hoa này nhưng lớn hơn gọi là hoa ma-ha mạn thù sa (摩訶曼殊沙華).

[59] Dạ-xoa (H. 夜叉, S. yakṣa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là dược-xoa (藥叉), là loài quỷ hung dữ, có thể ở trên mặt đất hoặc giữa không trung, có thể dùng uy thế làm hại con người nhưng cũng có khi theo bảo hộ Phật pháp, người tu tập Phật pháp.

[60] Ma-hầu-la-già (H. 摩睺羅伽, S. mahoraga), Hán dịch là đại mãng thần (大蟒神), là loài rắn thần rất lớn, được xếp vào một trong 8 bộ chúng.

[61] Phi nhân (H. 非人, S. amanuṣya): khi dùng với nghĩa rộng, chỉ tất cả các chúng sanh không phải loài người, như trời, rồng, dạ-xoa… Trong ngữ cảnh đã đề cập đến các loài khác như ở đây thì phi nhân chỉ các loài chúng sanh không phải loài người cũng không thuộc về tám bộ chúng.

[62] Tướng bạch hào (H. 白毫相, S. uṇṇa-lakkhaṇa), một trong 32 tướng tốt của Phật. Tướng này là một sợi lông màu trắng mọc ở vị trí giữa hai chân mày, nếu kéo ra sẽ rất dài nhưng để tự nhiên thì xoắn theo chiều về bên phải như hình xoắn ốc, màu trắng tươi và có thể phát ra hào quang. Mỗi khi đức Phật phóng chiếu hào quang từ tướng bạch hào này đều là một điềm lành báo trước điều tốt đẹp.

[63] Địa ngục A-tỳ (H. 阿鼻地獄, S. Avīci), Hán dịch là Vô gián (無間), nghĩa là không gián đoạn, vì tội nhân trong địa ngục này bị hành hình liên tục không gián đoạn, không có lúc nào được dừng nghỉ. Theo thế giới quan Phật giáo thì địa ngục A-tỳ là phần thấp nhất trong cả thế giới.

[64] Cõi trời A-ca-ni-trá (H. 阿迦尼吒天, S. Akaniṣṭha-deva), cũng gọi là cõi trời Hữu đỉnh (有頂天) là cõi trời cao nhất trong 18 cõi trời của Sắc giới. Do đó, trong phần có hình sắc của thế giới này thì đây là cõi trời cao nhất, vượt lên trên nữa là phạm vi của Vô sắc giới, không có hình sắc.

[65] Tức là các thế giới về phương đông được hào quang Phật soi chiếu.

[66] Chấn động theo sáu cách là hiện tượng xảy ra khi có một sự kiện cực kỳ quan trọng trong một cõi thế giới, chẳng hạn như khi đức Phật thành đạo, đức Phật nhập Niết-bàn v.v. Pháp Hoa Văn cú giải thích là bao gồm sáu cách: động (動 - chuyển động), khởi (起 - khởi lên), dũng (涌 - vọt lên), chấn (震 - chấn động), hống (吼 - phát tiếng kêu lớn), giác (覺 - khiến cho giác ngộ). Văn Cú Ký dẫn cách giải thích khác là động (動), dũng (踊), chấn (震), kích (擊), hống (吼), bộc (爆), và giải thích ý nghĩa chi tiết rằng động là rung động, dao động, khởi là từ thấp lên cao, dũng là từ chỗ thấp vọt mạnh lên cao, chấn là rung động có âm thanh phát ra, hống là phát ra âm thanh lớn có tiếng vọng lại, giác là khiến cho chúng sanh được giác ngộ. Ngoài ra, theo kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa (摩訶般若波羅蜜經), quyển 1, thì 6 cách chấn động là: 1. Phương đông vọt lên, phương tây chìm xuống; 2. Phương tây vọt lên, phương đông chìm xuống; 3. Phương nam vọt lên, phương bắc chìm xuống; 4. Phương bắc vọt lên, phương nam chìm xuống; 5. Bốn phương vọt lên, ở giữa chìm xuống; 6. Ở giữa vọt lên, bốn phương chìm xuống. (ĐCT, T8, 223, tr.217c, d.6-8)

[67] Nguyên tác là “吹大法螺 - xuy đại pháp loa”, chữ loa (螺) chỉ loại vỏ ốc rỗng được khoét lỗ để khi thổi phát ra âm thanh lớn và vang rất xa, tức là một loại tù và. “Pháp loa” được ví với việc âm thanh thuyết pháp vang dội khắp nơi, cũng như tiếng tù và lớn được thổi lên.

[68] Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai (H. 日月燈明如來, S. Candra-sūrya-pradīpa). Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm, quyển 5, Bồ Tát Di-lặc tự kể lại đã từng xuất gia tu học với Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh. (ĐCT, T19, 945, tr.128a, d.10-12)

[69] Đây là Thập hiệu (十號) của tất cả chư Phật, vì được dùng để nêu lên các phẩm tính mà tất cả các vị Phật đều đạt được. Có thể tạm kể ra như sau: 1. Như Lai (H. 如來, S. Tathāgata), phiên âm Đa-đà-a-già-đà (多陀阿伽陀); kinh Kim cang giải thích: “Không từ đâu đến, không đi về đâu, nên gọi là Như Lai.”; 2. Ứng Cúng (H. 應供, S. Arhat), phiên âm là A-la-hán, xứng đáng nhận sự cúng dường của người và chư thiên. 3. Chánh Biến Tri (H. 正遍知, S. Samyak-saṃbuddha), phiên âm là Tam-miệu tam-phật-đà (三藐三佛陀), có năng lực trí tuệ hiểu biết chân chánh và rộng khắp các pháp; 4. Minh Hạnh Túc (H. 明行足, S. vidyā-caraṇa-saṃpanna), sáng suốt (vidyā), tức có đủ tam minh (thiên nhãn minh, túc mệnh minh, lậu tận minh) và đạo hạnh (caraṇa) viên mãn. 5. Thiện Thệ (H. 善逝, S. Sugata), khéo vượt qua, tức dùng Nhất thiết trí đi trên đường bát chánh đạo, thể nhập Niết bàn. 6. Thế Gian Giải (H. 世間解, S. Loka-vid), rõ biết thế gian nên cũng rõ biết sự diệt mất thế gian và con đường ra khỏi thế gian. 7. Vô Thượng Sĩ (H. 無上士, S. Anuttara), là đấng vô thượng, không còn ai vượt lên cao quý hơn. 8. Điều Ngự Trượng Phu (H. 調御丈夫, S. Puruṣa-damya-sārathi), có đủ từ bi, trí tuệ, phương tiện để điều phục, chế ngự, khiến cho chúng sanh có thể đạt đến Niết-bàn. 9. Thiên Nhân Sư (H. 天人師, S. śāstā deva-manuṣyāṇāṃ), bậc thầy dạy, dẫn dắt chúng sinh trong cả hai cõi trời, người. 10. Phật Thế Tôn (H. 佛世尊, S. Buddha-bhagavat), bậc toàn giác, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tôn quý nhất trong thế gian. Có nơi xếp chung hiệu thứ năm và thứ sáu thành một: Thiện Thệ, Thế Gian Giải, và tách hiệu thứ mười thành hai: Phật Thế Tôn; hoặc cũng có khi xếp chung Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, hoặc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu. Nhưng tất cả đều thống nhất là có 10 hiệu.

[70] Tứ đế, tức là Tứ diệu đế (H. 四妙諦, S: catvāri ārya-satyāni), chỉ 4 chân lý do đức Phật nhận ra và thuyết dạy, luôn đúng thật trong mọi thời gian và không gian. Vì là chân lý đúng thật nên cũng được gọi là tứ chân đế (四真諦) hoặc tứ thánh đế (四聖諦). Các chân lý này bao gồm: 1. Khổ đế (H. 苦諦, S. duḥkha-satya), chỉ ra sự thật rằng mọi trạng thái tồn tại của chúng sanh hiện nay đều là khổ, hay nói cách khác thì bản chất của chúng là khổ; 2. Tập đế (H. 集諦, S. samudaya-satya), là sự thật về nguyên nhân của khổ, như phiền não, nghiệp lực, các hành vi, tư tưởng, lời nói làm sanh khởi khổ; 3. Diệt đế (H. 滅諦, S. nirodha-satya), là sự thật về việc dứt sạch mọi nỗi khổ, thông qua chấm dứt nguyên nhân gây khổ bằng con đường tu tập; 4. Đạo đế (H. 道諦, S. mārga-satya), là con đường cụ thể để chấm dứt nguyên nhân gây khổ, tức là diệt khổ, cụ thể là Bát chánh đạo. Khổ đế và Tập đế chỉ ra mối quan hệ nhân quả trong thế gian, khổ đế không tự nhiên khởi sinh mà do những nguyên nhân được Tập đế chỉ ra. Diệt đế và Đạo đế chỉ ra mối quan hệ nhân quả xuất thế gian, vì khổ có thể được dứt trừ qua sự tu tập theo Đạo đế và khi khổ được dứt trừ thì Diệt đế hiện hữu. Tuy nhiên, giáo lý Tứ đế hướng đến dứt trừ sự khổ trong luân hồi, do vậy chỉ đưa đến Thánh quả Tiểu thừa, không thể rốt ráo đạt đến quả Phật.

[71] Nguyên tác dùng Bích-chi Phật (H. 辟支佛, S. pratyeka-buddha), tức là quả Duyên giác, cũng gọi là Độc giác (獨覺) khi giác ngộ vào thời không có Phật ra đời. Trong 3 thừa thì quả vị này được xem là Nhị thừa, Thanh văn là Tam thừa.

[72] Sáu ba-la-mật (H. 六波羅蜜, S. ṣaḍ-pāramitā), Hán dịch là lục độ (六度), là 6 pháp tu tập quan trọng của hàng Bồ Tát, giúp vượt qua bể khổ luân hồi nên gọi là “độ”, cũng dịch là “到彼岸 - đáo bỉ ngạn” (sang đến bờ kia). Sáu pháp này bao gồm: Bố thí ba-la-mật (H. 布施波羅蜜, S. dāna-pāramitā); trì giới ba-la-mật (H. 持戒波羅蜜, S. śīla-pāramitā); nhẫn nhục ba-la-mật (H. 忍辱波羅蜜, S. kṣānti-pāramitā); tinh tấn ba-la-mật (H. 精進波羅蜜, S. vīrya-pāramitā); thiền định ba-la-mật (H. 禪定波羅蜜, S. dhyāna-pāramitā); trí tuệ ba-la-mật (H. 智慧波羅蜜, S. prajñā-pāramitā).

[73] Nhất thiết chủng trí (H. 一切種智, S. sarvathā-jñāna), tức trí tuệ của Phật, là trí hiểu biết tất cả, thấy rõ được nhân quả của tất cả các pháp cũng như tất cả chúng sanh.

[74] Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ (H. 無量義處三昧, S. Anantanirdeśapratiṣṭhāna-samādhi). “Vô lượng nghĩa xứ” nghĩa là chỗ y chỉ của tất cả các nghĩa, tức là thật tướng. Đức Phật chuẩn bị huyết kinh Pháp Hoa hiển bày thật tương nên nhập vào tam-muội này.

[75] Bồ Tát Diệu Quang (H. 妙光菩薩, S. Vara-prabhā).

[76] Niết-bàn vô dư (H. 無餘涅槃, S. nirupadhiśeṣa-nirvāṇa), phân biệt với Niết-bàn hữu dư (H. 有餘涅槃, S. so-padhi-śeṣa-nirvāṇa), cũng gọi là Vô dư y Niết-bàn (無餘依涅槃), chỉ Niết-bàn của chư Phật vì hoàn toàn không còn phụ thuộc thân tướng, chấm dứt hoàn toàn cả nhân và quả. Ngoài ra cũng phân biệt việc chấm dứt nhân quả Tiểu thừa là Niết-bàn hữu dư, chấm dứt nhân quả Đại thừa là Niết-bàn vô dư. Hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể đạt đến Niết-bàn hữu dư, không có khả năng đạt Niết-bàn vô dư.

[77] Bồ Tát Đức Tạng (H. 德藏菩薩, S. Śrīgarbha).

[78] Ở đây chỉ nêu 3 đức hiệu tức là lược nói, biểu trưng cho đủ 10 đức hiệu của chư Phật.


____________________________________

2. Phẩm Phương tiện




Bấy giờ, đức Thế Tôn an lành ra khỏi thiền định, bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trí tuệ của chư Phật rất sâu xa không thể suy lường, cửa trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, hết thảy hàng Thanh văn, Phật Bích-chi đều không có khả năng rõ biết.

“Vì sao vậy? Phật từng thân cận với trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, hết sức thực hành vô số đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp, thành tựu pháp rất sâu xa chưa từng có, tùy chỗ thích hợp mà giảng thuyết, ý nghĩa khó hiểu.

“Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ mọi nhân duyên, đủ mọi thí dụ, rộng nói các giáo pháp cùng vô số phương tiện, dẫn dắt chúng sanh khiến cho lìa bỏ mọi sự bám chấp.

“Vì sao vậy? Phương tiện, tri kiến ba-la-mật của đức Như Lai hết thảy đều trọn đủ. Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, không ngăn ngại, không thể suy lường, những phẩm đức như lực,[1] vô sở úy,[2] thiền định, giải thoát tam-muội đều thâm nhập tận cùng, thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có.

“Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt mọi điều, khéo giảng thuyết các pháp, lời lẽ êm dịu uyển chuyển, làm vui lòng đại chúng. Xá-lợi-phất! Theo chỗ cốt yếu mà nói thì Phật đã thành tựu hết vô lượng vô biên các pháp chưa từng có.

“Thôi đi, Xá-lợi-phất! Không nên nói nữa. Vì sao vậy? Pháp mà Phật đã thành tựu cao tột khó hiểu, ít có nhất, chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.

“Thật tướng của các pháp, đó là nói các pháp có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, chỗ làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, từ gốc đến ngọn rốt ráo bình đẳng như vậy.”

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nhắc lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Bậc Thế Hùng khôn lường,
Chư thiên và nhân loại,
Cùng các loài chúng sanh,
Đều không thể hiểu Phật.

Phật lực, vô sở úy,
Giải thoát, các tam-muội,
Các pháp khác của Phật,
Đều không thể suy lường.

Từng theo vô số Phật,
Tu hành đủ các pháp,
Rất sâu xa nhiệm mầu ,
Khó thấy, khó rõ biết.

Trong vô số ức kiếp,
Tu các phẩm đạo rồi,
Chứng quả nơi Đạo trường,
Ta đều rõ biết hết.

Quả báo lớn lao ấy,
Đủ mọi nghĩa tánh tướng,
Ta với mười phương Phật,
Mới có thể rõ biết.

Pháp không thể chỉ bày,
Tướng ngôn ngữ dứt bặt.
Các loài chúng sanh khác,
Không thể nào hiểu được,

Trừ các vị Bồ Tát,
Với đức tin kiên cố.
Chúng đệ tử của Phật,
Từng cúng dường chư Phật,
Đã dứt sạch lậu hoặc,
Trụ nơi thân cuối cùng,
Dù những bậc như vậy,
Vẫn không sức thọ nhận.

Nếu người khắp thế gian,
Đều như Xá-lợi-phất,
Dùng hết sức suy lường,
Cũng không rõ trí Phật.

Ví như khắp mười phương,
Đều như Xá-lợi-phất,
Cùng các đệ tử khác,
Tràn ngập khắp mười phương,

Cùng hết sức suy lường,
Cũng không thể rõ biết.
Hàng Duyên giác trí sáng,
Bậc Vô lậu thân cuối,
Cũng đầy khắp mười phương,
Số nhiều như tre rừng,
Như vậy cùng chuyên tâm,
Trong vô số ức kiếp,
Muốn suy biết trí Phật,
Cũng không biết được gì.

Bồ Tát mới phát tâm,
Cúng dường vô số Phật,
Rõ biết các ý nghĩa,
Lại khéo thuyết giảng pháp.

Nhiều như lúa, mè, tre...
Đầy khắp cõi mười phương,
Chuyên tâm dùng trí mầu,
Trong Hằng sa số kiếp,
Cùng chung sức suy lường,
Không thể rõ trí Phật.

Các Bồ Tát bất thối,
Nhiều như cát sông Hằng,
Một lòng cùng suy cầu,
Cũng không thể rõ biết.”

Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Pháp sâu xa vi diệu,
Vô lậu, không nghĩ bàn,
Ta nay đã trọn thành,
Tướng ấy riêng ta biết,
Cũng như mười phương Phật.

Xá-lợi-phất nên biết,
Lời chư Phật không khác,
Đối với pháp Phật thuyết,
Phải tin sâu, tin chắc.

Pháp Phật lâu về sau,
Phải thuyết dạy chân thật.
Phật bảo chúng Thanh văn,
Cùng chúng cầu Duyên giác:

‘Ta dạy cho thoát khổ,
Nhưng chưa được Niết-bàn.’
Phật dùng sức phương tiện,
Tạm bày ra ba thừa,

Chúng sanh nhiều bám chấp,
Dẫn dắt cho giải thoát.

Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị, cùng những vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di phát tâm cầu quả Thanh văn, quả Phật Bích-chi, hết thảy đều nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp phương tiện mà nói: ‘Pháp Phật đã chứng đắc rất sâu xa khó hiểu, có nói ra điều gì thì ý nghĩa đều khó rõ biết, hết thảy hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể hiểu được?’

“Phật [từng] thuyết dạy một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp ấy, [tưởng rằng] đạt đến Niết-bàn, nhưng nay thì không biết nghĩa ấy hướng về đâu?”

Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng và chính mình cũng chưa hiểu nên bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà nay Phật ân cần ngợi khen xưng tán phương tiện bậc nhất cùng pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu của chư Phật? Con từ xưa nay theo Phật chưa từng được nghe những lời như vậy. Nay bốn chúng đều ôm lòng nghi, nguyện Thế Tôn giảng rõ việc này: Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu?”

Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

Đấng Đại Thánh trí tuệ,
Lâu mới thuyết pháp này.
Tự nói đã chứng đắc,
Lực, vô úy, tam-muội,

Cùng thiền định giải thoát,
Pháp không thể nghĩ bàn.
Nơi đạo trường chứng đắc,
Không ai đủ sức hỏi,
Ý Phật khó suy lường,
Cũng không thể thưa hỏi,
Nên Phật tự nói ra,
Ngợi khen đạo chư Phật,
Trí tuệ cực vi diệu,
Chư Phật đã đạt được.

A-la-hán vô lậu,
Cùng người cầu Niết-bàn,
Nay chìm trong lưới nghi,
Vì sao Phật nói vậy?

Những người cầu Duyên giác,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Với loài càn-thát-bà...
Nhìn nhau lòng phân vân,
Cùng chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Việc này là thế nào?
Nguyện được Phật giảng giải.

Trong hàng chúng Thanh văn,
Phật khen con bậc nhất,
Nay con dùng trí mình,
Không thể hiểu, nghi hoặc:

Đây là pháp rốt ráo?
Hay là đạo tu hành?
Chúng từ miệng Phật sinh,
Đều chắp tay mong đợi,

Nguyện Phật ban tiếng mầu,
Nói ra pháp như thật.
Chư thiên, rồng, quỷ thần...
Số nhiều như cát sông,

Bồ Tát cầu quả Phật,
Số đến tám mươi ngàn,
Lại từ muôn ức nước,
Vua Chuyển luân đến đây,
Cùng chắp tay cung kính,
Muốn nghe đạo trọn đủ.

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Thôi, thôi, không nên nói nữa! Nếu ta nói ra việc này thì hết thảy chư thiên và loài người ở thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.”

Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Vì sao vậy? Trong chúng hội này có vô số trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ chúng sanh đã từng được gặp chư Phật, căn tánh lanh lợi dũng mãnh, trí tuệ sáng suốt rõ biết, nếu được nghe Phật thuyết dạy ắt có thể cung kính tin nhận.”

Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đấng Pháp vương Vô thượng,
Xin thuyết dạy, đừng lo,
Vì vô số chúng hội,
Phải có người kính tin.

Đức Phật lại ngăn lời ngài Xá-lợi-phất: “Nếu ta nói ra việc này, hết thảy hàng trời, người, a-tu-la... trong khắp thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ, các tỳ-kheo tăng thượng mạn[3] sẽ phải sa vào hố sâu tội lỗi vì phỉ báng.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại nghĩa trên bằng kệ rằng:

Thôi thôi không nên nói,
Pháp Phật khó nghĩ bàn.
Những kẻ tăng thượng mạn,
Ắt không thể kính tin.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất một lần nữa bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Nay trong hội này, những người như con, số nhiều đến trăm ngàn muôn ức, trải qua nhiều đời đã từng được Phật giáo hóa. Những người này ắt sẽ có thể kính tin, trong đêm dài sinh tử họ sẽ an ổn, được nhiều lợi ích.” Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đấng Thế Tôn Vô thượng,
Nguyện thuyết pháp bậc nhất.
Con là con trưởng Phật,
Xin thương mà giảng thuyết,

Trong hội vô số chúng,
Có thể kính tin lời.
Phật đã qua bao đời,
Giáo hóa những người này,

Nay một lòng chắp tay,
Muốn nghe lời Phật dạy.
Chúng con một ngàn hai,
Cùng người cầu quả Phật,

Nguyện vì hội chúng này,
Thương xót phân biệt nói.
Đại chúng nghe pháp này,
Ắt sinh lòng hoan hỷ.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói. Nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ, ta sẽ vì các ông mà phân biệt giảng nói.”

Khi đức Phật vừa nói ra lời này, trong chúng hội liền có 5.000 tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng đứng dậy khỏi tòa ngồi, lễ Phật rồi lui ra. Vì sao vậy? Những người ấy gốc tội sâu nặng, lại là hàng tăng thượng mạn, chưa chứng nói là chứng, chưa đắc nói là đắc, có những lỗi lầm như vậy nên không ở lại. Đức Thế Tôn lặng thinh không ngăn cản.

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong hội chúng này nay không còn cành lá, chỉ thuần hạt chắc. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Nay ông hãy khéo lắng nghe, ta sẽ vì các ông thuyết giảng.”

Ngài Xá-lợi-phất thưa: “Xin vâng, Thế Tôn! Chúng con nguyện vui thích muốn nghe.”

Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp vi diệu này, chư Phật Như Lai đúng thời mới thuyết, như hoa ưu-đàm-bát đúng thời chỉ nở một lần. Này Xá-lợi-phất! Các ông nên tin lời Phật thuyết dạy, không hề hư dối. Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp, ý nghĩa khó nhận hiểu.

“Vì sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng thu-yết các pháp. Pháp ấy không thể suy lường phân biệt mà hiểu được, chỉ có chư Phật mới đủ khả năng thấu hiểu. Vì sao vậy? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.

“Xá-lợi-phất! Thế nào là chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời?

“Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sanh khai mở tri kiến Phật để được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sanh thấy được tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sanh thể nhập đạo tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời.

“Xá-lợi-phất, đó là chư Phật chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.”

Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát,[4] hết thảy việc làm thường chỉ vì một mục đích duy nhất là dùng tri kiến Phật để chỉ bày, khai ngộ chúng sanh. Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sanh thuyết pháp, không có thừa nào khác như Nhị thừa, Tam thừa.

“Xá-lợi-phất! Pháp của hết thảy chư Phật mười phương cũng đều như vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật trong quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp; các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Này Xá-lợi-phất! Chư Phật trong tương lai ra đời, lại cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thu-yết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn hiện tại trong vô lượng trăm ngàn muôn ức cõi Phật mang lại rất nhiều lợi ích an lạc cho chúng sanh, chư Phật ấy lại cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! [Tất cả] chư Phật ấy cũng chỉ giáo hóa Bồ Tát, muốn dùng tri kiến Phật để chỉ bày chúng sanh, muốn dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sanh, muốn giúp cho chúng sanh thể nhập tri kiến Phật.

“Xá-lợi-phất! Ta nay cũng như vậy, biết rõ chúng sanh có đủ mọi ham muốn, bám chấp sâu nặng trong tâm, nên tùy theo bản tánh của chúng sanh mà dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, sức phương tiện để thu-yết giảng pháp. Xá-lợi-phất, như vậy đều là vì để giúp chúng sanh đạt một Phật thừa, được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! Trong khắp thế giới mười phương vốn không có hai thừa, huống gì lại có ba? Xá-lợi-phất, chư Phật thị hiện ở đời xấu ác có năm sự uế trược, đó là kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược.[5] Như vậy, này Xá-lợi-phất, vào thời kiếp trược hỗn loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng nề, nhiều tham lam, ganh ghét, tạo thành các gốc rễ bất thiện, nên chư Phật dùng sức phương tiện, đối với một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.

“Xá-lợi-phất! Nếu các đệ tử của ta có người tự cho mình là A-la-hán, Phật Bích-chi mà không nghe không biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những người ấy không phải đệ tử Phật, cũng không phải A-la-hán, không phải Phật Bích-chi.

“Lại nữa, Xá-lợi-phất, những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ấy tự cho mình đã chứng quả A-la-hán, cho đó là thân sau cùng, đã được Niết-bàn rốt ráo, không có chí hướng cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết rằng hạng người ấy đều là tăng thượng mạn. Vì sao vậy? Nếu có tỳ-kheo nào thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin nhận pháp Nhất thừa thì thật vô lý, trừ phi sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật.

“Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được. Nhưng nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng.

“Xá-lợi-phất! Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời của chư Phật Như Lai không hư dối, thật không có thừa nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa.”

Bấy giờ, Thế Tôn muốn nhắc lại ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:

Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Ôm lòng tăng thượng mạn,
Ưu-bà-tắc ngã mạn,
Ưu-bà-di bất tín.

Bốn chúng thuộc hạng này,
Số nhiều đến năm ngàn.
Không tự thấy lỗi mình,
Giới luật có thiếu sót,
Ôm tiếc lỗi của mình.

Do oai đức của Phật,
Nên những người kém cỏi,
Hạng trí nhỏ rời đi,
Vì phước đức mỏng manh,
Không đủ sức tiếp nhận.

Hội chúng sạch cành lá,
Chỉ còn quả hạt chắc,
Xá-lợi-phất, lắng nghe:
Pháp chư Phật chứng đắc,
Vô số lực, phương tiện,
Vì chúng sanh thuyết dạy.

Chúng sanh tâm khởi niệm,
Cùng đủ mọi việc làm,
Có bao nhiêu tham muốn,
Nghiệp đời trước thiện ác,
Phật đều rõ biết hết.

Dùng nhân duyên, thí dụ,
Sức phương tiện, ngôn từ,
Khiến cho đều hoan hỷ.

Hoặc thuyết giảng Khế kinh,
Hay Già-đà, Bản sự,
Bản sinh, Vị tằng hữu,
Lại thuyết kinh Nhân duyên,
Thí dụ cùng Kỳ-dạ,
Kinh Ưu-ba-đề-xá.[6]

Kẻ ngu, ưa pháp nhỏ,
Bám chấp chốn sinh tử,
Gặp vô số chư Phật,
Vẫn không tu đạo mầu,
Nên bị khổ giày vò,
Vì họ, thuyết Niết-bàn.

Ta bày phương tiện này,
Giúp nhập trí tuệ Phật,
Chưa từng nói các ông,
Rồi sẽ thành Phật đạo.

Sở dĩ chưa từng nói,
Vì thời chưa thích hợp,
Nay chính lúc hợp thời,
Quyết định thuyết Đại thừa.

Chín bộ kinh đã thuyết,[7]
Là tùy thuận chúng sanh,
Nhập Đại thừa là gốc,
Cho nên thuyết kinh này.

Có Phật tử tâm tịnh,
Nhu hòa lại sáng suốt,
Nơi vô số chư Phật,
Đã tu sâu đạo mầu.

Vì những Phật tử ấy,
Thuyết kinh Đại thừa này,
Thụ ký những người ấy,
Tương lai thành quả Phật.

Người tâm thành niệm Phật,
Giữ giới hạnh thanh tịnh,
Vừa nghe được thành Phật,
Hoan hỷ khắp toàn thân.

Phật rõ biết tâm hạnh,
Vì họ thuyết Đại thừa.
Thanh văn hay Bồ Tát,
Nghe ta thuyết kinh này,
Dù chỉ một bài kệ,
Chắc chắn đều thành Phật.

Cõi Phật trong mười phương,
Chỉ có pháp Nhất thừa,
Không hai cũng không ba,
Trừ Phật phương tiện thu-yết;

Chỉ là tên giả tạm,
Để dẫn dắt chúng sanh,
Thuyết dạy trí tuệ Phật,
Chư Phật hiện ở đời,

Chỉ có một sự thật,
Ngoài ra đều không thật.
Rốt không dùng Tiểu thừa,

Để cứu độ chúng sanh.
Phật trụ nơi Đại thừa,
Dùng pháp đã chứng đắc,
Định, tuệ, lực trang nghiêm,

Để cứu độ chúng sanh.
Phật chứng đạo Vô thượng,
Pháp bình đẳng Đại thừa,
Nếu dùng pháp Tiểu thừa,
Dù giáo hóa một người,
Ắt tâm Phật tham tiếc,
Việc ấy không thể có.

Nếu người tin theo Phật,
Như Lai không dối gạt,
Không tham tiếc, ganh ghét,
Dứt các pháp xấu ác.

Nên trong khắp mười phương,
Riêng Phật không sợ hãi.
Phật thân tướng trang nghiêm,
Hào quang chiếu thế gian,

Vô số chúng tôn kính,
Vì chúng thuyết tướng thật.
Xá-lợi-phất nên biết,
Phật xưa đã thệ nguyện,
Độ hết thảy chúng sanh,
Được như Phật không khác.

Như thệ nguyện từ trước,
Nay thành tựu viên mãn,
Giáo hóa khắp chúng sanh,
Khiến đều vào Phật đạo.

Nếu ta gặp chúng sanh,
Đều dạy bằng Phật đạo.
Kẻ thác loạn ngu si,
Mê hoặc chẳng nghe lời.

Ta biết chúng sanh ấy,
Chưa từng tu gốc thiện,
Bám chấp nặng năm dục,
Si mê, ái luyến khổ.

Do nhân duyên các dục,
Đọa vào ba đường ác,
Luân hồi trong sáu nẻo,
Chịu đủ các khổ độc.

Thọ thân từ bào thai,
Đời đời thêm nghiệp khổ.
Người thiếu phước, đức mỏng,
Bị các khổ bức bách,

Vào sâu rừng tà kiến,
Chấp có hoặc chấp không,
Cùng các loại kiến chấp,
Đủ số sáu mươi hai.[8]

Chấp sâu pháp hư dối,
Bám chặt không thể buông,
Ngã mạn, tự cao ngạo,
Dua nịnh, không chân thật,

Trong ngàn muôn ức kiếp,
Chẳng nghe danh xưng Phật,
Cũng chẳng nghe chánh pháp,
Người như vậy khó độ.

Cho nên, Xá-lợi-phất!
Ta bày ra phương tiện,
Thuyết dạy đường dứt khổ,
Bảo đó là Niết-bàn.

Tuy nói là Niết-bàn,
Nhưng chưa thật diệt độ,
Các pháp từ xưa nay,
Tướng thường tự tịch diệt.

Phật tử tu hành đạo,
Tương lai sẽ thành Phật.
Ta dùng sức phương tiện,
Mở bày pháp ba thừa.

Hết thảy các đức Phật,
Đều thuyết đạo Nhất thừa.
Nay đại chúng ở đây,
Nên dứt trừ nghi hoặc,

Chư Phật dạy không khác,
Duy Nhất thừa, không hai.
Vô số kiếp quá khứ,
Vô lượng Phật diệt độ,
Trăm ngàn muôn ức vị,
Số không thể tính đếm.

Các đức Phật như vậy,
Dùng nhân duyên, thí dụ,
Vô số sức phương tiện,
Giảng thuyết các tướng pháp.

Những bậc Thế Tôn ấy,
Đều thuyết pháp Nhất thừa,
Giáo hóa vô số chúng,
Khiến được vào Phật đạo.

Lại các bậc Đại thánh,
Rõ biết khắp thế gian,
Chư thiên cùng nhân loại,
Nhiều tham muốn sâu xa,
Nên dùng phương tiện khác,
Giúp hiển bày nghĩa thật.

Nếu có những chúng sanh,
Gặp Phật trong quá khứ,
Hoặc nghe pháp, bố thí,
Hoặc trì giới, nhẫn nhục,
Tinh tấn, thiền, trí tuệ...
Tu các pháp phúc, tuệ.

Phật dạy: Những người ấy,
Đều đã thành Phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi,
Ai khéo điều phục tâm,
Hết thảy những người ấy,
Đều đã thành phật đạo.

Chư Phật diệt độ rồi,
Ai cúng dường xá-lợi,
Dựng muôn ức ngọn tháp,
Bằng vàng, bạc, pha lê,
Xa cừ cùng mã não,
Hồng ngọc, châu lưu ly,
Cao rộng, sạch, trang nghiêm,
Trang hoàng nơi các tháp.

Hoặc dùng đá xây miếu,
Với chiên-đàn, trầm hương,
Gỗ mật, các loại khác,
Hay gạch, ngói, bùn đất...

Hoặc giữa nơi đồng trống,
Đắp gò cao thờ Phật,
Thậm chí trẻ chơi đùa,
Vun cát làm tháp Phật...
Những trường hợp như thế,
Đều đã thành Phật đạo.

Có người vì kính Phật,
Nên vẽ hình, tạc tượng,
Chạm khắc các tướng Phật,
Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc dùng bảy món báu,
Hợp kim, đồng đỏ, trắng...
Hoặc chì, thiết... các loại,
Sắt, thép, gỗ, đất bùn...

Hoặc keo, nhựa sơn, vải...
Trang hoàng nên tượng Phật.
Những người làm như vậy,
Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc vẽ hình tượng Phật,
Đủ phước tướng trang nghiêm,
Tự làm, sai người làm,
Đều đã thành Phật đạo.

Thậm chí trẻ chơi đùa,
Dùng cỏ, cây, ngọn bút,
Hoặc móng tay, ngón tay...
Vẽ thành hình tượng Phật.

Những đứa trẻ như thế,
Dần dần thêm công đức,
Trọn đủ tâm đại bi,
Đều đã thành Phật đạo.
Chỉ giáo hóa Bồ Tát,
Độ thoát vô số chúng.

Nếu người nơi tháp miếu,
Tượng báu hay hình Phật,
Dùng hoa, hương, phướn, lọng...
Tâm cung kính cúng dường.

Hoặc sai người tấu nhạc,
Đánh trống, thổi tù và...
Tiêu, sáo, đàn không hầu,
Đàn tỳ bà, chập chõa,
Bao âm thanh tuyệt diệu,
Đều dâng lên cúng dường.

Hoặc dùng tâm hoan hỷ,
Xưng tán công đức Phật,
Dù một lời nhỏ nhặt,
Đều đã thành phật đạo.

Nếu người tâm tán loạn,
Dùng chỉ một bông hoa,
Cúng dường tranh vẽ Phật,
Dần gặp vô số Phật.

Nếu có người lễ bái,
Hoặc là chỉ chắp tay,
Thậm chí đưa tay lên,
Hay cúi nhẹ đầu xuống.
Cúng dường hình tượng Phật,
Dần gặp vô số Phật.
Tự thành đạo Vô thượng,
Độ vô số chúng sanh,
Nhập Niết-bàn Vô dư,
Như củi hết lửa tắt.

Nếu người tâm tán loạn,
Vào tháp miếu thờ Phật,
Niệm một tiếng nam-mô,
Đều đã thành Phật đạo.

Nơi chư Phật quá khứ,
Hoặc còn, hoặc diệt độ,
Nếu được nghe pháp này,
Đều đã thành Phật đạo.

Các vị Phật tương lai,
Số nhiều đến vô lượng,
Tất cả chư Phật ấy,
Cũng phương tiện thuyết pháp.

Hết thảy các đức Phật,
Dùng vô số phương tiện,
Độ thoát muôn chúng sanh,
Vào trí Phật vô lậu,
Người đã được nghe pháp,
Không ai không thành Phật.

Chư Phật từng thệ nguyện,
Đạo Phật tu, Phật chứng,
Cũng làm cho chúng sanh,
Đều tu chứng đạo ấy.

Chư Phật đời vị lai,
Tuy thuyết trăm ngàn ức,
Đến vô số pháp môn,
Thật chỉ là Nhất thừa.

Chư Phật đủ phước trí,
Biết pháp không tự tánh,
Hạt giống Phật duyên khởi,
Cho nên thu-yết Nhất thừa.

Pháp trụ nơi pháp vị,
Tướng thế gian thường trụ,
Nơi đạo trường rõ biết,
Đạo sư thuyết phương tiện.

Hàng trời người cúng dường,
Mười phương Phật hiện tại,
Số nhiều như cát sông,
Xuất hiện nơi thế gian,
Vì giúp chúng an ổn,
Cũng thuyết pháp như vậy.

Biết tịch diệt hơn hết,
Nhưng dùng sức phương tiện,
Tuy chỉ bày mọi đường,
Thật chỉ vì Phật thừa.

Rõ biết mọi tánh hạnh,
Tâm niệm của chúng sanh,
Và tập khí quá khứ,
Tham muốn, sức tinh tấn,
Cùng căn tánh lợi, độn.
Nên dùng mọi nhân duyên,
Nhiều thí dụ, ngôn từ,
Phương tiện thuyết ứng hợp.

Nay ta cũng như vậy,
Vì giúp chúng an ổn,
Dùng đủ mọi pháp môn,
Để chỉ bày Phật đạo.

Ta dùng sức trí tuệ,
Biết lòng dục chúng sanh,
Phương tiện giảng các pháp,
Khiến cho đều hoan hỷ.

Xá-lợi-phất nên biết!
Ta dùng Phật nhãn quán,
Thấy chúng sanh sáu đường,
Nghèo khốn, không phước trí,
Vào đường hiểm sanh tử,
Khổ triền miên không dứt,
Bám chấp năm món dục,
Như bò thích đuôi bò,
Tham ái tự che lấp,
Mê tối chẳng thấy gì.

Không cầu oai lực Phật,
Dứt trừ các pháp khổ,
Vào sâu rừng tà kiến,
Muốn dùng khổ dứt khổ.
Vì những chúng sanh ấy,
Ta khởi tâm đại bi.

Ban sơ ngồi đạo trường,
Ta nhìn cây, kinh hành,
Trong suốt hai mốt ngày,
Chỉ suy xét một việc:

Trí tuệ ta chứng đắc,
Thật vi diệu hơn hết.
Chúng sanh căn cơ thấp,
Tham đắm, nhiều si mê...
Những hạng chúng sanh này,
Làm sao có thể độ?

Khi ấy những Phạm vương,
Cùng các Thiên Đế thích,
Bốn Thiên vương Hộ thế,
Cùng Đại Tự tại thiên,

Và chúng chư thiên khác,
Quyến thuộc trăm ngàn muôn,
Cùng chắp tay cung kính,
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.

Ta liền tự nghĩ rằng:
Nếu chỉ khen Phật thừa,
Chúng sanh chìm đắm khổ,
Không đủ sức tin nhận,
Sẽ chống phá, không tin,
Đọa sâu ba đường ác.
Ta không nên thuyết pháp,
Phải sớm nhập Niết-bàn.

Liền nhớ Phật quá khứ,
Từng dùng sức phương tiện.
Nay ta chứng chánh đạo,
Cũng nên thuyết ba thừa.

Khi ta nghĩ như vậy,
Mười phương Phật hiện ra,
Dùng Phạm âm khuyến khích:
“Lành thay! Phật Thích-ca,
Đấng Đạo sư bậc nhất,
Chứng pháp Vô thượng này,
Theo gương tất cả Phật,
Mà dùng sức phương tiện.

Chư Phật cũng chứng đắc,
Pháp vi diệu bậc nhất,
Nhưng cũng vì chúng sanh,
Phân biệt thuyết ba thừa.

Kém trí ưa pháp nhỏ,
Không tự tin thành Phật,
Nên phải dùng phương tiện,
Phân biệt các quả vị.
Tuy nói có ba thừa,
Chỉ giáo hóa Bồ Tát.”

Xá-lợi-phất nên biết!
Ta nghe tiếng chư Phật,
Thanh âm rất nhiệm mầu,
Liền vui cung kính Phật.

Rồi khởi lên ý nghĩ:
“Ta gặp đời uế trược,
Như lời chư Phật dạy,
Ta cũng thuận làm theo.”
Suy nghĩ như vậy rồi,
Liền đến Ba-la-nại.

Tướng các pháp vắng lặng,
Không thể dùng lời nói,
Phật dùng sức phương tiện,
Giảng cho năm tỳ-kheo.
Gọi là chuyển pháp luân,
Từ đó có Niết-bàn,
Lại có A-la-hán,
Có Pháp bảo, Tăng bảo.

Từ vô số kiếp xưa,
Ngợi khen pháp Niết-bàn,
Dứt hẳn khổ sinh tử,
Ta thường thuyết như vậy.

Xá-lợi-phất nên biết!
Ta thấy những Phật tử,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Số nhiều đến vô lượng...

Đều khởi tâm cung kính,
Cùng đi đến chỗ Phật,
Họ từng theo chư Phật,
Được nghe pháp phương tiện.

Ta liền suy nghĩ rằng:
Bậc Như Lai xuất thế,
Chỉ bày trí tuệ Phật,
Nay chính lúc thích hợp.

Xá-lợi-phất nên biết!
Người căn thấp, trí hẹp,
Chấp tướng và kiêu mạn,
Không thể tin pháp này.

Phật hoan hỷ không ngại,
Nay giữa chúng Bồ Tát,
Chính thức bỏ phương tiện,
Chỉ thuyết đạo Vô thượng.

Bồ Tát nghe pháp này,
Đều dứt sạch lưới nghi,
Ngàn hai trăm La-hán,
Cũng đều sẽ thành Phật.

Như nghi thức thuyết pháp,
Của ba đời chư Phật,
Ta nay cũng như vậy,
Thuyết pháp không phân biệt.

Chư Phật hiện ở đời,
Rất lâu xa khó gặp,
Ngay khi đã xuất thế,
Thuyết pháp này càng khó.

Vô lượng vô số kiếp,
Được nghe pháp này khó,
Người đủ sức nghe pháp,
Càng khó tìm gặp hơn.

Giống như hoa ưu-đàm,
Mọi người đều ưa thích,
Giữa hai cõi trời, người,
Hiếm hoi mới xuất hiện.

Người nghe pháp hoan hỷ,
Ngợi khen chỉ một lời,
Cũng bằng như cúng dường,
Ba đời mười phương Phật.
Người như vậy ít gặp,
Hiếm hơn hoa ưu-đàm.

Các ông chớ hoài nghi,
Phật là vua các pháp,
Tuyên cáo cùng đại chúng,
Chỉ dùng đạo Nhất thừa,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Không đệ tử Thanh văn.

Xá-lợi-phất, các ông,
Thanh văn cùng Bồ Tát,
Nên biết diệu pháp này,
Bí yếu của chư Phật.
Vì đời ác năm trược,
Chỉ tham đắm các dục,
Những chúng sanh như vậy,
Rốt chẳng cầu Phật đạo.

Những kẻ xấu đời sau,
Nghe Phật dạy Nhất thừa,
Mê hoặc không tin nhận,
Phá pháp, đọa cõi ác.

Người thanh tịnh, tàm quý,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Nên vì những người ấy,
Rộng khen đạo Nhất thừa.

Xá-lợi-phất nên biết,
Pháp chư Phật như thế,
Dùng muôn ức phương tiện,
Để thuyết pháp thích hợp,
Nếu không học, không tu,
Thì không thể thấu hiểu.

Các ông đã rõ biết,
Phật là thầy thế gian,
Việc phương tiện quyền biến,
Đừng khởi sinh nghi hoặc.
Phải hết sức vui mừng,
Biết mình sẽ thành Phật.

______________________________

CHÚ THÍCH


[1] Tức thập lực (H. 十力, S. daśa balāni), cũng gọi là thập trí lực (十智力), chỉ 10 năng lực trí tuệ siêu việt chỉ riêng chư Phật mới đạt được, rõ biết tất cả các pháp hoàn toàn đúng thật, bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực (H. 知是處非處智力, S. artha-dharma-jñāna-bala): Biết rõ như thật sự đúng, sai của tất cả các pháp, không hề nhầm lẫn; 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực (H. 知三世業報智力, S. karma-vipāka-jñāna-bala) hay Nghiệp dị thục trí lực (業異熟智力): Biết rõ luật nhân quả, tức là nghiệp nào tạo quả nào vào thời điểm nào và ở nơi chốn nào; 3. Tri nhất thiết chí xứ đạo trí lực (H. 知一 切至處道智力, S. sarvatragāminī-pratipad-jñāna-bala), cũng gọi là Biến thú hành trí lực (遍趣行智力): Biết rõ nguyên nhân nào dẫn đến con đường tái sanh nào, biết các hành nghiệp hữu lậu phải luân chuyển trong 6 đường và hành nghiệp vô lậu dẫn đến Niết-bàn; 4. Tri chủng chủng giới trí lực (H. 知種種界智力, S. loka-nānā-dhātu-jñāna-bala): Biết rõ các thế giới, môi trường khác biệt của tất cả chúng sanh; 5. Tri chủng chủng giải trí lực (H. 知種種解智力, S. indriya-parāpara-jñāna-bala): Biết rõ căn tánh riêng biệt, sự ham thích, mê đắm, bám chấp của mỗi chúng sanh; 6. Tri chư căn thắng liệt trí lực (H. 知諸根勝劣智力, S. dhātu-jñāna-bala): Biết rõ căn cơ nhanh nhạy hoặc trì độn của mọi chúng sanh; 7. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực (H. 知諸禪解脫三昧智力, S. dhyāna-vimokṣa-samādhi-samāpatti-jñāna-bala): Biết tất cả các phương pháp thiền định giải thoát, mức độ sâu cạn, cao thấp của mỗi loại và hoàn toàn tự tại vô ngại trong thiền định; 8. Tri túc mệnh vô lậu trí lực (H. 知宿命無漏智力, S. pūrvanivāsānusmṛti-jñāna-bala): Biết rõ các tiền kiếp của chính mình và chúng sanh, từ một đời cho đến vô số đời; 9. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực (H. 知天眼無礙智力, S. cyutyupapatti-jñāna-bala): Biết rõ sự hoại diệt và tái sanh của mỗi chúng sanh, các nghiệp thiện ác và nơi nào họ sẽ tái sinh; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực (H. 知永斷習氣智力, S. āsravakṣaya-jñāna-bala): Biết các pháp ô nhiễm sẽ chấm dứt như thế nào, tự biết đã vĩnh viễn đoạn trừ không còn sinh khởi.

[2] Tức tứ vô sở úy (H. 四無所畏, S. catvāri tathāgatasya vaiśāradyāni), cũng gọi là tứ vô úy (四無畏), chỉ việc chư Phật khi thuyết pháp có đủ bốn phẩm đức tự tin, dũng mãnh, an ổn không sợ sệt, thuộc về Thập bát bất cộng pháp, nghĩa là chỉ có chư Phật mới đạt được, không giống với hàng Thanh văn, Duyên giác. Tứ vô úy bao gồm: 1. Chư pháp hiện đẳng giác vô úy (H. 諸法現等覺無畏, S. sarva-dharmābhisaṃbodhi-vaiśāradya), cũng gọi là Nhất thiết trí vô sở úy (一切智無所畏), do trí tuệ hiểu biết tất cả nên thuyết pháp với đầy đủ sự tự tin, không sợ sệt; 2. Nhất thiết lậu tận trí vô úy (H. 一切漏盡智無畏, S. sarvāsrava-kṣaya-jñāna-vaiśāradya), cũng gọi là Lậu vĩnh tận vô úy (漏永盡無畏), do vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não nên thuyết pháp không sợ sệt đối với khó khăn bên ngoài; 3. Chướng pháp bất hư quyết định thụ kí vô úy (H. 障法不虛決定授記無畏, S. antarāyika-dharmānanyathātva-niścita-vyākaraṇa-vaiśāradya), cũng gọi là Thuyết chướng pháp vô úy (說障法無畏), thuyết dạy về các pháp chướng đạo, cách vượt qua để thành tựu, không có sự sợ sệt; 4. Vi chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tính vô úy (H. 為證一切具足出道如性無畏, S. sarva-saṃpad-adhigamāya nairyāṇika-pratipat-tathātva-vaiśāradya), cũng gọi là Thuyết xuất đạo vô úy (說出道無畏), thuyết dạy đạo xuất thế không có sự sợ sệt.

[3] Tăng thượng mạn (H. 增上慢, S. abhi-māna), chỉ người sinh tâm kiêu căng ngạo mạn, tự cho mình hơn người vì đã chứng đắc, thành tựu quả vị tu tập, nhưng thật ra chưa hề chứng đắc. Biểu hiện rõ rệt nhất là những người tự xưng đã chứng thánh quả.

[4] Nguyên tác Hán văn: “諸佛如來但教化菩薩 - Chư Phật Như Lai đãn giáo hóa Bồ Tát.” Câu này hàm ý rằng tất cả những chúng sanh được đức Phật giáo hóa đều là Bồ Tát, ngay cả hàng Thanh văn như ngài Xá-lợi-phất, vì thật ra giai đoạn Thanh văn đó chỉ là phương tiện để cuối cùng tất cả đều trở thành Bồ Tát, hướng đến quả Phật.

[5] Gọi chung là ngũ trược (H. 五濁, S. pañca kaṣāyāḥ), tức 5 sự uế trược, không thanh tịnh, bao gồm: 1. Kiếp trược (H. 劫濁, S. kalpa-kaṣāya), là những uế nhiễm nói chung của kiếp sống như bệnh tật, nạn đói, chiến tranh, thiên tai, môi trường ô nhiễm…; 2. Phiền não trược (H. 煩惱濁; S. kleśa-kaṣāya), là những uế nhiễm do phiền não khởi sinh, như tham dục, sân hận…; 3. Chúng sinh trược (H. 眾生濁, S. sattva-kaṣāya), là những uế nhiễm của chúng sanh do tập khí như xấu ác, không tin nhân quả, thường tạo ác nghiệp… ; 4. Kiến trược (H. 見濁, S. dṛṣṭi-kaṣāya), là những uế nhiễm trong nhận thức, hiểu biết của chúng sanh, tức là các tà kiến, hiểu biết sai trái…; 5. Mạng trược (H. 命濁, S. āyus-kaṣāya), là sự uế nhiễm về mạng sống, tức là tuổi thọ ngắn ngủi, không chắc chắn, có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào. Lưu ý rằng kinh văn ở đây liệt kê thứ tự khác với những kinh luận khác, vốn thường gặp (như trong kinh A-di-đà) là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.

[6] Đây là những thể loại kinh điển khác nhau được đức Phật thuyết giảng. Có tất cả 12 thể loại khác nhau, thường được gọi là 12 phần giáo (H. 十二分教, S. dvādaśāṅga-buddha-vacana), hoặc một cách không chuẩn xác là 12 bộ kinh (十二部經), bao gồm: 1. Tu-đa-la (H. 修多羅, S. sūtra), Hán dịch là khế kinh (契經), là những lời Phật dạy thích hợp, khế hợp với căn cơ chúng sanh; 2. Kỳ-dạ (H. 祇夜, S. geya), Hán dịch là ứng tụng (應頌), trùng tụng (重頌), là những lời dạy trong kinh được lặp lại bằng thể kệ tụng để dễ ghi nhớ và thực hành; 3. Hòa-ca-la-na (H. 和伽羅那, S. vyākaraṇa), Hán dịch là thụ ký (授記), là lời Phật báo trước kết quả tu tập trong tương lai của các vị đệ tử, về sự chứng đắc quả vị; 4. Già-đà (H. 伽陀, S. gāthā), Hán dịch là phúng tụng (諷頌), cô khởi (孤起), là lời dạy của Phật được diễn đạt theo thể kệ tụng để dễ ghi nhớ, khác với thể kỳ-dạ là không lặp lại mà tự nêu ra ý mới, nên gọi là cô khởi; 5. Ưu-đà-na (H. 優陀那, S. udāna), Hán dịch là tự thuyết (自說), hay vô vấn tự thuyết (無問自說), là những kinh điển do đức Phật quán xét căn cơ chúng sanh rồi tự nói ra, không có người thưa hỏi; 6. Ni-đà-na (H. 尼陀那, S. nidāna), Hán dịch là nhân duyên (因緣), là sự thuyết dạy của Phật do nhân duyên dẫn khởi, như do có việc thế này nên thu-yết dạy pháp như thế này...; 7. A-ba-đà-na (H. 阿波陀那, S. avadāna), Hán dịch là thí dụ (譬喻), là những lời dạy bằng phương thức thí dụ, dẫn dụ, so sánh các sự việc để nêu ý nghĩa; 8. Y-đế-viết-đa-già (H. 伊帝曰多伽; 伊帝越多伽, S. itivṛttaka), Hán dịch là bản sự (本事), là những lời dạy về tiền thân tu tập của các vị đệ tử Phật, được dẫn ra như những bài học cho thính chúng; 9. Xà-đà-già (H. 闍陀伽, S. jātaka), Hán dịch là bản sanh (本生), là lời dạy về các tiền thân đức Phật, được dẫn ra vì mục đích giáo hóa; 10. Tỳ-phật-lược (H. 毘佛略, S. vaipulya), Hán dịch là Phương quảng (方廣), chỉ chung các kinh điển truyền dạy giáo pháp Đại thừa; 11. A-phù-đà-đạt-ma (H. 阿浮陀達磨, S. adbhuta-dharma), Hán dịch là hy pháp (希法) hoặc vị tằng hữu (未曾有), là những kinh điển thuyết giảng những điều bất khả tư nghị, xưa nay chưa từng có, như nói về thần lực, phước đức của chư Phật, Bồ Tát...; 12. Ưu-ba-đề-xá (H. 優波提舍, S. upadeśa), Hán dịch là luận nghị (論議), là những lời dạy mang tính luận thuyết, luận giải, để giúp người nghe nắm hiểu được giáo pháp cũng như các pháp môn tu tập.

[7] Tức là nói 9 phần giáo pháp từ Khế kinh đến Bản sanh, đều thuộc về phương tiện. Chỉ 3 phần giáo pháp gồm Phương quảng (Tỳ-phật-lược), Vị tằng hữu (A-phù-đà-đạt-ma) và Luận nghị (Ưu-ba-đề-xá) mới là rốt ráo, hiển bày Đại thừa, dẫn đến quả Phật.

[8] Tức lục thập nhị kiến (H. 六十二見, S. dvāṣaṣṭi dṛṣṭayaḥ), là 62 kiến chấp sai lầm. Có nhiều thuyết giải thích khác nhau, riêng Đại sư Trí Khải (tông Thiên Thai) y theo kinh Đại Bát-nhã phân tích bao gồm: 1. Đối với năm uẩn trong quá khứ khởi sinh kiến giải cho là thường, hoặc vô thường, hoặc cũng thường cũng vô thường, hoặc không phải thường không phải vô thường; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. 2. Đối với năm uẩn trong hiện tại khởi sinh kiến giải cho là có giới hạn, hoặc không có giới hạn, hoặc cũng giới hạn cũng không giới hạn, hoặc không phải giới hạn không phải không giới hạn; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. 3. Đối với năm uẩn trong tương lai khởi sinh kiến giải cho là sẽ mất đi, hoặc không mất đi, hoặc cũng mất đi cũng không mất đi, hoặc không phải mất đi không phải không mất đi; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. Ba nhóm kiến chấp vừa kể hợp thành 60 kiến chấp, lại thêm 2 kiến chấp cho rằng thần thức với thân này là một, hoặc thần thức với thân này là khác biệt, cộng thành 62 kiến chấp. Tất cả đều sai lầm nên gọi là tà kiến.

_________________________

« Kinh này có tổng cộng 7 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Hương lúa chùa quê - Phần 1: Hồi ký của Hòa thượng Thích Bảo Lạc


Vào thiền


Quy Sơn cảnh sách văn


Sống đẹp giữa dòng đời

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập