Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cận Vệ Chính Gia »»
(近衛尚通, Konoe Hisamichi, 1472-1544): nhà công khanh, Quan Bạch và Thái Chính Đại Thần, sống vào thời đại Chiến Quốc; thân phụ là Cận Vệ Chính Gia (近衛政家, Konoe Masaie), thân mẫu là Bắc Tiểu Lộ Tuấn Tử (北小路俊子, Kitakōji Toshiko). Năm 1490 (Diên Đức [延德] 2), ông được bổ nhiệm làm chức Hữu Đại Thần (右大臣) và sau đó trãi qua hai lần được phong chức Quan Bạch. Đến năm 1514 (Vĩnh Chánh [永正] 11), ông làm chức Thái Chính Đại Thần (太政大臣) và 4 năm sau thì được phong chức Chuẩn Tam Cung (准三宮). Vào năm 1533 (Thiên Văn [天文] 2), ông xuất gia, lấy hiệu là Đại Chánh (大正). Bộ nhật ký ông để lại là Hậu Pháp Thành Tự Quan Bạch Ký (後法成寺關白記).
(日祝, Nisshū, 1426-1513): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Nhật Chúc (日祝); hiệu Diệu Quốc Viện (妙國院), Nguyệt Tàng Phòng (月藏房); xuất thân vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]). Ông theo tu học với Nhật Tát (日薩) ở Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama). Đến năm 1473, ông lên kinh đô, khai sáng nên Đảnh Diệu Tự (頂妙寺, Chōmyō-ji) nhờ sự hộ trì của Tế Xuyên Thắng Ích (細川勝益). Ông được vị Quan Bạch Cận Vệ Chính Gia quy y theo, rồi giáo hóa các tầng lớp nông dân, võ gia cho đến hoàng tộc nhờ tài thuyết pháp của ông. Trước tác của ông có Mạt Pháp Yếu Hành Ký (末法要行記) 1 quyển, Ngự Điều Mục (御條目) 1 quyển, Đương Môn Trọng Bảo Ký (當門重寶記) 1 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.41 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập