Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)

Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh [妙法蓮華經] »» Bản Việt dịch quyển số 6 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh [妙法蓮華經] »» Bản Việt dịch quyển số 6

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Việt dịch (3) » Việt dịch (4) » English version (1) » English version (2) » Nguyên bản Sanskrit » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.5 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.96 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 7 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

18. Phẩm Công đức tùy hỷ

Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Di-lặc thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu như có thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Pháp Hoa này sinh tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức?”

Rồi Bồ Tát Di-lặc đọc kệ lặp lại rằng:

“Sau khi Phật diệt độ,
Có người nghe kinh này,
Nếu khởi tâm tùy hỷ,
Được phước đức bao nhiêu?”

Khi ấy, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Di-lặc: “Này A-dật-đa! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hoặc người có trí khác, dù lớn hay nhỏ tuổi, nghe được kinh này rồi sinh tâm tùy hỷ, sau khi ra khỏi Pháp hội liền đi đến nơi khác, hoặc tăng phòng, hoặc chỗ thanh vắng, hoặc nơi thành ấp, đường sá, xóm làng, vườn ruộng, y theo những điều đã nghe mà tùy khả năng giảng nói lại cho cha mẹ, người thân thuộc, bạn hữu, tri thức… Những người được nghe sinh tâm tùy hỷ, tiếp tục nói lại với người khác; người khác nghe rồi cũng sinh tâm tùy hỷ, nói lại với người khác nữa… Cứ tiếp tục truyền đi như vậy cho đến người được nghe thứ năm mươi.

“Này A-dật-đa! Nay ta sẽ nói về công đức tùy hỷ của người thiện nam hoặc thiện nữ thứ năm mươi được nghe lại đó, ông nên lắng nghe thật kỹ.

“Nếu như trong bốn trăm muôn ức a-tăng-kỳ thế giới có sáu đường[1] chúng sinh, thuộc bốn cách sinh ra như noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh,[2] là những chúng sinh có hình sắc hay không có hình sắc, có tư tưởng hay không có tư tưởng, hoặc không phải có tư tưởng cũng không phải không có tư tưởng, hoặc những loài không chân, hoặc có hai chân, hoặc bốn chân, hoặc nhiều chân; trong số những chúng sinh như vậy, giả sử như có người vì cầu phước đức nên tùy theo chỗ mong muốn, những thứ tiện nghi đều chu cấp đầy đủ, mỗi một chúng sanh đều được tặng cho vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, các loại trân bảo quý báu cùng voi, ngựa, xe cộ, cung điện, lầu gác bằng bảy món báu, [nhiều đến mức] tràn ngập trong cõi Diêm-phù-đề.

“Người thí chủ lớn ấy, sau khi bố thí như vậy qua tám mươi năm rồi nghĩ rằng: ‘Ta đã bố thí cho những chúng sanh này đầy đủ mọi thứ tiện nghi, tùy theo sự mong muốn của họ, nhưng nay họ đều già yếu, tuổi quá tám mươi, da nhăn tóc bạc, không bao lâu sẽ chết, ta nên đem pháp Phật giảng dạy cho họ.’ Liền tập hợp những chúng sanh ấy lại, đem chánh pháp rộng truyền giáo hóa, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu,[3] giúp cho họ cùng lúc đều chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, được tự tại trong thiền định thâm sâu, đầy đủ tám pháp giải thoát.[4]

“Ý ông nghĩ sao, công đức người thí chủ lớn ấy đạt được có nhiều chăng?”

Bồ Tát Di-lặc thưa: “Bạch Thế Tôn! Người ấy được công đức rất nhiều, thật vô lượng vô biên. Nếu người thí chủ đó chỉ bố thí cho chúng sanh hết thảy mọi thứ tiện nghi thì công đức cũng đã là vô lượng, huống chi còn giúp cho họ chứng quả A-la-hán.”

Đức Phật bảo Bồ Tát Di-lặc: “Nay ta nói thật rõ ràng với ông, người ấy đem hết thảy mọi thứ tiện nghi bố thí cho chúng sanh sáu đường trong bốn trăm muôn ức a-tăng-kỳ thế giới, lại giúp họ đạt được quả A-la-hán như vậy, nhưng đạt được công đức không bằng người thứ năm mươi được nghe một bài kệ trong kinh Pháp Hoa sinh tâm tùy hỷ, thậm chí không bằng một phần trăm, một phần ngàn hay một phần trăm ngàn muôn ức, cho đến tính toán, thí dụ cũng không thể biết được.”

“Này A-dật-đa! Như công đức của người thứ năm mươi được nghe kinh Pháp Hoa thông qua người khác rồi sinh tâm tùy hỷ mà còn được a-tăng-kỳ vô lượng vô biên, huống chi là người đầu tiên ở trong Pháp hội được nghe rồi sanh tâm tùy hỷ? Phước đức của người này còn nhiều hơn a-tăng-kỳ vô lượng vô biên, không thể so sánh được.

“Lại nữa, A-dật-đa! Nếu người vì kinh này mà tìm đến tăng phòng, hoặc ngồi hoặc đứng trong thoáng chốc để nghe rồi thọ nhận, nhờ công đức ấy nên khi tái sinh vào đời khác sẽ có được những thứ voi, ngựa, xe cộ tốt nhất, đi kiệu bằng trân bảo, đi xe thiên cung.[5]

“Nếu như có người đang ngồi ở nơi giảng pháp lại có người khác đến, liền khuyến khích ngồi lại nghe, hoặc chia sẻ chỗ ngồi nghe, nhờ công đức ấy khi tái sinh đời khác liền được chỗ ngồi của Đế thích hoặc Phạm vương, hoặc được chỗ ngồi của Chuyển luân Thánh vương.

“Này A-dật-đa! Nếu như có người nói với người khác: ‘Có kinh tên là Pháp Hoa, chúng ta cùng đến nghe.’ Người kia nghe lời, thậm chí chỉ đến nghe trong thoáng chốc, người khuyến khích kia nhờ công đức ấy về sau được sinh ra cùng nơi với Bồ Tát đắc pháp đà-la-ni, được căn tánh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt, trăm ngàn muôn đời không bị câm ngọng, không bị hôi miệng, lưỡi thường không bệnh, miệng cũng không bệnh; răng mọc thẳng, trắng đều không thưa, không ố vàng, không dính cáu bẩn cũng không rụng hoặc khuyết mích; môi không trề xệ, không co rút, không thô ráp, không mụn nhọt lở loét, không khuyết sứt, không méo lệch, không quá dày, quá lớn, cũng không đen sạm, không có những hình dạng xấu; mũi không thấp tẹt, không gãy khúc; sắc mặt không đen, khuôn mặt không hẹp dài, không hóm gãy, không có bất kỳ tướng trạng khó coi nào; môi, lưỡi, răng đều tốt đẹp, mũi cao, thẳng; khuôn mặt tròn đầy; chân mày cao, dài; trán rộng, ngay phẳng; hình tướng nhân dạng đầy đủ,[6] đời đời sinh ra được thấy Phật nghe pháp, tin nhận sự giáo hóa răn dạy.

“A-dật-đa! Ông hãy xem đó, chỉ khuyến khích một người đến nghe pháp mà được công đức như vậy, huống chi người một lòng lắng nghe thuyết giảng, tụng đọc, ở trong đại chúng vì người khác phân biệt giảng giải và tu tập y theo lời dạy trong kinh?”

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Nếu người trong Pháp hội,
Được nghe kinh điển này,
Dù chỉ một bài kệ,
Tùy hỷ, vì người nói.

Rồi nói lại người khác,
Đến người thứ năm mươi,
Phước đức người cuối này,
Ta sẽ phân biệt nói.

Như có thí chủ lớn,
Giúp vô số chúng sanh
Đến năm tám mươi tuổi,
Thỏa mãn mọi ý muốn.

Khi thấy họ già yếu,
Tóc bạc, mặt nhăn nheo,
Răng rụng, thân khô gầy,
Nghĩ rằng họ sắp chết,
Nay ta nên giáo hóa,
Giúp họ chứng đạo quả.
Liền phương tiện thuyết dạy,
Pháp chân thật Niết-bàn.

‘Thế gian không bền chắc,
Như bọt nước, bóng nắng,
Các người thảy đều nên,
Gấp sinh tâm chán lìa.’

Những người kia nghe pháp,
Đều chứng A-la-hán,
Đầy đủ sáu thần thông,
Ba minh, tám giải thoát.

Người cuối thứ năm mươi,
Nghe kệ rồi tùy hỷ,
Phước hơn người bố thí,
Thật không thể thí dụ.

Người nghe qua nhiều người,
Còn được phước vô lượng,
Huống chi trong Pháp hội,
Ban đầu nghe, tùy hỷ.

Nếu khuyến khích một người,
Mời đến nghe Pháp Hoa,
Rằng: ‘Kinh này sâu mầu,
Ngàn muôn kiếp khó gặp.’
Người kia liền đến nghe,
Dù chỉ trong thoáng chốc,
Người khuyên được phước báo,
Nay sẽ phân biệt nói.

Đời đời miệng không bệnh,
Răng không thưa, đen, vàng;
Môi không dày, trề, sứt,
Không có hình dạng xấu;
Lưỡi không khô, đen, ngắn;
Mũi cao, dài và thẳng;
Trán rộng, phẳng, ngay ngắn,
Diện mạo rất đoan nghiêm,
Khiến người khác ưa nhìn.
Miệng không có mùi hôi;
Hương thơm hoa sen xanh,[7]
Thường tỏa ra từ miệng.

Nếu đi đến tăng phòng,
Vì muốn nghe Pháp Hoa,
Nghe thoáng chốc, hoan hỷ,
Ta sẽ nói phước ấy.

Tái sinh cõi trời, người,
Được voi, ngựa, xe đẹp,
Đi kiệu bằng trân bảo,
Hoặc đi xe thiên cung.[8]

Nếu ở nơi giảng pháp,
Khuyên người ngồi nghe kinh,
Nhờ phước ấy sẽ được,
Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân.

Huống chi một lòng nghe,
Giảng giải rõ ý nghĩa,
Lại tu hành y theo,
Phước ấy không thể lường.

_____________________________

CHÚ THÍCH


[1] Nguyên tác dùng “六趣 - lục thú”, chỉ 6 cảnh giới trong một thế giới, bao gồm cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[2] Tức là chỉ chung tất cả những cách sinh ra của chúng sinh, trong đó thai sinh là sinh từ bào thai, noãn sinh là sinh từ trứng, thấp sinh là sinh từ nơi ẩm ướt và hóa sinh là sinh từ sự biến hóa.

[3] Nguyên tác là “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, chỉ 4 giai đoạn tuần tự giáo hóa như đã giải thích ở trước.

[4] Tám giải thoát bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, nhằm trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát: Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát: Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát: Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát: Đạt địa vị trong tâm không còn có vật gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát: Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát: Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.

[5] Nguyên tác là “乘天宮 - thừa thiên cung”, bởi vì cung điện của chư thiên do phước báu nên có thể di chuyển khắp nơi, đưa các vị đi giống như một cỗ xe. Trong Phạn ngữ dùng chữ vimāna mang cả hai nghĩa là “cung điện” hoặc “thiên xa” (cỗ xe trời), do vậy nên Hán ngữ nói là “thừa thiên cung”.

[6] Nguyên tác là “人相具足 - nhân tướng cụ túc” (tướng người đầy đủ), tức là chỉ việc sinh ra làm người với đầy đủ mọi giác quan bình thường, không có gì khiếm khuyết, bất thường.

[7] Nguyên tác là ưu-bát hoa (優鉢華), nói đủ là ưu-bát-la hoa (優鉢羅華), phiên âm từ Phạn ngữ utpala, Hán dịch là thanh liên hoa (青蓮花), tức hoa sen màu xanh.

[8] Xe thiên cung: cung điện của chư thiên do phước báo nên có thể di chuyển tùy ý đến mọi nơi. Chư thiên ngự trong cung điện cũng giống như đi trên cỗ xe.

____________________________

19. Phẩm Công đức pháp sư

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Thường Tinh Tấn: “Nếu có thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, người ấy sẽ được tám trăm công đức của mắt, một nghìn hai trăm công đức của tai, tám trăm công đức của mũi, một nghìn hai trăm công đức của lưỡi, tám trăm công đức của thân, một nghìn hai trăm công đức của ý;[1] dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn, khiến cho tất cả đều thanh tịnh.

“Người thiện nam hoặc thiện nữ ấy, với mắt phàm tục do cha mẹ sinh ra, nhờ thanh tịnh nên thấy hết những gì trong thế giới đại thiên, cả trong lẫn ngoài, từ núi rừng, sông biển, xuống tới địa ngục A-tỳ, lên đến cõi trời Hữu đỉnh, cũng thấy hết thảy chúng sinh trong đó cùng với nhân duyên nghiệp quả, nơi sinh ra của họ, thấy biết tất cả.”

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng:

“Hãy lắng nghe công đức,
Của người giữa đại chúng,
Dùng tâm không sợ sệt,
Thuyết kinh Pháp Hoa này.

Người ấy được tám trăm,
Công đức mắt thù thắng;
Nhờ sự trang nghiêm ấy,
Nên mắt rất thanh tịnh;

Mắt do cha mẹ sinh,
Thấy hết cõi đại thiên,
Trong ngoài núi Di-lâu,
Núi Tu-di, Thiết vi…
Cùng những núi rừng khác,
Biển lớn và sông ngòi,
Dưới đến ngục A-tỳ,
Trên thấu trời Hữu đỉnh,

Bao chúng sanh trong đó,
Hết thảy đều thấy rõ.
Tuy chưa được thiên nhãn,
Mắt phàm thấy như vậy.”

“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của tai. Người ấy dùng tai thanh tịnh nghe được trong khắp thế giới đại thiên, dưới xuống đến địa ngục A-tỳ, trên lên tới cõi trời Hữu đỉnh, đủ mọi âm thanh, ngôn ngữ ở bên trong và bên ngoài, như tiếng voi, ngựa, trâu bò, tiếng xe cộ; tiếng kêu khóc, tiếng than thở; tiếng tù và, tiếng trống, chuông, chuông lắc;[2] tiếng cười nói, tiếng đàn ông, đàn bà, tiếng trẻ em trai gái; tiếng đúng pháp, tiếng không đúng pháp; tiếng khổ đau, tiếng ưa thích; tiếng phàm phu, tiếng bậc thánh; tiếng vui mừng, tiếng không vui; tiếng chư thiên, tiếng các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già; tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió; tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ; tiếng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật… Nói tóm lại là hết thảy mọi âm thanh bên trong và bên ngoài cõi thế giới đại thiên. Người ấy tuy chưa đạt được thiên nhĩ, nhưng với tai phàm tục do cha mẹ sinh ra, nhờ thanh tịnh nên nghe biết được hết thảy, phân biệt đủ mọi âm thanh như vậy mà nhĩ căn không bị hư hoại.”

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Lỗ tai cha mẹ sinh,
Khi thanh tịnh vô nhiễm,
Có thể dùng lắng nghe,
Âm thanh khắp thế giới.

Tiếng voi, ngựa, trâu bò,
Chuông, linh, tù và, trống,
Đàn cầm, sắt, không hầu,
Tiếng tiêu hoặc tiếng địch,
Tiếng ca hát thanh tịnh,
Nghe mà không bám chấp;
Vô số loại ngôn ngữ,
Nghe rồi đều hiểu rõ;

Lại nghe tiếng chư thiên,
Tiếng xướng ca nhiệm mầu,
Tiếng kẻ nam người nữ,
Tiếng trẻ gái cùng trai;
Tiếng núi sâu, khe hiểm,
Tiếng ca-lăng-tần-già,
Các chim như mạng mạng…[3]
Đều nghe được tiếng hót;

Tiếng khổ đau địa ngục,
Các âm thanh độc hại,
Tiếng ngạ quỷ đói khát,
Cầu xin được ăn uống,

Tiếng các a-tu-la,
Sống nơi vùng ven biển,
Lúc trò chuyện cùng nhau,
Phát ra âm thanh lớn.

Như vậy, người thuyết pháp,
Chỉ ở yên nơi này,
Nghe được âm thanh xa,
Nhĩ căn không tổn hại.

Trong mười phương thế giới,
Chim, thú kêu gọi nhau,
Người thuyết pháp ở đây,
Đều nghe rõ tất cả.

Từ trên cõi Phạm thiên,
Cõi Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đỉnh,
Những âm thanh ngôn ngữ,
Vị pháp sư ở đây,
Đều nghe được tất cả.

Hết thảy chúng tỳ-kheo,
Hoặc các tỳ-kheo-ni,
Khi tụng đọc kinh điển,
Giảng giải cùng người khác,
Vị pháp sư ở đây,
Đều nghe được tất cả.

Lại có các Bồ Tát,
Tụng kinh điển, giáo pháp,
Hoặc giảng cho người khác,
Hoặc biên soạn, giải nghĩa,
Những âm thanh như vậy,
Pháp sư đều nghe được.

Chư Phật bậc Đại thánh,
Khi giáo hóa chúng sanh,
Ở giữa các Đại hội,
Diễn giảng pháp nhiệm mầu;
Người trì kinh Pháp Hoa,
Đều nghe được tất cả.

Những âm thanh trong, ngoài
Cõi thế giới đại thiên,
Trên từ trời Hữu đỉnh,
Xuống tận ngục A-tỳ,
Nghe hết mọi âm thanh,
Nhĩ căn không tổn hại,
Nhờ tai được nhạy bén,
Phân biệt nghe biết cả.

Người trì kinh Pháp Hoa,
Tuy chưa được thiên nhĩ,
Chỉ dùng tai phàm tục,
Nhờ công đức được vậy.”

“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được tám trăm công đức của mũi. Người ấy dùng mũi thanh tịnh ngửi được đủ các loại mùi hương ở bên trên, bên dưới, bên trong và bên ngoài thế giới đại thiên, như hương các loại hoa tu-mạn-na, xà-đề, mạt-lợi, chiêm-bặc, ba-la-la, sen đỏ, sen xanh, sen trắng; hương hoa của cây, hương trái của cây, hương chiên-đàn, hương trầm thủy, hương đa-ma-la-bạt,[4] hương đa-già-la,[5] cùng ngàn muôn loại hương hòa hợp, hoặc hương bột, hương viên, hương thoa, người trì kinh Pháp Hoa dù ở tại đây đều có thể phân biệt được. Lại có thể biết mùi hương khác biệt của các chúng sinh như mùi của voi, ngựa, trâu bò, dê..., hương đàn ông, đàn bà, trẻ em trai gái; hương cỏ cây rừng rậm, hoặc gần hoặc xa, tất cả các loại mùi hương đều ngửi biết, phân biệt không sai lầm.

“Người trì kinh này tuy ở tại đây cũng ngửi được các mùi hương trên cõi trời, như hương cây ba-lợi-chất-đa-la,[6] cây câu-bệ-đà-la,[7] cùng hương các loại hoa như mạn-đà-la, đại mạn-đà-la, mạn-thù-sa, đại mạn-thù-sa; hương chiên-đàn, trầm thủy, các thứ hương bột, các loại hương hoa trộn lẫn... những thứ hương cõi trời như thế hòa hợp tỏa ra, không loại nào không ngửi biết.

“Lại ngửi được mùi hương trên thân của chư thiên, như hương của Thích Đề Hoàn Nhân[8] khi ngự trên Thắng điện, hoặc khi đang vui chơi thụ hưởng năm món dục; hoặc khi ở trên Diệu pháp đường vì chư thiên cõi trời Đao-lợi thuyết pháp; hoặc khi dạo chơi trong các khu vườn trời; cùng với mùi hương trên thân của chư thiên nam nữ khác, đều có thể từ xa ngửi được.

“Như thế dần lên đến chư thiên cõi Phạm thế,[9] lên trên đến cõi trời Hữu đỉnh, cũng đều ngửi được mùi hương trên thân chư thiên, cùng với mùi hương mà chư thiên đốt lên. Lại cũng từ xa ngửi được mùi hương trên thân của các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật, biết được chư vị đang ở đâu.

“Tuy ngửi được đủ các thứ hương như vậy nhưng mũi không tổn hại, không nhầm lẫn, nếu muốn vì người khác phân biệt nói ra thì đều ghi nhớ không sai lầm.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Người có mũi thanh tịnh,
Ở trong thế giới này,
Mọi hương thơm, mùi hôi,
Hết thảy đều ngửi biết.

Hương tu-mạn, xà-đề,
Đa-ma-la, chiên-đàn,
Hương trầm thủy, hương quế,
Các loại hương hoa trái.

Ngửi được hương chúng sinh,
Như hương người nam, nữ.
Người thuyết pháp ở xa,
Ngửi hương, biết chỗ ở.

Đại thế Chuyển luân vương,
Tiểu Chuyển luân, thái tử,
Quần thần, các cung nhân,
Ngửi hương biết ở đâu.

Châu báu đeo trên thân,
Kho báu chôn trong đất,
Bảo nữ Chuyển luân vương,[10]
Ngửi hương biết ở đâu.

Người khác làm đẹp thân,
Với y phục, chuỗi ngọc,
Các loại hương thoa thân,
Ngửi hương, biết thân người.

Chư thiên đi hoặc ngồi,
Vui chơi, hiện thần biến,
Người trì kinh Pháp Hoa,
Ngửi hương đều biết được.

Hoa, trái, hạt các cây,
Hoặc hương từ tô du,[11]
Người trì kinh ở đây,
Đều biết được ở đâu.

Trong núi sâu hiểm trở,
Cây chiên-đàn nở hoa,
Có chúng sinh ở đó,
Ngửi hương đều biết được.

Núi Thiết vi, biển cả,
Chúng sinh trong lòng đất,
Người trì kinh ngửi hương,
Đều biết được ở đâu.

Nam, nữ a-tu-la,
Cùng quyến thuộc của họ,
Khi đánh nhau, vui chơi,
Ngửi hương đều biết được.

Nơi đồng hoang, hiểm trở,
Sư tử, voi, cọp, sói,
Trâu rừng, hoặc trâu nước...
Ngửi mùi biết ở đâu.

Nếu có người mang thai,
Chưa rõ trai hay gái,
Không giác quan, phi nhân…
Ngửi hương đều biết ngay.

Do năng lực ngửi hương,
Vừa mang thai đã biết,
Việc an ổn sinh con
Có thành tựu hay không.

Do năng lực ngửi hương,
Biết ý nghĩ trai, gái,
Tâm tham dục, sân, si,
Cũng biết người tu thiện.

Những kho tàng chôn giấu,
Chứa vàng bạc, châu báu,
Hoặc đồ chứa bằng đồng,
Ngửi hương đều biết được.

Hoặc các loại chuỗi ngọc,
Không ai biết giá bán,
Ngửi hương biết đắt, rẻ,
Từ đâu đến, ở đâu.

Các loài hoa cõi trời,
Mạn-đà, mạn-thù-sa,
Cây ba-lợi-chất-đa,
Ngửi hương đều rõ biết.

Những cung điện cõi trời,
Có hoa báu trang ngiêm,
Thượng, trung, hạ sai khác,
Ngửi hương đều rõ biết.

Vườn cõi trời, Thắng điện,
Đài quán, Diệu pháp đường,
Chư thiên vui trong đó,
Ngửi hương đều rõ biết.

Hoặc chư thiên nghe pháp,
Khi hưởng năm món dục,
Qua lại, đi, nằm, ngồi,
Ngửi hương đều rõ biết.

Y phục các thiên nữ,
Hương hoa đẹp trang nghiêm,
Khi dạo chơi loanh quanh,
Ngửi hương đều rõ biết.

Như thế dần trở lên,
Cho đến cõi Phạm thế,
Chư thiên xuất, nhập thiền,
Ngửi hương đều rõ biết.

Trời Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đỉnh,
Chư thiên sinh, diệt mất,
Ngửi hương đều rõ biết.

Như các vị tỳ-kheo…
Lúc tinh tấn tu tập,
Hoặc ngồi hoặc kinh hành,
Hoặc tụng đọc kinh điển;
Dưới cội cây trong rừng,
Chỉ chuyên tâm ngồi thiền;
Người trì kinh, ngửi hương,
Liền biết được nơi chốn.

Bồ Tát chí kiên cố,
Hoặc ngồi thiền, tụng kinh,
Hoặc vì người thuyết pháp,
Ngửi hương đều rõ biết.

Chư Phật khắp mười phương,
Được tất cả cung kính,
Thương chúng sinh thuyết pháp,
Ngửi hương đều rõ biết.

Chúng sinh ở trước Phật,
Nghe kinh đều hoan hỷ,
Y theo pháp tu hành,
Ngửi hương đều rõ biết.

Chưa được mũi sinh từ
Pháp Vô lậu Bồ-tát,
Người trì kinh đã được,
Năng lực mũi như vậy.”

“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của lưỡi. [Thức ăn dù] tốt hay xấu, ngon hay không ngon, hoặc đắng chát, khi chạm đến lưỡi của người ấy đều hóa thành vị ngon thượng hạng, như cam lộ cõi trời, không món nào là không ngon ngọt. Nếu dùng lưỡi ấy giảng thuyết giữa đại chúng sẽ phát ra âm thanh sâu xa vi diệu đi vào lòng người, khiến người nghe đều được vui mừng thích thú.

“Lại có chư thiên nam nữ, các vị Đế thích, Phạm vương… nghe âm thanh sâu xa vi diệu ấy giảng giải luận bàn có trình tự thứ lớp, thảy đều đến nghe.

“Lại có các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già cả nam lẫn nữ, vì nghe pháp nên đều tìm đến gần gũi cung kính cúng dường.

“Lại có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, quốc vương, thái tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển luân vương, Đại Chuyển luân vương với đủ bảy báu,[12] một nghìn người con cùng nội ngoại quyến thuộc, ngồi trên các cỗ xe báu[13] cùng đến nghe pháp. Đó là do Bồ Tát [trì kinh Pháp Hoa] này giỏi việc thuyết pháp.

“Người ấy lại được hàng bà-la-môn, cư sĩ, nhân dân trong nước thường trọn đời theo hầu hạ cúng dường. Các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật thường muốn gặp vị ấy. Người ấy ở phương nào thì chư Phật đều hướng về nơi đó thuyết pháp; người ấy có thể thọ trì tất cả pháp Phật, lại có thể tự mình nói ra pháp âm sâu xa vi diệu.”

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:

“Lưỡi người này thanh tịnh,
Không phải nếm vị dở,
Dù ăn uống món gì,
Đều hóa thành cam lộ.

Dùng âm thanh sâu mầu,
Thuyết pháp giữa đại chúng,
Dùng nhân duyên thí dụ,
Dẫn dắt tâm chúng sinh.

Người nghe đều hoan hỷ,
Cúng dường các món ngon.
Chư thiên, rồng, dạ-xoa,
Các loài a-tu-la…
Đều khởi tâm cung kính,
Cùng đến nghe thuyết pháp.

Người thuyết pháp như vậy,
Nếu muốn cho diệu âm,
Vang khắp cùng thế giới,
Tùy ý làm được ngay.

Tiểu, Đại Chuyển luân vương,
Cùng nghìn con, quyến thuộc,
Tâm cung kính, chắp tay,
Tìm đến nghe thuyết pháp.

Chư thiên, rồng, dạ-xoa,
La-sát, tỳ-xá-xà,
Cũng dùng tâm hoan hỷ,
Thường vui thích cúng dường.

Phạm thiên vương, Ma vương,
Tự tại, Đại tự tại…
Các thiên chúng như vậy,
Thường đến chỗ người này.

Chư Phật cùng đệ tử,
Nghe người ấy thuyết pháp,
Thường nhớ nghĩ, hộ trì,
Hoặc vì người hiện thân.”

“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được tám trăm công đức của thân, được thân thanh tịnh như lưu ly trong suốt, chúng sanh đều vui thích ngắm nhìn.

“Thân người ấy được thanh tịnh nên những việc như sinh ra, chết đi, cao thấp, tốt xấu, sinh về cõi lành, cõi xấu ác… của tất cả chúng sanh trong thế giới đại thiên, hết thảy đều [có hình ảnh] hiện ra trong thân [lưu ly trong suốt] ấy.

“Lại nữa, các núi như Thiết vi, Đại Thiết vi, Di-lâu, Đại Di-lâu… cùng những chúng sinh sống trong đó, hết thảy đều hiện ra trong thân ấy.

“Lại nữa, từ địa ngục A-tỳ ở bên dưới lên trên đến cõi trời Hữu đỉnh, hết thảy hình tượng cùng chúng sanh đều hiện ra trong thân ấy.

“Nếu có các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, thì trong thân người ấy đều hiện đủ các hình sắc cảnh tượng.”

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Nếu trì kinh Pháp Hoa,
Được thân rất thanh tịnh,
Như lưu ly trong suốt,
Chúng sinh đều thích nhìn.

Lại như đài gương sáng,
Phản chiếu mọi hình tượng,
Bồ Tát thân thanh tịnh,
Nhìn thấy khắp thế gian,
Nhưng chỉ riêng mình biết,
Người khác không thấy được.

Trong thế giới đại thiên,
Bao chúng sinh mê mờ,
Trời, người, a-tu-la,
Địa ngục, quỷ, súc sinh,
Những hình tượng như thế,
Đều hiện ra nơi thân.

Những cung điện chư thiên,
Lên đến cõi Hữu đỉnh,
Núi Thiết vi, Di-lâu,
Hoặc núi Đại Di-lâu,
Cùng các vùng biển lớn,
Đều hiện ra nơi thân.

Chư Phật cùng Thanh văn,
Đệ tử Phật, Bồ Tát,
Độc cư, hoặc thuyết pháp
Giữa đại chúng, đều hiện.

Chưa được thân vi diệu,
Từ pháp tánh vô lậu,
Thể thanh tịnh thân phàm,
Tất cả đều hiện rõ.”

“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của ý. Với ý căn thanh tịnh này, dù chỉ nghe một bài kệ, một câu kinh cũng thấu hiểu thông suốt ý nghĩa vô lượng vô biên. Hiểu được ý nghĩa ấy rồi, có thể diễn giảng một bài kệ, một câu kinh đó trong một tháng, bốn tháng, thậm chí một năm; những pháp thuyết giảng đều thuận theo ý nghĩa, không trái với thật tướng.

“Nếu người ấy giảng giải kinh sách thế gian, nói về thuật xử thế hoặc nghề nghiệp sinh nhai… cũng đều phù hợp với chánh pháp.

“Tất cả những biến chuyển, động khởi, tạo tác, hý luận trong tâm của hết thảy chúng sanh sáu cõi trong thế giới đại thiên, người ấy đều rõ biết. Người ấy tuy chưa đạt được trí tuệ vô lậu nhưng nhờ ý căn thanh tịnh như vậy nên mọi tư tưởng suy lường, nói năng đều là pháp Phật, tất cả đều chân thật, cũng đều là những điều chư Phật trước đây đã thuyết dạy trong kinh điển.”

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Người này ý thanh tịnh,
Sáng suốt không uế nhiễm,
Dùng ý căn nhiệm mầu,
Hiểu pháp thượng, trung, hạ.

Dù nghe một bài kệ,
Thấu suốt vô lượng nghĩa,
Tuần tự thuyết giảng lại,
Một tháng đến một năm.

Hết thảy mọi chúng sanh,
Trong, ngoài thế giới này,
Chư thiên, người, loài rồng,
Dạ-xoa, các quỷ thần…
Đang ở trong sáu đường,
Niệm tưởng vừa sinh khởi,
Phước báo trì Pháp Hoa,
Tức thời rõ biết hết.

Vô số Phật mười phương,
Tướng trăm phước trang nghiêm,[14]
Vì chúng sanh thuyết pháp,
Đều nghe được, thọ trì.
Suy xét vô lượng nghĩa,
Thuyết pháp cũng vô lượng,
Trước sau không sai sót,
Trì Pháp Hoa được vậy.

Hiểu thấu mọi tướng pháp,
Tùy nghĩa biết trước sau,
Thông suốt mọi tên gọi,
Theo chỗ biết diễn giải.

Người ấy nói điều gì,
Đều là pháp Phật xưa,
Vì diễn giảng pháp ấy,
Giữa đại chúng không sợ.

Người trì kinh Pháp Hoa,
Ý thanh tịnh như thế,
Tuy chưa được vô lậu,
Được tướng như vậy trước.

Người trì kinh an trụ,
Nơi địa vị hy hữu,
Được hết thảy chúng sanh,
Đều hoan hỷ yêu kính.

Nhờ trì kinh Pháp Hoa,
Nên biết ngàn muôn cách,
Khéo léo chọn ngôn từ,
Để phân biệt thuyết pháp.

__________________________

CHÚ THÍCH


[1] Nguyên tác dùng “眼功德 - nhãn công đức”, “耳功德 - nhĩ công đức” v.v. Các bản dịch trước đây hiểu là “công đức nơi mắt, công đức nơi tai…”. Tham khảo giảng giải trong kinh Lăng nghiêm và các kinh luận khác nói về công đức của 6 căn thì đây là “công đức của mắt, công đức của tai…” do các căn này tạo ra, chứ không phải chỉ đến công đức ở những nơi đó. Ví dụ như nhãn căn thanh tịnh tạo ra được 800 công đức, vì mắt chỉ có thể nhìn được phía trước và hai bên; nhĩ căn thanh tịnh tạo ra được 1.200 công đức, vì tai có khả năng nghe khắp chung quanh. Những công đức này được tạo ra do nhãn căn, nhĩ căn… thanh tịnh, và sự thanh tịnh này có được nhờ đọc, tụng, giảng giải, sao chép kinh Pháp Hoa. Đây là ý nghĩa của phẩm kinh này. Tham khảo bản Anh ngữ của H. Kern cũng dịch tương tự là “eight hundred good qualities of the eye” (800 công đức của mắt).

[2] Chuông lắc, cũng gọi là cái linh, chỉ loại chuông nhỏ có thanh kim loại treo bên trong, khi cầm lắc hay lúc treo có gió lay thì phát ra âm thanh.

[3] Chim mạng mạng (命命鳥), tức là chim kỳ-bà-kỳ-bà-ca (jīvajīvaka), trong kinh A-di-đà gọi là chim cộng mạng.

[4] Đa-ma-la-bạt: một loại chiên đàn quý đã nói ở trước.

[5] Hương đa-già-la (H. 多伽羅香, S. tagara), loại hương thơm được chế từ cây đa-già-la.

[6] Cây ba-lợi-chất-đa-la (H. 波利質多羅樹, S. pārijātaka), cây lớn đặc biệt nằm ở thành Thiện Kiến trên cung trời Đao-lợi, cao 100 do-tuần, cành lá hoa trái đều có mùi thơm, tỏa khắp cung trời nên gọi là cây hương biến (香遍樹).

[7] Cây câu-bệ-đà-la (H. 拘鞞陀羅樹, S. kovidāra), loại cây rất cao lớn, hình dáng đẹp, cành lá sum suê tươi tốt không lúc nào đổi màu.

[8] Thích Đề Hoàn Nhân (S. Śakra Devānāmindra, H. 釋提桓因), vị thiên chủ cõi trời Đao-lợi, cũng gọi là Thiên Đế hay Thiên Đế Thích.

[9] Phạm thế (H. 梵世, S. brahmaloka), tức Phạm thế giới, chỉ cõi trời do Phạm thiên cai quản.

[10] Nguyên tác dùng bảo nữ (寶女), thường gọi là nữ bảo (女寶), một trong thất bảo (7 món báu) do phước đức của vị Chuyển luân vương mà tự nhiên hiện ra khi vị ấy ra đời. Nữ bảo do phước đức biến hiện, không phải người thật, là mỹ nhân xinh đẹp và hiền thục, luôn có thể hiểu được ý vua.

[11] Tô du (酥油) được chế biến từ sữa bò bằng cách lấy váng sữa, cô đặc lại, có thể dùng trị bệnh. Có 2 loại là sinh tô (生酥), tức bơ sống, và thục tô (熟酥), bơ chín.

[12] Bảy báu tự nhiên hiện ra do phước báu của vị Chuyển luân vương bao gồm: luân bảo (bánh xe báu, t đưa vua đi chinh phục khắp nơi); tượng bảo (voi quý); mã bảo (ngựa quý); châu bảo (các loại châu báu quý giá); nữ bảo (người con gái khéo hầu hạ, luôn rõ biết ý vua); chủ tạng bảo (vị quan giữ kho tài giỏi, rõ biết tất cả các kho tàng chôn giấu trong lòng đất); chủ binh thần bảo (vị tướng quân giỏi việc chinh phạt).

[13] Nguyên tác là “乘其宮殿 - thừa kỳ cung điện”, e rằng có sự nhầm lẫn giữa cung điện của chư thiên (vimāna), vốn được sử dụng như những cỗ xe, có thể đưa các vị đi khắp nơi tùy ý muốn. Cung điện của các vị Chuyển luân vương ở cõi Ta-bà không có chức năng này, nên họ phải đi trên các cỗ xe bình thường, không thể “thừa kỳ cung điện” giống như chư thiên “thừa thiên cung”, đã nói ở một phần trước. Tham khảo bản dịch Anh ngữ của H. Kern ở câu tương ứng không có ý này: “Kings ruling armies and emperors possessed of the seven treasures, along with the princes royal, ministers, ladies of the harem, and their retinue will be desirous of seeing him and paying him their homage.” (Các vị vua thống lĩnh quân đội và Chuyển luân vương có bảy báu, cùng các vương tử, đại thần, cung nữ trong hậu cung và những người theo hầu đều mong muốn được gặp vị ấy và kính lễ.)

[14] Tướng trăm phước trang nghiêm (H. 百福莊嚴相, S. śata-puṇya-vicitrita), chỉ 32 tướng tốt của chư Phật vì mỗi tướng đều do trăm phước trang nghiêm mà thành tựu.

__________________________

20. Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Đắc Đại Thế:[1] “Ông nên biết rằng, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào thọ trì kinh Pháp Hoa mà bị người khác dùng lời ác độc mắng chửi, hủy báng, thì kẻ đó sẽ bị tội báo nặng nề như đã nói ở trước, còn công đức của người trì kinh thì như ta vừa nói, sẽ được mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thanh tịnh.

“Này Đắc Đại Thế! Thuở xa xưa, cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp đó tên Ly Suy, cõi nước tên Đại Thành, đức Phật Oai Âm Vương ở giữa cõi đời ấy vì hàng trời, người, a-tu-la thuyết pháp: Vì những người cầu Thanh văn nói pháp Tứ đế để thoát khỏi sinh già bệnh chết, đạt đến Niết-bàn; vì những người cầu Duyên giác nói pháp Thập nhị nhân duyên; vì các Bồ Tát gieo nhân Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên nói pháp sáu ba-la-mật để rốt ráo được trí tuệ Phật.

“Này Đắc Đại Thế! Đức Phật Oai Âm Vương sống thọ qua số kiếp bằng số cát của bốn mươi muôn ức na-do-tha con sông Hằng; Chánh pháp trụ thế số kiếp bằng số hạt bụi nhỏ của một cõi Diêm-phù-đề; Tượng pháp trụ thế số kiếp bằng số hạt bụi nhỏ của một cõi Tứ thiên hạ. Đức Phật ấy làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh, rồi sau đó diệt độ. Sau khi Chánh pháp và Tượng pháp diệt hết, trong cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Lần lượt tiếp nối ra đời hai muôn ức đức Phật đều cùng một danh hiệu như vậy.

Khi đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên đã diệt độ,[2] chánh pháp diệt mất. Trong thời gian tượng pháp các tỳ-kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có vị tỳ-kheo Bồ Tát tên là Thường Bất Khinh.

“Này Đắc Đại Thế! Do nhân duyên gì vị ấy có tên gọi là Thường Bất Khinh? Vì vị tỳ-kheo này mỗi khi gặp các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều lễ bái, ngợi khen xưng tán và nói rằng: ‘Tôi hết sức cung kính các ngài, không dám khinh thường. Vì sao vậy? Các ngài đều thực hành đạo Bồ Tát, đều sẽ thành Phật.’

“Nhưng vị tỳ-kheo này không chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái; thậm chí khi từ xa nhìn thấy bốn chúng cũng cố đến gần lễ bái, ngợi khen xưng tán và nói rằng: ‘Tôi không dám khinh thường, các ngài đều sẽ thành Phật.’

“Trong bốn chúng có những người giận dữ, khởi tâm không thanh tịnh, dùng lời độc ác mắng nhiếc rằng: ‘Tỳ-kheo ngu si này từ đâu đến? Tự nhiên lại nói “tôi không khinh thường các ông” rồi thụ ký chúng ta sẽ thành Phật. Chúng ta không cần sự thụ ký hư dối này.’

“Trải qua nhiều năm như vậy, vị ấy thường bị chửi mắng[3] vẫn không sân hận, luôn nói rằng: ‘Các ngài sẽ thành Phật.’ Khi nói như vậy, thường bị những người khác dùng gậy đuổi đánh, dùng ngói đá ném, vị ấy liền chạy tránh ra xa rồi dừng lại, vẫn lớn tiếng nói: ‘Tôi không dám khinh thường, các ngài đều sẽ thành Phật.’ Vì thường nói như vậy nên những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tăng thượng mạn đặt tên vị ấy là Thường Bất Khinh.

“Khi vị tỳ-kheo ấy sắp qua đời, từ trên không trung được nghe đủ hai mươi ngàn muôn ức bài kệ trong kinh Pháp Hoa mà Phật Oai Âm Vương đã thuyết giảng trước đây, có thể thọ trì được tất cả, liền đạt được nhãn căn thanh tịnh, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn, ý căn đều thanh tịnh như trước đã nói. Đạt được sáu căn thanh tịnh rồi, lại tăng thêm tuổi thọ đến hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi, rộng vì người khác thuyết giảng kinh Pháp Hoa này.

“Khi ấy, những người tăng thượng mạn trong bốn chúng: tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trước đây khinh thường vị tỳ-kheo ấy, đã đặt tên là Bất Khinh, nay thấy vị ấy đạt được sức đại thần thông, sức biện tài nhạo thuyết, sức tịch tịnh an định, được nghe thuyết giảng liền tin phục theo học.

“Bồ Tát ấy giáo hóa ngàn muôn ức chúng sanh, khiến cho trụ trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi qua đời, [lại lần lượt tái sinh] được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, ở trong pháp hội của chư Phật ấy thuyết giảng kinh Pháp Hoa này.

“Do nhân duyên ấy, lại được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng một danh hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, ở trong pháp hội của chư Phật ấy cũng thọ trì, tụng đọc, vì bốn chúng mà thuyết giảng kinh này, nên thường được nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn, ý căn thanh tịnh, thuyết pháp giữa bốn chúng với tâm không sợ sệt.

“Này Đắc Đại Thế! Đại Bồ Tát Thường Bất Khinh ấy, cúng dường biết bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính, tôn trọng, ngợi khen xưng tán, gieo trồng các căn lành, về sau lại được gặp ngàn muôn ức đức Phật, lại cũng ở trong pháp hội của chư Phật ấy thuyết giảng kinh điển này, thành tựu công đức, liền được thành Phật.

“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở ấy nào phải ai khác, chính là ta đó. Nếu như đời trước ta không thọ trì, tụng đọc kinh này, vì người khác giảng nói, thì không thể nhanh chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta ở đạo tràng của chư Phật trước đây thọ trì tụng đọc kinh này, vì người khác giảng nói, cho nên mới nhanh chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Đắc Đại Thế! Bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thuở xưa, khởi ý sân hận mà khinh thường ta nên trong hai trăm ức kiếp thường không được gặp Phật, không được nghe pháp, không được gặp tăng, ngàn kiếp ở trong địa ngục A-tỳ chịu những khổ não lớn lao. Khi tội nghiệp đã hết, được gặp lại Bồ Tát Thường Bất Khinh, giáo hóa theo đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng thuở xưa khinh chê vị Bồ Tát ấy nào phải ai khác, chính là những người nay đang ở trong pháp hội này. Đó là nhóm ông Bạt-đà-la năm trăm Bồ Tát, nhóm ông Sư Tử Nguyệt năm trăm tỳ-kheo, nhóm ông Ni-tư-phật năm trăm ưu-bà-tắc,[4] đều được bất thối chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Đắc Đại Thế! Nên biết rằng kinh Pháp Hoa này làm lợi ích lớn lao cho các vị Đại Bồ Tát, có thể giúp đạt đến quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên sau khi Như Lai diệt độ, các Đại Bồ Tát nên thường thọ trì, tụng đọc, giảng nói, sao chép kinh này.”

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Thuở quá khứ có Phật,
Hiệu là Oai Âm Vương.
Sức trí tuệ vô lượng,
Dẫn dắt mọi chúng sanh;
Chư thiên, người, rồng, thần,
Đều cùng nhau cúng dường.

Sau khi Phật diệt độ,
Lúc pháp Phật sắp diệt,
Có một vị Bồ Tát,
Hiệu là Thường Bất Khinh.

Khi ấy trong bốn chúng,
Đều bám chấp nơi pháp.
Bồ Tát Thường Bất Khinh,
Thường đi đến chỗ họ,
Nói lời cung kính rằng:
‘Tôi không dám khinh thường,
Các ngài đều tu đạo,
Tương lai sẽ thành Phật.’

Những người kia nghe vậy,
Đều khinh chê, mắng nhiếc;
Bồ Tát Thường Bất Khinh,
Nhẫn chịu được tất cả.

Khi tội nghiệp đã dứt,
Bồ Tát sắp mạng chung,
Được nghe kinh Pháp Hoa,
Sáu căn liền thanh tịnh.

Liền được sức thần thông,
Tuổi thọ kéo dài thêm,
Lại vì những người khác,
Rộng thuyết kinh Pháp Hoa.

Những người trước mê chấp,
Nay đều được Bồ Tát,
Giáo hóa cho thành tựu,
Trụ yên trong đạo Phật.

Bồ Tát viên tịch rồi,
Gặp vô số chư Phật;
Nhờ giảng nói Pháp Hoa,
Được vô lượng phước báo;
Dần dần đủ công đức,
Nhanh chóng thành quả Phật.

Thường Bất Khinh thuở trước,
Chính là ta ngày nay.
Còn bốn chúng thuở ấy,
Người bám chấp, mê pháp,
Được nghe Bồ Tát nói:
‘Đều sẽ được thành Phật.’
Nhờ vào nhân duyên ấy,
Được gặp vô số Phật,
Là Bồ Tát hội này,
Có nhóm năm trăm người;
Cùng với trong bốn chúng,
Có cư sĩ nam, nữ,
Nay đang ở trước Phật,
Cung kính nghe thuyết pháp.[5]

Ta từ những đời trước,
Khuyên dạy những người này:
Nghe, thọ kinh Pháp Hoa,
Là pháp tu bậc nhất.

Mở bày, giáo hóa người,
Khiến trụ nơi Niết-bàn;
Đời đời nên thọ trì,
Kinh điển bậc nhất này.

Vì qua ngàn muôn ức,
Số kiếp không nghĩ bàn,
Mới có thể được nghe,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa;

Lại qua ngàn muôn ức,
Số kiếp không nghĩ bàn,
Các đức Phật Thế Tôn,
Mới thuyết giảng kinh này.

Cho nên người tu học,
Sau khi Phật diệt độ,
Nếu được nghe kinh này,
Đừng sinh tâm nghi hoặc;

Mà nên trọn một lòng,
Truyền rộng kinh điển này;
Đời đời luôn gặp Phật,
Chóng thành đạo Vô thượng.

__________________

CHÚ THÍCH

[1] Bồ Tát Đắc Đại Thế (得大勢菩薩), tên Phạn ngữ là Mahā-sthāma-prāpta, danh xưng thường gặp hơn là Bồ Tát Đại Thế Chí (大勢至菩薩). Chánh Pháp Hoa kinh gọi tên vị này là Bồ Tát Đức Đại Thế (德大勢菩薩).

[2] Tham khảo Chánh Pháp Hoa Kinh, đoạn tương ứng nói rằng: “時此諸佛次第滅度,正法沒已像法次盡,彼世比丘,憍慢自大越背法詔。 - Thời thử chư Phật thứ đệ diệt độ, chánh pháp một dĩ tượng pháp thứ tận, bỉ thế tỳ-kheo, kiêu mạn tự đại việt bội pháp chiếu.” (ĐCT, T9, 263, tr.122c, d. 20 - 22) Nếu hiểu theo câu này thì việc các tỳ-kheo “kiêu mạn, tự đại” là xảy ra sau thời tượng pháp của vị Phật cuối cùng trong số hai muôn ức đức Phật có danh hiệu Oai Âm Vương. Điều này có vẻ như hợp lý hơn, vì nếu trong câu chuyện này, sự việc xảy ra sau khi đức Phật đầu tiên (tối sơ) diệt độ, thì không có lý do gì để phải đề cập đến tất cả những vị Phật tiếp theo trong số hai muôn ức vị Phật cùng một danh hiệu. Trong phần kệ trùng tụng tiếp theo không thấy nhắc đến chi tiết “hai muôn ức vị Phật”.

[3] Có lẽ do ý nghĩa này, trong kinh Chánh Pháp Hoa gọi tên vị này là Thường Bị Khinh Mạn (常被輕慢).

[4] Kinh văn chỗ này chỉ nói đến Bồ Tát, tỳ-kheo và ưu-bà-tắc, không đề cập đến nữ giới trong khi phần trước đã nhiều lần đề cập đủ bốn chúng, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Tham khảo kinh Chánh Pháp Hoa thì đoạn tương đương là: “今此會中颰陀和等五百菩薩,師子月等五百比丘、比丘尼,今在佛前五百清信士、五百清信女等,皆不退轉,當成無上正真之道。 - Kim thử hội trung Bạt-đà-hòa đẳng ngũ bách Bồ Tát, Sư Tử Nguyệt đẳng ngũ bách tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni; kim tại Phật tiền ngũ bách thanh tín sĩ, ngũ bách thanh tín nữ đẳng, giai bất thối chuyển, đương thành Vô thượng Chánh chân chi đạo.” (ĐCT, T9, 263, tr.123b, d.22-25) (Nay trong hội này là nhóm Bạt-đà-hòa năm trăm Bồ Tát, nhóm Sư Tử Nguyệt năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, và ở trước Phật có năm trăm cư sĩ nam, năm trăm cư sĩ nữ, đều đã được bất thối chuyển, sẽ thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân.) Đoạn này có vẻ hợp lý hơn khi đề cập đầy đủ bốn chúng. Bản của H. Kern dịch từ Phạn ngữ sang Anh ngữ là: “They are, in this very assembly, the five hundred Bodhisattvas headed by Bhadrapāla, the five hundred nuns following Simhakandrā, the five hundred lay devotees following Sugataketanā, who all of them have been rendered inflexible in supreme, perfect enlightenment.” (Ngay trong pháp hội này, họ chính là năm trăm Bồ Tát do Bạt-đà-bà-la dẫn dắt, năm trăm tỳ-kheo-ni đi theo Sư Tử Nguyệt, năm trăm cư sĩ đi theo Thiện Thệ Tràng, tất cả đều đã được bất thối chuyển đối với đạo Giác ngộ Vô thượng.) Ở đây có đề cập đến tỳ-kheo-ni, và tên gọi Simhakandrā (Sư Tử Nguyệt) cũng có vẻ là một người phái nữ.

[5] Phần trùng tụng này lặp lại thông tin rất giống với phần kinh văn trường hàng của kinh Chánh Pháp Hoa, đặc biệt cách dùng “清信士女 - thanh tín sĩ nữ” để chỉ hàng cư sĩ nam, nữ, hoàn toàn khác với những nơi khác trong bản dịch này luôn dùng ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.

________________________________

21. Phẩm Thần lực Như Lai

Lúc bấy giờ, những vị Đại Bồ Tát đã từ lòng đất phóng vọt lên, nhiều như số hạt bụi nhỏ trong ngàn thế giới, đều ở trước Phật một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan, rồi cung kính thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, chúng con ở những cõi nước mà phân thân của Thế Tôn đã diệt độ sẽ rộng thuyết kinh Pháp Hoa này. Vì sao vậy? Vì chúng con tự mình cũng muốn có được giáo pháp Đại thừa chân thật thanh tịnh này để thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết, sao chép mà cúng dường.”

Khi ấy, đức Thế Tôn ở trước vô số trăm ngàn muôn ức các vị Đại Bồ Tát từ lâu đã ở nơi cõi Ta-bà này như các vị Văn-thù-sư-lợi… cùng các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân..., trước tất cả đại chúng như vậy hiện sức thần thông lớn, hiển bày tướng lưỡi rộng dài[1] lên đến tận cõi trời Phạm thế; mỗi một lỗ chân lông trên thân Phật đều phóng ra vô lượng vô số các đạo hào quang có màu sắc, soi chiếu khắp các thế giới mười phương. Chư Phật [phân thân] ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu cũng đều hiện tướng lưỡi rộng dài và phóng vô lượng hào quang như vậy.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng chư Phật phân thân ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu hiện sức thần thông như vậy, trải qua thời gian đủ trăm ngàn năm rồi mới thu hồi tướng lưỡi rộng dài. Cùng lúc ấy, chư Phật đều hắng giọng và khảy móng tay, hai âm thanh ấy liền vang đến khắp các thế giới của chư Phật trong mười phương, các cõi đất đều chấn động theo sáu cách, hết thảy chúng sanh trong các thế giới ấy như trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân… nhờ oai thần của Phật nên đều nhìn thấy được thế giới Ta-bà này với vô lượng vô biên ngàn muôn ức chư Phật ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu, lại cũng thấy đức Phật Thích-ca Mâu-ni và đức Như Lai Đa Bảo trong tháp báu cùng ngồi trên tòa sư tử; lại thấy có vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức Đại Bồ Tát cùng bốn chúng cung kính vây quanh đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Chúng sanh được thấy như vậy rồi, tất cả đều hết sức vui mừng, cho là việc chưa từng có.

Ngay lúc đó, chư thiên giữa không trung [ở những thế giới ấy] cất tiếng nói lớn rằng: “Cách đây vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ thế giới, có thế giới tên là Ta-bà, ở đó có đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hiện nay đang vì các Đại Bồ Tát mà thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Các người nên phát tâm tùy hỷ sâu xa và cũng nên lễ bái, cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni.”

Những chúng sanh được nghe tiếng nói giữa không trung như vậy rồi, đều cung kính chắp tay hướng về thế giới Ta-bà, cùng niệm lớn: “Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật! Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật!” Rồi họ dùng đủ mọi loại hương, hoa, chuỗi ngọc, lọng che, cờ phướn cùng những thứ trang nghiêm trên thân, châu báu, vật quý đẹp, cùng nhau ở từ xa tung rải về thế giới Ta-bà. Những vật được tung rải từ khắp mười phương đó liền tụ lại như mây, hóa thành một tấm màn báu che trùm khắp không gian bên trên chư Phật. Bấy giờ, các thế giới trong mười phương liền trở nên thông suốt không ngăn ngại, giống như một cõi Phật.

Khi ấy, đức Phật bảo đại chúng các vị Bồ Tát cùng đi với ngài Thượng Hạnh:[2] “Sức thần thông của chư Phật là như vậy, vô lượng vô biên, không thể suy lường, nhưng nếu ta vì sự giao phó ủy thác mà dùng sức thần thông như vậy trong vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp nói về công đức của kinh này, cũng không thể nói hết được.

“Nói tóm lại, hết thảy mọi pháp của Như Lai, hết thảy mọi sức thần thông tự tại của Như Lai, hết thảy mọi kho tàng tinh yếu kín đáo của Như Lai, hết thảy những việc hết sức sâu xa của Như Lai, đều đã được trình bày rõ ràng sáng tỏ trong kinh Pháp Hoa này. Cho nên, sau khi Như Lai diệt độ, các ông nên chuyên tâm thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết, sao chép, y theo lời dạy trong kinh để tu hành.

“Trong khắp cõi nước, nếu ở nơi nào có người tụng đọc, giảng thuyết, sao chép, y theo kinh này tu hành, hoặc nơi nào có cất giữ kinh điển này, như ở giữa vườn, trong rừng, dưới gốc cây; hoặc trong tăng phòng, ở nhà cư sĩ hoặc điện thờ; hoặc giữa núi rừng hoang vắng, ở những nơi đó đều nên dựng tháp cúng dường. Vì sao vậy? Nên biết rằng nơi đó chính là đạo trường; là nơi chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; là nơi chư Phật chuyển bánh xe pháp; là nơi chư Phật nhập Niết-bàn.”

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Chư Phật, bậc cứu đời,
Trụ nơi đại thần thông,
Để làm vui chúng sanh,
Hiện vô lượng sức thần.

Tướng lưỡi đến Phạm thiên,
Thân tỏa muôn hào quang,
Vì người cầu đạo Phật,
Hiện việc hy hữu này.

Tiếng chư Phật hắng giọng,
Cùng tiếng khảy móng tay,
Vang khắp cõi mười phương,
Đất chấn động sáu cách.

Sau khi Phật diệt độ,
Có người trì kinh này,
Chư Phật đều hoan hỷ,
Hiện vô lượng sức thần.

Vì giao phó kinh này,
Ngợi khen người thọ trì,
Trong suốt vô lượng kiếp,
Cũng không thể cùng tận.

Công đức người trì kinh,
Vô biên, không cùng tận,
Như hư không mười phương,
Không thể biết giới hạn.

Người thọ trì kinh này,
Là đã thấy được Phật,
Cũng thấy Phật Đa Bảo,
Cùng các Phật phân thân.
Lại thấy Phật hôm nay,
Giáo hóa các Bồ Tát.

Người thọ trì kinh này,
Ta và các phân thân,
Phật diệt độ Đa Bảo,
Tất cả đều hoan hỷ;
Người ấy gặp, cúng dường,
Mười phương Phật hiện tại,
Cùng quá khứ, tương lai,
Đều khiến cho hoan hỷ.

Chư Phật ngồi đạo trường,
Đạt được pháp bí yếu;
Người thọ trì kinh này,
Không lâu cũng sẽ được.

Người thọ trì kinh này,
Đối với nghĩa các pháp,
Cùng danh tự, ngôn từ,
Vui thích giảng khôn cùng;
Như gió thổi không trung,
Không có gì ngăn ngại.

Sau khi Phật diệt độ,
Biết những kinh Phật thuyết,
Nhân duyên và trình tự,
Tùy nghĩa giảng đúng thật.

Như mặt trời, mặt trăng,
Xua tan đi bóng tối;
Người ấy sống giữa đời,
Trừ mê muội chúng sanh,
Dạy vô số Bồ Tát,
Rốt ráo đến Nhất thừa.

Cho nên người có trí,
Nghe lợi ích, công đức,
Sau khi Phật diệt độ,
Nên thọ trì kinh này.

Người ấy với Phật đạo,
Quyết định không còn nghi.

______________________________

CHÚ THÍCH


[1] Tướng lưỡi rộng dài, tức quảng trường thiệt tướng (H. 廣長舌相, S. prabhūta-jihvatā), là một trong 32 tướng tốt của Phật, do đã trải qua vô số kiếp chỉ nói lời chân thật. Vì thế, tướng này cũng là biểu hiện cho việc chư Phật không nói lời hư dối, chỉ nói ra những lời chân thật.

[2] Nguyên tác là “上行等菩薩大眾 - Thượng Hạnh đẳng Bồ Tát đại chúng”. Bồ Tát Thượng Hạnh là vị đạo sư thứ nhất đứng đầu trong số các vị Bồ Tát từ lòng đất phóng lên, do vậy có thể biết rằng ở đây đức Phật đang muốn nói với các vị Bồ Tát cùng đi trong nhóm này.

____________________________________

22. Phẩm Giao phó về sau

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ pháp tòa đứng dậy, hiện sức thần thông lớn, dùng tay phải đưa ra xoa đỉnh đầu vô số Đại Bồ Tát, dạy rằng: “Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này, nay giao phó về sau cho các ông. Các ông nên một lòng truyền rộng pháp này, khiến cho càng tăng thêm lợi ích.”

Đức Phật xoa đỉnh đầu các vị Đại Bồ Tát như vậy ba lần rồi lại dạy rằng: “Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này, nay giao phó về sau cho các ông. Các ông nên thọ trì, tụng đọc, truyền rộng pháp này, khiến cho khắp thảy chúng sanh đều được nghe biết. Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có lòng đại từ bi, không hề tham tiếc keo lận, cũng không có sự sợ sệt, thường ban cho chúng sanh trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên; Như Lai là vị thí chủ lớn của hết thảy chúng sanh. Các ông cũng nên học theo pháp của Như Lai, đừng sinh lòng tham tiếc keo lận. Trong đời tương lai, nếu có thiện nam, thiện nữ nào tin vào trí tuệ Như Lai, các ông nên vì người ấy diễn giảng kinh Pháp Hoa này, khiến cho họ được nghe, vì muốn cho người ấy đạt được trí tuệ Phật. Nếu như có chúng sanh nào không tin nhận, các ông nên dùng những giáo pháp sâu xa khác của Như Lai để chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu.[1] Nếu các ông có thể làm được như vậy thì đó là đã báo đáp được ân đức của chư Phật.”

Bấy giờ, các vị Đại Bồ Tát nghe Phật dạy như vậy rồi, tất cả đều hết sức hoan hỷ, niềm vui lan khắp châu thân, càng thêm phần cung kính, cúi đầu chắp tay hướng về đức Phật, đồng thanh bạch rằng: “Như lời Thế Tôn đã dạy, chúng con xin cung kính vâng theo tất cả. Bạch Thế Tôn! Xin đừng lo ngại.”

Các vị Đại Bồ Tát ba lần như vậy đều đồng thanh bạch Phật: “Như lời Thế Tôn đã dạy, chúng con xin cung kính vâng theo tất cả. Bạch Thế Tôn! Xin đừng lo ngại.”

Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn cho các vị Phật phân thân đến từ mười phương mỗi vị đều quay về cõi nước nên nói rằng: “Chư Phật mỗi vị xin tùy nơi an ổn quay về, tháp Phật Đa Bảo có thể trở lại như cũ.”

Khi Phật nói ra lời ấy rồi, vô số chư Phật phân thân mười phương đang ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu cùng với Phật Đa Bảo và đại chúng vô số a-tăng-kỳ Bồ Tát như Bồ Tát Thượng Hạnh…[2] bốn chúng và các vị Thanh văn như Xá-lợi-phất, cùng hết thảy chư thiên, loài người, a-tu-la… được nghe Phật thuyết dạy đều hết sức vui mừng.

____________________________________

CHÚ THÍCH


[1] Nguyên tác kinh văn dùng “thị giáo lợi hỷ”, tức là 4 giai đoạn giáo hóa như đã giải thích ở trước.

[2] Có bản dịch trước đây hiểu lầm hai chữ “thượng hạnh” để chỉ phẩm hạnh của các vị Bồ Tát nên dịch là “vô số đại chúng Bồ-tát, bậc thượng hạnh thảy”. Tuy nhiên, đây là danh xưng của Bồ Tát Thượng Hạnh, vị đứng đầu trong số các Bồ Tát từ lòng đất vọt lên trước đó.

________________________

23. Phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương

Lúc bấy giờ, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ Tát Dược Vương đến thế giới Ta-bà như thế nào? Thế Tôn! Vị Bồ Tát Dược Vương này có bao nhiêu ngàn muôn ức na-do-tha khổ hạnh khó làm? Lành thay, Thế Tôn! Xin giảng nói một phần,[1] hàng chư thiên, rồng, thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, cùng các Bồ Tát từ phương khác đến và chúng Thanh văn ở đây nếu được nghe đều sẽ vui mừng.”

Khi ấy, đức Phật bảo Bồ Tát Tú Hoa Vương: “Vào thời quá khứ, cách đây số kiếp nhiều như số cát của vô số con sông Hằng, có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy có tám mươi ức vị Đại Bồ Tát và chúng đại Thanh văn nhiều bằng số cát của bảy mươi hai con sông Hằng. Đức Phật ấy sống thọ bốn mươi hai ngàn kiếp, các Bồ Tát cũng có tuổi thọ bằng như vậy. Cõi nước ấy không có nữ nhân, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, cũng không có các nạn khổ; mặt đất bằng lưu ly, phẳng như lòng bàn tay, có cây báu trang nghiêm, màn báu che bên trên, có phướn bằng hoa báu rủ xuống, lò hương bằng bình báu ở khắp cả cõi nước; dùng bảy báu làm thành đài cao, cứ mỗi cây báu là một đài cao, cây và đài cách nhau khoảng một tầm bắn tên. Các vị Bồ Tát, Thanh văn ngồi dưới mỗi cây báu, trên mỗi đài báu có trăm ức chư thiên cúng dường bằng cách tấu nhạc trời, ca ngợi xưng tán Phật.

“Lúc ấy, đức Phật vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cùng chúng Bồ Tát và chúng Thanh văn mà thuyết kinh Pháp Hoa.

“Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến này ưa chuộng sự tu tập khổ hạnh, ở trong Phật pháp của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức mà tinh tấn kinh hành, một lòng cầu quả Phật, trải qua mười hai ngàn năm thì đạt được pháp tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Đạt được tam muội này rồi, trong tâm rất vui mừng, liền nghĩ rằng: ‘Ta được tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân là nhờ sức nghe kinh Pháp Hoa. Nay ta nên cúng dường đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và kinh Pháp Hoa.’

“Nghĩ rồi liền nhập pháp tam-muội ấy, hóa hiện giữa không trung mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa đại mạn-đà-la, bột chiên đàn kiên hắc[2] đầy khắp cả không trung, tụ lại như mây rồi rơi xuống; lại mưa xuống hương chiên đàn hải ngạn,[3] sáu thù[4] hương này có giá trị bằng cả thế giới Ta-bà, đều để cúng dường đức Phật.

“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường như vậy xong rồi, ra khỏi tam-muội lại tự nghĩ rằng: ‘Ta tuy đã dùng sức thần thông cúng dường đức Phật, nhưng không bằng lấy thân mình cúng dường.’

“Nghĩ rồi liền ăn vào các loại hương chiên đàn, huân lục,[5] đâu-lâu-bà,[6] tất-lực-ca,[7] trầm thủy, giao hương,[8] lại uống các loại dầu hương hoa như hoa chiêm bặc v.v. trải qua mười hai ngàn năm,[9] dùng dầu thơm thoa khắp trên thân, đến trước đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, dùng y báu cõi trời tự quấn quanh thân, rưới lên các loại dầu thơm, rồi dùng sức thần thông tự đốt cháy thân mình, ánh sáng soi chiếu khắp các thế giới nhiều như số cát của tám mươi ức con sông Hằng. Chư Phật trong các thế giới ấy đồng thời khen ngợi rằng: ‘Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, như vậy là thực sự tinh tấn, như vậy gọi là pháp chân thật cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương thoa, lụa trời, phướn lọng cùng hương chiên-đàn hải ngạn, những phẩm vật cúng dường như thế đều không thể sánh bằng; giả sử dùng cả thành ấp, đất nước, vợ con để cúng dường[10] cũng không thể sánh bằng. Này thiện nam tử! Đây gọi là bố thí bậc nhất, cao trổi nhất, đáng tôn trọng nhất trong các pháp bố thí, vì đã dùng pháp để cúng dường các đức Như Lai.’

“Sau khi khen ngợi như vậy rồi, các đức Phật đều an nhiên tịch lặng. Thân thể Bồ Tát tiếp tục cháy như vậy sau một ngàn hai trăm năm[11] mới hết.

“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường theo pháp như vậy rồi, sau khi mạng chung lại tái sinh vào cõi nước có đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, nơi nhà của đức vua Tịnh Đức, bỗng dưng hóa sinh trong tư thế ngồi kết già,[12] liền vì vua cha mà nói kệ rằng:

‘Nay phụ vương nên biết,
Đường tu tập con đi,
Là được pháp Tam-muội
Hiện Nhất Thiết Sắc Thân;
Rồi tinh tấn, chuyên cần,
Buông bỏ thân luyến ái,
Cúng dường lên Thế Tôn,
Cầu trí tuệ Vô thượng.’[13]

“Nói kệ như vậy rồi lại thưa với vua cha: ‘Hiện nay có đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức đang ở đời, trước đây con cúng dường Phật ấy nên đạt được pháp đà-la-ni Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn,[14] lại được nghe tám trăm ngàn muôn ức na-do-tha chân-ca-la tần-bà-la a-súc-bà[15] bài kệ trong kinh Pháp Hoa. Thưa phụ vương! Con nay sẽ quay lại cúng dường đức Phật ấy.”

“Sau khi thưa cha như vậy rồi, Bồ Tát liền ngồi trên đài bảy báu, bay lên hư không, cao bằng bảy cây đa-la, rồi bay đến chỗ đức Phật, đầu và mặt cúi lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính đọc kệ xưng tán Phật:

‘Tôn nhan rất diệu kỳ,
Hào quang chiếu mười phương,
Trước đây con cúng dường,
Nay lại được thân cận.’

“Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đọc kệ như vậy rồi liền bạch Phật: ‘Thế Tôn! Nay Thế Tôn vẫn còn ở đời!’

“Khi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: ‘Này thiện nam! Đã đến lúc ta nhập Niết-bàn, đến giờ diệt độ rồi. Ông nên sắp xếp chỗ giường nằm, trong đêm nay ta sẽ nhập Niết-bàn.’

“Đức Phật lại dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: ‘Này thiện nam! Nay ta đem Phật pháp giao phó lại cho ông và các đại đệ tử Bồ Tát, cùng với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại cũng đem tất cả cây báu, đài báu cùng chư thiên theo hầu cận trong thế giới đại thiên bằng bảy báu này, tất cả đều giao phó lại cho ông. Sau khi ta diệt độ rồi, xá-lợi của ta cũng giao phó cho ông, nên lưu truyền mọi nơi, tổ chức cúng dường rộng khắp; nên xây lên hàng ngàn tháp để thờ kính.’

“Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như vậy rồi, khoảng sau nửa đêm liền nhập Niết-bàn.

“Khi ấy, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật đã diệt độ rồi, trong lòng bi thương xúc động, buồn khổ lưu luyến, liền dùng chiên đàn hải ngạn dựng lên thành giàn, cúng dường thân Phật rồi đốt lửa để thiêu. Sau khi lửa tàn liền thu nhặt xá-lợi, đặt vào tám mươi bốn ngàn bình báu, lại dựng lên tám mươi bốn ngàn tháp thờ, cao đến cõi Phạm thiên,[16] có cột phướn trang nghiêm, treo cờ phướn, lọng che và nhiều chuông báu.

“Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ: ‘Ta tuy đã cúng dường như thế này nhưng trong lòng vẫn thấy còn chưa đủ. Nay ta nên cúng dường xá-lợi Phật thêm nữa.’

“Nghĩ rồi liền bảo các vị đại đệ tử Bồ Tát cùng chư thiên, rồng, dạ-xoa… và hết thảy đại chúng: ‘Các ông hãy một lòng chú tâm, nay chúng ta nên cúng dường xá-lợi của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức.’

“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói như vậy rồi liền ở trước tám mươi bốn ngàn tháp thờ xá-lợi Phật tự đốt hai cánh tay có đủ trăm phước tướng trang nghiêm trong suốt bảy mươi hai ngàn năm để cúng dường, khiến cho vô số chúng cầu quả Thanh văn, vô số a-tăng-kỳ người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhân đó đều được trụ nơi pháp tam-muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân.

“Khi ấy, các vị Bồ Tát, chư thiên, người cùng các loài a-tu-la… nhìn thấy Bồ Tát không còn cánh tay thì đau buồn sầu khổ, thương cảm than thở rằng: “Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là vị thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay thiêu cháy mất hai tay, trở thành người có thân thể bất toàn.”

“Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở giữa đại chúng lập thệ nguyện rằng: ‘Tôi xả bỏ hai cánh tay [đốt lên cúng dường xá-lợi Phật], quyết định rồi sẽ được thân sắc vàng của Phật. Nếu điều này là đúng thật không hư dối, nguyện cho hai tay của tôi trở lại như cũ.’ Vừa lập nguyện xong, hai cánh tay liền tự nhiên trở lại như cũ. Đó là do phước đức và trí tuệ trong sáng sâu dày của Bồ Tát mà thành. Ngay vào lúc ấy, khắp thế giới đại thiên mặt đất đều chấn động theo sáu cách, trời mưa xuống hoa báu, hết thảy chư thiên, nhân loại đều cho là việc chưa từng có.”

Đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa: “Ý ông nghĩ sao? Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó nào phải ai xa lạ, nay chính là Bồ Tát Dược Vương. Bồ Tát xả thân bố thí như vậy đã nhiều đến vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha lần.

“Này Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thể đốt một ngón tay, cho đến một ngón chân cúng dường tháp thờ Phật thì hơn cả việc cúng dường thành ấp đất nước, vợ con cùng núi rừng sông hồ, các món báu vật khắp các cõi nước trong thế giới đại thiên.

“Lại nếu như có người dùng bảy món báu đầy khắp thế giới đại thiên để cúng dường lên Phật cùng các vị Đại Bồ Tát, Duyên giác, A-la-hán thì công đức của người ấy không bằng thọ trì kinh Pháp Hoa này, thậm chỉ chỉ một bài kệ bốn câu cũng được phước nhiều nhất.

“Này Tú Vương Hoa! Giống như trong tất cả những nơi có nước như sông ngòi, khe suối… thì biển là lớn nhất, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là sâu xa quan trọng nhất trong tất cả những kinh Như Lai đã thuyết dạy.

“Lại giống như Thổ sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi cùng mười ngọn núi báu, trong tất cả các loại núi ấy thì núi Tu-di là cao hơn hết, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là cao thượng hơn hết trong tất cả các kinh.

“Giống như so với tất cả các ngôi sao, mặt trăng là sáng hơn hết, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là soi chiếu sáng suốt hơn hết trong ngàn muôn ức loại kinh điển giáo pháp.

“Lại cũng như mặt trời có thể xua tan bóng tối, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, có thể phá trừ hết thảy bóng tối của tất cả những sự bất thiện.

“Giống như ở giữa các vị tiểu vương thì Chuyển luân Thánh vương là bậc nhất, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là tôn quý nhất trong tất cả các kinh.

“Giống như Đế thích là vua trong cõi trời Đao-lợi, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là vua trong tất cả các kinh.

“Giống như Đại phạm Thiên vương là cha trong cõi trời Đao-lợi, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là cha của hết thảy các bậc hiền thánh, hữu học, vô học cùng những người phát tâm Bồ Tát.

“Giống như trong tất cả phàm phu, các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác là bậc nhất, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả những kinh điển Như Lai thuyết dạy, hoặc Bồ Tát thuyết dạy, hoặc Thanh văn thuyết dạy; người có thể thọ trì kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả chúng sanh.

“Giống như trong tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác thì Bồ Tát là bậc nhất, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả kinh điển, giáo pháp.

“Giống như Phật là vua trong các pháp, kinh Pháp Hoa này cũng vậy, là vua trong tất cả các kinh.

“Này Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu độ hết thảy chúng sanh; kinh này có thể khiến cho hết thảy chúng sanh xa lìa khổ não; kinh này có thể làm lợi ích lớn lao cho hết thảy chúng sanh; giúp chúng sanh thành tựu đầy đủ tâm nguyện của họ. Giống như hồ nước trong mát có thể thỏa mãn tất cả những người đang khát; như người đang rét lạnh gặp được lửa; như người lõa lồ gặp được y phục; như những người đi buôn xa gặp được trưởng đoàn; như con được gặp mẹ; như người qua sông gặp được con thuyền; như người bệnh gặp được thầy thuốc; như khi tối tăm gặp được ngọn đèn; như người nghèo gặp được của báu; như dân thường gặp được đức vua; như người đi buôn xa gặp được biển rộng;[17] như ngọn đuốc xua tan bóng tối; kinh Pháp Hoa này cũng vậy, có thể giúp chúng sanh xa lìa tất cả khổ não, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể tháo mở tất cả những trói buộc của sinh tử.

“Nếu ai được nghe kinh Pháp Hoa này rồi tự mình sao chép hoặc bảo người khác sao chép, người ấy đạt được công đức mà dù có dùng trí tuệ Phật để suy lường nhiều ít cũng không thể đạt đến giới hạn.

“Nếu có người sao chép kinh Pháp Hoa này rồi dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương thoa, phướn lọng, y phục, đủ mọi loại đèn như đèn bơ, đèn dầu, đèn thắp bằng dầu thơm, các loại dầu hoa chiêm-bặc, tu-mạn-na, ba-la-la, ba-lợi-sư-ca, na-bà-ma-lợi để cúng dường, thì công đức đạt được cũng không hạn lượng.

“Này Tú Vương Hoa! Nếu có người được nghe phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương này, cũng đạt được vô lượng vô biên công đức.

“Nếu có người nữ được nghe phẩm kinh này rồi có thể thọ trì, thì sau khi đã hết thân nữ này, về sau không sinh làm thân nữ nữa.

“Năm trăm năm sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nữ được nghe kinh Pháp Hoa này, theo đúng lời dạy tu hành, khi người ấy mạng chung sẽ được vãng sinh về thế giới An Lạc, trụ xứ của đức Phật A-di-đà với chúng Đại Bồ Tát vây quanh. Người ấy sinh ra ngồi trên tòa báu ở giữa hoa sen, [không còn thân nữ,] không còn bị tham dục gây phiền não, cũng không bị sân hận, ngu si gây phiền não, cũng không bị những cấu nhiễm như kiêu mạn, tật đố gây phiền não, được pháp thần thông của Bồ Tát, đạt được pháp nhẫn vô sinh. Đạt pháp nhẫn này rồi, nhãn căn được thanh tịnh; nhờ nhãn căn thanh tịnh nên thấy được các đức Phật Như Lai nhiều như số cát của bảy trăm mười hai ngàn ức na-do-tha con sông Hằng.

“Khi ấy, chư Phật đều từ xa cùng khen ngợi: ‘Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp của đức Phật Thích-ca Mâu-ni mà thọ trì, tụng đọc, suy ngẫm kinh Pháp Hoa này, vì người khác giảng nói, đạt được phước đức vô lượng vô biên, lửa không thể thiêu cháy, nước không thể cuốn trôi. Công đức của ông cho dù cả ngàn đức Phật cùng diễn nói cũng không nêu ra hết được. Nay ông có thể phá hết bọn giặc ma, trừ dứt quân sinh tử, những oán cừu thù địch khác cũng đều bị phá dẹp. Này thiện nam tử! Trăm ngàn đức Phật đều dùng sức thần thông để cùng che chở bảo vệ cho ông. Trong hàng trời, người ở khắp thế gian không ai được như ông. Trừ ra đức Như Lai, còn những hàng Thanh văn, Duyên giác cho đến hàng Bồ Tát đều không có trí tuệ thiền định sánh được như ông.’

“Này Tú Vương Hoa! Vị Bồ Tát [thọ trì kinh Pháp Hoa] thành tựu được công đức, sức trí tuệ như vậy. Nếu có người được nghe phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương này, có thể tùy hỷ khen ngợi xưng tán, người ấy ngay trong đời này thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh từ miệng, thường tỏa hương thơm chiên-đàn Ngưu đầu từ các lỗ chân lông trên thân, và đạt được những công đức như trên đã nói.

“Vì thế, này Tú Vương Hoa, nay ta đem phẩm kinh này giao phó lại cho ông. Trong khoảng năm trăm năm sau khi ta diệt độ, hãy lưu truyền rộng khắp trong cõi Diêm-phù-đề, đừng để dứt mất khiến cho những kẻ xấu ác trong bọn ma, dân ma, trời, rồng, dạ-xoa, cưu-bàn-trà… được thuận tiện phát triển.

“Này Tú Vương Hoa! Ông nên dùng sức thần thông để giữ gìn, bảo vệ kinh Pháp Hoa này. Vì sao vậy? Vì kinh này là liều thuốc hay chữa bệnh cho người trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu người có bệnh mà được nghe kinh này liền dứt bệnh, không già không chết.

“Này Tú Vương Hoa! Nếu ông gặp người thọ trì kinh này, nên dùng bột hương trầm ướp hoa sen xanh cung kính rải lên người ấy. Rải lên rồi liền khởi ý nghĩ rằng: ‘Người này không bao lâu nhất định sẽ trải cỏ ngồi nơi đạo trường, phá trừ quân ma, sẽ thổi tù và chánh pháp, đánh trống pháp lớn, đưa tất cả chúng sanh vượt thoát biển sinh già bệnh chết.’ Cho nên, người cầu đạo Phật gặp người thọ trì kinh điển nên sinh tâm cung kính như vậy.”

Khi Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương, có tám mươi bốn ngàn Bồ Tát đạt được pháp đà-la-ni Nhận hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sanh.

Đức Như Lai Đa Bảo trong tháp báu[18] khen ngợi Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng: “Lành thay, lành thay, Tú Vương Hoa! Ông đã thành tựu được công đức không thể nghĩ bàn, có thể thưa hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni việc như vậy, làm lợi ích cho vô số hết thảy chúng sanh.”

________________

CHÚ THÍCH

[1] Bản Đại Chánh tạng kết lại lời thưa hỏi của Bồ Tát Tú Vương Hoa ở chỗ này và xem phần tiếp theo là mô tả của người chép kinh. (ĐCT, T9, 262, tr.53a, d.8) Điều này không hợp lý, vì khi Bồ Tát thưa hỏi, đức Phật chưa giải đáp gì thì đại chúng không có lý do để hoan hỷ. Phần sau này chính là ý của Bồ Tát, rằng nếu được Phật giải đáp, đại chúng sẽ hoan hỷ. Tham khảo bản Anh dịch của H. Kern đoạn này nói là: “Let the Lord, the Tathâgata, &c., deign to tell us any part of the course of duty of the Bodhisattva Mahâsattva Bhaishajyaraja, that by hearing it the gods, Nâgas, goblins, Gandharvas, demons, Garudas, Kinnaras, great serpents, men, and beings not human, as well as the Bodhisattvas Mahâsattvas from other worlds here present, and these great disciples here may be content, delighted, overjoyed.” Do vậy biết rằng cách đặt dấu câu của Đại Chánh tạng đã sai lầm.

[2] Chiên đàn kiên hắc (H. 堅黑栴檀, S. kālānusārin), một loại chiên đàn rất thơm và quý.

[3] Nguyên tác dùng “海此岸栴檀 - hải thử ngạn chiên đàn”, cũng tức là chiên đàn hải ngạn, là một loại chiên đàn cực kỳ quý giá.

[4] Thù (銖), đơn vị cân nặng ngày xưa; 6 thù bằng 1 chuy (錙), 8 thù bằng một chùy (錘), 24 thù bằng 1 lượng (两), 16 lượng bằng 1 cân (斤). Như vậy, phải 384 thù mới được 1 cân, và mỗi cân thời xưa chỉ khoảng 250 gram; 6 thù có trọng lượng khoảng hơn 9 gram.

[5] Huân lục (H. 熏陸, S. kunduru), một loại cây có nhựa, dùng làm hương đốt rất thơm, cũng gọi là nhũ hương hay nhũ đầu hương.

[6] Đâu-lâu-bà (H. 兜樓婆, S. turuṣka), một loại cỏ thơm, cũng gọi là mao hương hay bạch mao hương.

[7] Tất-lực-ca (H. 畢力迦, S. pṛkkā), một loại hương thơm, cũng gọi là xúc hương hay mục túc hương.

[8] Giao hương, tức bạch giao hương (H. 白膠香, S. sarja-rasa), là loại hương thơm chế bằng nhựa cây sa-la.

[9] Trong kinh Chánh Pháp Hoa và bản dịch Anh ngữ của H. Kern đều nói là 12 năm. Kinh Chánh Pháp Hoa, đoạn tương đương là: “斷絕五穀專食眾香,眾香華汁而以飲之,日使身中內外皆香,如是服香竟十二 年。” - Đoạn tuyệt ngũ cốc chuyên thực chúng hương, chúng hương hoa hiệp nhi dĩ ẩm chi, nhật sử thân trung nội ngoại giai hương, như thị phục hương cánh thập nhị niên.” (Dứt tuyệt các món ngũ cốc, chỉ ăn toàn các loại hương thơm, lại hợp các loại hương hoa để uống, khiến cho thân thể trong ngoài đều là mùi thơm, như vậy ăn uống các loại hương qua 12 năm.) (ĐCT, T9, 263, tr.125b, d.13-15) Bản Anh ngữ của H. Kern: “Bodhisattva Mahasattva Sarvasattvapriyadarśana passed twelve years in always and constantly eating those fragrant substances and drinking oil of Kampaka.” (Đại Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến trải qua 12 năm luôn luôn và liên tục ăn các loại hương thơm và uống dầu hương hoa chiêm-bặc.) Như vậy, kinh Chánh Pháp Hoa mô tả nhấn mạnh là Bồ Tát không ăn vật thực khác, chỉ ăn toàn các loại hương thơm.

[10] Nguyên tác ở đây dùng chữ “布施 - bố thí” nhưng với ý nghĩa chỉ việc cúng dường Phật như đang đề cập trong ngữ cảnh. Nghĩa rộng của pháp bố thí bao gồm cả việc cúng dường chư Phật.

[11] Kinh Chánh Pháp Hoa cũng dịch là 1.200 năm: “於時菩薩自然其身,千二百歲火 故不滅,- ư thời Bồ Tát tự nhiên kỳ thân, thiên nhị bách tuế hỏa cố bất diệt” (khi ấy Bồ Tát tự thiêu thân mình, qua 1.200 năm lửa vẫn chưa tắt). (ĐCT, T9, 263, tr.125b, d.25) Bản Anh ngữ của H. Kern dịch là 12 ngàn năm: “The body of Sarvasattvapriyadarsana continued blazing for twelve thousand years without ceasing to burn” (Thân thể của Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến tiếp tục cháy liên tục qua 12.000 năm.)

[12] Nguyên tác Hán văn nói “於淨德王家結加 趺坐,忽然化生 - ư Tịnh Đức vương gia kết già phu tọa, hốt nhiên hóa sinh”. Bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt tương tự nhưng hợp lý hơn: “In the house of king Vimaladatta, by apparitional birth, and sitting crosslegged.” (Trong nhà của đức vua Tịnh Đức, bằng cách hóa sinh và ngồi kết già.) Chúng tôi theo cách diễn đạt hợp lý này, vì khi chưa hóa sinh thì thân chưa hiện nên không thể ngồi kết già. Đây chính là nói vị hóa sinh được nhìn thấy trong tư thế ngồi kết già.

[13] Bản Hán văn dùng chữ “kinh hành” nhưng không theo nghĩa đi kinh hành, mà để chỉ con đường tu tập đã trải qua. So sánh với 4 câu kệ này trong kinh Chánh Pháp Hoa thì rõ ý nghĩa: “尊王識念我本行, 堅強勤修大精進,所重愛身以用施,建立住此逮三昧。- Tôn vương thức niệm ngã bản hạnh, kiên cường cần tu đại tinh tấn, sở trọng ái thân dĩ dụng thí, kiến lập trụ thử đãi tam-muội.” (ĐCT, T9, 263, tr. 125c, d.1-2) Như vậy, thay vì dùng “kinh hành”, ở đây kinh văn dùng “ngã bản hạnh”, chứng tỏ 2 cụm từ này muốn diễn đạt cùng một ý nghĩa là chỉ pháp tu tập trước đây. Bản Anh ngữ của H. Kern diễn đạt tương tự và rõ nghĩa hơn nữa: “This, O exalted king, is the walk in which I have acquired meditation; I have achieved a heroical feat, fulfilled a great vote by sacrificing my own dear body.” (Thưa đức vua tôn quý, đây là con đường mà con đã tu tập để đạt được thiền định: Con đã thực hiện một hành vi dũng mãnh, hoàn thành đại nguyện bằng cách xả bỏ thân thể yêu quý của mình để cúng dường.)

[14] Đà-la-ni Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn (解一切眾生語言陀羅尼), là pháp đà-la-ni hiểu rõ được tất cả các ngôn ngữ của chúng sanh.

[15] Các tên gọi na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà đều là số đếm, chỉ những con số cực kỳ lớn, cũng giống như nói vô số, vô lượng…

[16] Nguyên tác nói “cao tam thế giới”, hàm ý là cao vượt qua ba thế giới. Kinh Chánh Pháp Hoa nói là “高至梵天 - cao chí Phạm thiên”, phù hợp với cách diễn đạt trong nhiều phần trước. Bản Anh ngữ của H. Kern dịch là “reaching in height to the Brahma-world” (cao lên đến thế giới Phạm thiên).

[17] Nguyên tác là “như cổ khách đắc hải”, có vẻ hơi tối nghĩa. Bản Anh dịch của H. Kern dịch câu này là “like the ocean for the rivers” (như những dòng sông gặp được biển).

[18] Đức Như Lai Đa Bảo ở trong tháp báu, vào lúc này không còn hiện thân nhìn thấy được, vì cuối phẩm Giao phó về sau thì tháp Phật tuy còn ở lại Pháp hội nhưng đã đóng lại.

________________________

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 7 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng


Ai vào địa ngục


Phật pháp ứng dụng


Sống và chết theo quan niệm Phật giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập