Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Giai nhân và Hòa thượng »» CHƯƠNG 2. TÌNH THẦY TRÒ »»

Giai nhân và Hòa thượng
»» CHƯƠNG 2. TÌNH THẦY TRÒ

(Lượt xem: 2.195)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Giai nhân và Hòa thượng - CHƯƠNG 2. TÌNH THẦY TRÒ

Font chữ:

Người mẹ rất đau khổ đặt đứa con mới sinh được mấy ngày trước cửa chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự rồi thì thầm khấn:

“Kính lạy Bồ Tát Quán Thế Âm! Con là người mẹ bạc phước vô duyên, sinh con mà không dám nuôi. Vì miệng đời chanh chua, gièm pha muôn nẻo, nên con phải cắt núm ruột của con để lại nơi cửa Thiền, mong Ngài từ bi độ trì cho đứa trẻ. Xin ngài đoái thương và cứu vớt cho một người mẹ khổ đau.”

Sương mù vẫn còn dày đặc, giăng tận xuống cổng tam quan. Sư Cụ Trụ Trì khoan thai từng bước một xuống thềm chánh điện và tiến ra phía trước cổng chùa để mở cửa. Bỗng nhiên, Sư Cụ nghe tiếng khóc của trẻ sơ sinh và nhìn chiếc nôi, trong ấy có một tờ giấy ghi mấy chữ nguệch ngoạc như thế này:

“Kính lạy Ngài hoan hỷ nuôi giùm đứa bé. Vì lý do gì thì xin Ngài đừng tra hỏi, xin hẹn lại một ngày sau. Nếu nhân duyên hội ngộ xin bày tỏ hết ngọn ngành.
Ký tên: Người mẹ đau khổ.”

Cửa chùa Hưng Phước bây giờ, ngoài hồi chuông triêu mộ sớm chiều của các tịnh hạnh nhơn hô canh ngày hai buổi, còn thêm tiếng khóc của trẻ thơ nữa. Đứa bé ấy thay vì nghe lời mẹ ru với võng đưa kẽo kẹt hằng ngày thì được Hòa Thượng và các tịnh hạnh nhơn cho bé nghe lời kinh tiếng kệ cùng mõ sớm chuông mai.

“Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”
Nguyện tiếng chuông này vượt ngoài pháp giới
Núi Thiết Vi u ám thảy đều nghe
Nghe chuông lòng thanh tịnh, chứng viên thông
Hết thảy chúng sanh đạt thành Chánh Giác.
Nghe chuông ngân lòng nhẹ lâng,
Trí huệ phát Bồ Đề tâm
Lìa địa ngục, thoát hầm lửa
Nguyện thành Phật, độ chúng sanh
Phá Địa Ngục chân ngôn:
Án Già Ra Đế Da Ta Bà Ha

Chuông gióng lên đợt đầu
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu trường địa ngục
Nam mô Bồ Tát Địa Tạng Vương

Giáo chủ cõi U Minh,
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài rộng thênh.
Chuông gióng lên đợt hai
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu trường địa ngục.
Nam mô Bồ Tát Địa Tạng Vương
Giáo chủ cõi U Minh,
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài rộng thênh.
Chuông gióng lên đợt ba
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu trường địa ngục.
Nam mô Bồ Tát Địa Tạng Vương
Giáo chủ cõi U Minh,
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài viên thành.

Ngưỡng chúc Phật pháp mãi rạng ngời
Bánh xe pháp đời đời chuyển vận.
Gió hòa, mưa thuận thấm nhuần
Dân an, nước thịnh, khắp cùng nơi nơi. (tiếng chuông)

Trong ba cõi, bốn loài
Mỗi mỗi thoát luân hồi
Trong mười loại hữu tình
Ắt lìa khổ ngục hình. (tiếng chuông)

Năm tháng thuận gió mưa
Khỏi gặp năm đói khát
Đông nam sống hòa lạc
Thời Nghiêu Thuấn thái bình. (tiếng chuông)

Thôi chấm dứt chiến tranh.
Tử nạn những thương vong
Đều siêu sanh tịnh độ
Đất lành, người hoàn hảo. (tiếng chuông)

Loài chim bay, thú chạy
Không bị lưới, bẫy giăng
Kẻ lưu lãng cô thân
Sớm quay về hương quán. (tiếng chuông)

Vô biên thế giới
Đất rộng trời cao
Tín thí gần xa
Phước thọ dồi dào. (tiếng chuông)

Thiền môn hưng thịnh
Phật pháp phát huy
Thổ địa long thần
Hộ Tăng an tịnh. (tiếng chuông)

Cha mẹ cùng thầy học
Còn, mất đều lợi lạc
Tổ tiên bao đời trước
Cùng nhau được siêu thoát. (tiếng chuông)

Nam mô Đức Phật Tỳ Lô Giá Na. (Mỗi danh hiệu Phật một tiếng chuông)

Nam mô Đức Phật Tỳ Lô Xá Na.
Nam mô Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Nam mô Đức Phật Di Lặc Từ Tôn.
Nam mô Đức Phật A Di Đà cõi Cực Lạc.

Nam mô mười phương ba đời các Đức Phật.

Nam mô Đức Bồ tát Đại Trí Văn Thù.
Nam mô ĐứcBồ tát Đại Hạnh Phổ Hiền.
Nam Mô Đức Bồ tát Đại Bi Quán Thế Âm.
Nam mô Đức Bồ tát Đại thế Chí.
Nam mô Đức Bồ tát Già Lam Thánh Chúng.

Mười Phương ba đời bảy đức Như Lai
Cùng tám mươi tám Phật trên liên đài
Chúng sanh sáu đường mong thoát khổ
Chín cõi mười loài khỏi trần ai. (tiếng chuông)

Chuông ngân dồn dập lại gióng lên
Chùa viện chúng Tăng hãy nhớ ghi
Tu tập bốn thời tuân qui chế
Xuống giường cất bước giữ oai nghi. (tiếng chuông)

Sau đó tụng: Đại Bi, Kinh Di Đà, Bát Nhã, Niệm Phật, Hồi hướng, Phục Nguyện, Tự quy y và cuối cùng là đọc bài Kệ dứt chuông:

Trăm tám tiếng chuông hướng Phật tiền.
Trên thông dưới thấu thảy an nhiên.
Sáu đường chúng sanh mong thoát khổ.
Chín cõi mười loài hết lụy phiền.
(Mỗi câu một tiếng chuông)

Nam-mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma Ha Tát.
(ba tiếng chuông)

Sư Cụ Hòa Thượng Từ Tâm, Phương Trượng Chùa Sắc Tứ Hưng Phước, là một bậc thâm nho kỳ cựu. Trước khi xuất gia Ngài đã là một vị quan văn tại chốn triều đình, xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc. Tuy không giàu có do của bất chánh, nhưng ruộng đất cha mẹ để lại cũng như bằng cấp và chỗ đứng trong xã hội, đã làm cho vị quan văn ấy không hổ phận khi xuất hiện trước bàng dân thiên hạ hay ở chốn quan trường đối với các quan trên dưới. Tuy nhiên đứng trên bàng dân để xử kiện hay giao dịch với các nước lân bang và những lần đi kinh lý, vị quan ấy thấy dẫy đầy những kịch tính mà mình phải đóng như trong phim trường, cốt cho xong một bổn phận là “cha mẹ của dân”.

Cứ mỗi lần xét xử một vụ kiện như thế, vị quan này chẳng yên tâm chút nào, dẫu cho luật pháp đương thời của triều đình có nghiêm minh bao nhiêu đi chăng nữa, thì đa phần kẻ thắng vẫn là kẻ có tiền và có quyền. Do vậy mà Ngài đã chán ngấy cảnh này nên đã giũ áo từ quan, tìm vào chốn am thiền để tìm lại con người chân thật của mình. Đôi khi Ngài tự nhủ, không biết trong đời này có ai nói thật những thói hư tật xấu của mình cho người khác biết để tránh không? Hay cũng chỉ là tốt khoe xấu che. Có ai biết sợ để sám hối ăn năn những lỗi lầm của mình khi vấp phải, hay cũng chỉ là vá víu tạm thời?

Chỉ chừng đó câu hỏi, và chỉ chừng đó suy tư cũng đã làm cho vị quan văn này tỉnh ngộ và chỉ có chốn thiền môn mới có thể giải quyết được những thắc mắc này. Nhất là giáo lý thậm thâm vi diệu của Hoa Nghiêm, của Bát Nhã, của Tánh Không, của Duy Thức, đã giúp Ngài tỉnh giấc mộng Nam Kha, mà chốn quan trường cũng giống như:

“Xá chi một quả chuối xanh,
Ba bảy người dành cho mủ dính tay.”

Ngài đọc tiểu sử của Thiền Sư Huyền Quang đời Trần, tức Lý Đạo Tái, thấy vị này cũng xuất thân từ chốn quan trường, đã đỗ bằng tiến sĩ, ra làm quan một thời gian nhưng lại về hưu non và quyết chí tu hành cho đến ngày đắc đạo. Hai câu thơ mà Huyền Quang để lại vào thời ấy nay vẫn còn có ý nghĩa như thường. Đó là:

“Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ trạng tám nghìn nhân duyên.”

Thói đời vốn đen bạc, lòng người thay trắng đổi đen, nhưng khi vào chùa cũng chưa phải là hết nợ. Ví như hôm nay đó, tự dưng thằng bé kháu khỉnh lại bị bỏ rơi trước chùa. Ta lại phải cưu mang. Có lẽ họ nghĩ rằng: “Cửa chùa là cửa từ bi và vị thầy cưu mang đứa trẻ chắc cũng là chuyện bình thường như chuyện của Lý Công Uẩn năm xưa chăng?”

Con ai đem bỏ chùa này,
A Di Đà Phật, con thầy thầy nuôi.

Chưa hẳn là vậy. Đã là người xuất gia thì làm gì có con riêng, trừ phi vị ấy lập gia đình, có con cái rồi mới đi tu. Còn đây ta vốn trinh nguyên từ chốn quan trường cho đến khi được sắc phong Hòa Thượng, biết đâu ta nuôi đứa bé này để ngày sau nó sẽ giống như Công Uẩn là:

“Nửa đêm chẳng dám dang chân duỗi,
Chỉ sợ sơn hà xã tắc xiêu.”

Biết đâu! Nhưng trong dáng điệu đứa bé này sao ta thấy nó kháu khỉnh quá, chắc rằng nghiệp lực của nó, còn nặng nợ trần duyên lắm, chứ chưa hẳn đã là một đứa bé “xuất trần thượng sĩ”.

Hòa Thượng Từ Tâm nhìn đứa bé một cách chăm chú và nó cũng đáp lại Hòa Thượng bằng tiếng khóc oe oe... và đôi khi lại còn khóc to hơn nữa, khiến cho các vị tịnh hạnh nhân trong chùa phải lo đi khuấy cháo sữa cho nó. Quả thật, chùa đã bận rộn lại càng thêm bận rộn hơn nữa.

Ngày lại tháng qua, đứa trẻ ấy lớn lên như thổi, được Sư Cụ Từ Tâm đặt cho Pháp Danh là Ngộ Đạo, lấy họ của mình làm chỗ dựa cho bé. Kể từ đó, chùa như rạng rỡ hơn vì có tiếng khóc của trẻ thơ. Có người hiểu chuyện, giúp Sư Cụ việc này việc nọ, như thay tả, khuấy sữa cho bé, hoặc ru cho bé ngủ, nhưng cũng thật là lạ. Bé chỉ thích nghe chuông, ít thích những lời ru ngọt ngào, vì thế cho nên nhiều người nói rằng: “Bé đúng là có căn tu nên mới gặp được Hòa Thượng.”

Cũng có nhiều người không hiểu chuyện, buộc miệng bảo rằng: “Thấy đứa bé giống Hòa Thượng như đúc!”

- Ấy chết! Đừng có nói đùa. Ngài là hàng quan tước, nhiều mỹ nhân nhà quyền quý ngài còn không thích, thích gì những chuyện vụng trộm như thế này. Chẳng qua vì mối từ tâm, đúng như đạo hiệu của Ngài, cho nên Ngài mới nuôi đứa bé này thôi.

Nhưng ai nói gì Ngài cũng chẳng phân trần, mà cũng chẳng giải thích. Chỉ có điều lúc nào Ngài cũng hoan hỷ mỉm cười và bảo rằng “như thị, như thị…” như thế đó, như thế đó...

Cái tên Ngộ Đạo, hay Đạo Ngộ nghe cũng hay hay, vì đọc theo kiểu nào cũng đều xuôi tai cả. Vì đạo mà gặp Ngài hay gặp được đạo qua Ngài cũng hay thôi. Cha mẹ chắc gì đặt được cái tên hay như thế.

- Quả thật người mẹ ấy khôn ngoan đấy chứ!

Một vị tịnh hạnh nhân nói thế. Trong khi đó, người khác chen vào:

- Khôn gì mà khôn. Niềm vui ai hưởng chứ sự cực nhọc thì khiến cho những già này mang, mà còn làm liên lụy, phiền đến Hòa Thượng nữa.

- Nói vậy thì chữ từ bi nơi cửa Phật để ở đâu?

- Để ở đâu cũng được, nhưng nhiều lúc cũng cần phải đóng cửa từ bi lại, chứ như trường hợp này thì Sư Cụ quá từ bi.

- Vậy thì phải giải quyết sao đây?

- Đã phát nguyện làm và tu theo hạnh Bồ Tát thì chấp nhận thôi. Cái gì mình bỏ chạy, trốn tránh thì việc ấy cứ theo hoài. Việc gì mình sẵn sàng đối diện thì sẽ vượt qua được.

- Già không thấy trong Bảo Vương Tam-muội Niệm Phật Trực Chỉ có nói đó sao?

- Nói như thế nào?

- Oan trái không cần biện bạch, vì còn biện bạch thì nhân ngã chưa xả.

- Nhưng thầy mình đâu có mắc nợ ai đâu? Suốt đời từ khi làm quan cho đến khi tu hành cũng đều làm việc “thi ân chẳng cầu báo”, sao hôm nay chùa mình lại phải cưu mang thêm thằng bé này nữa?

- Biết đâu là Lý Công Uẩn tái sinh, hay Chu Nguyên Chương nhập thế chăng?

- Việc ấy xin miễn bàn.

Lời qua tiếng lại đối đáp với nhau của hai vị tịnh hạnh nhân trong chùa, khiến Sư Cụ nghe được và từ tốn bảo rằng:

- Phàm làm người chúng ta phải có lượng từ bi, ngay cả khi chúng ta, những người tu theo Bồ Tát Hạnh bị oan ức, bị xẻ thịt phanh thây còn không giận người, trách đời, huống gì đây mới chỉ là một thử thách nhỏ. Các vị nghĩ như thế, vì họ đem bỏ con trước chùa. Nếu đem ba ký lô gram vàng ròng và hột xoàn, kim cương bỏ đó, chắc quý vị không trách cứ. Nhưng chắc gì hột xoàn kim cương, đã là một điềm lành? Thôi hãy chấp nhận vậy. Vả lại “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả” xưa nay việc ấy vẫn thường, chúng sanh gây ra bao nhiêu tội lỗi chẳng cần biết, chỉ khi nghiệp đến rồi mới sợ mới lo. Còn Bồ Tát phải biết ngay từ lúc gây nhân thì quả ấy đã nắm chắc trong tay rồi. Cũng ví như nếu ta hái quả cam non đem dùng thì chắc rằng đắng lắm chẳng ăn được, nhưng hãy đợi qua thời gian, quả cam ấy chín, ta hái để ăn. Lúc ấy ta thấy ngọt. Vậy vị ngọt này từ đâu đến nếu chẳng phải là từ cái chua kia mà có? Vì thế, đức Phật dạy rằng: “Phiền não tức Bồ-đề.” Sự giải thoát giác ngộ quyết không ra ngoài những phiền não khổ đau trong đời này mà có được. Trong cái nhân đắng ấy đã hàm chứa chất ngọt rồi, chỉ vì chúng ta không biết chuyển hóa khổ đau tục lụy thành Niết-bàn an lạc đấy thôi, chứ nếu chúng ta biết áp dụng, đúng tinh thần Bồ Tát Đạo, thì làm sao chúng ta có thể tìm niềm vui riêng biệt, khi chúng sanh còn đau khổ nơi chốn hồng trần này? Vả lại, đứa bé này biết đâu sẽ tốt về sau, mà cũng có thể sẽ xấu về sau. Như trong kinh Đại Bát Niết-bàn Phật dạy rằng: “Tất cả các pháp đều không có tính nhất định.” Cái đúng của ngày hôm qua, cũng có thể là cái sai của ngày hôm nay, và cái sai của ngày hôm nay, có thể vẫn là cái đúng của ngày mai, vì tất cả pháp đều là Phật Pháp cả. Dầu cho pháp ấy là pháp của thế gian hay xuất thế gian. Biết đâu người mẹ đau khổ của đứa bé này đang hối hận mà cũng đang hạnh phúc. Hạnh phúc vì con mình được nhà chùa nuôi nấng tử tế và được huấn luyện học hỏi hằng ngày nơi chốn thiền môn, nên người mẹ rất an lòng. Có người mẹ nào mà chẳng thương con. Biết đâu bà ta mỗi ngày đang dõi mắt trông vào chùa để xem hành hoạt của con mình, vì thế mà hạnh phúc. Nhưng cũng biết đâu người mẹ đau khổ ấy rất khổ tâm, vì muốn chuộc lại con mình, nhưng sợ miệng đời đen bạc dèm pha. Do vậy mà vẫn âm thầm chịu đựng khổ đau. Và biết đâu Bồ Tát Quán Thế Âm đang thử lòng những kẻ tu hành như chúng ta có thật sự cứu khổ khi kẻ lâm nguy đến kêu cầu với mình chăng? Vả thật có nhiều lý do để mà suy đoán, nhưng nghĩ suy làm gì cho mệt trí. Hãy xem đây là một niềm vui, là hạnh phúc rồi. Vì ta đã làm an lòng cho một người mẹ khổ đau như thế.”

Mới đó mà đã tròn ba tuổi, bé Ngộ Đạo lúc nào cũng quấn quít bên Sư Cụ như thầy trò, như cha con và cũng như ông cháu. Người ngoài nhìn vào một già một trẻ lúc nào cũng bên cạnh nhau ra điều tâm đắc lắm.

Một hôm Sư Cụ Từ Tâm bảo rằng:

- Ngày mai là mồng một, chiều nay chúng ta sám hối.

- Sám hối là gì vậy ông?

- Sám hối là sám hối. Bây giờ con còn nhỏ chưa hiểu đâu. Lớn thêm một chút nữa ông sẽ giải thích cho.

Bé vâng lời lên chánh điện vào giờ lễ sám hối. Bây giờ ai trông thấy bé cũng muốn gần. Kẻ xoa đầu, người vuốt tóc, trên ba cái chỏm trái đào còn lại hiện lên trên đôi má ửng hồng, giống như một hoa sen đang kỳ nở hương thơm ngát. Có người thì trêu cháu hỏi mẹ cha ở đâu. Người thì kín đáo hơn cho bé trái đào, trái ổi để được bồng ẵm và nâng niu bé. Ai làm cách nào bé cũng thuận theo và vì thế Hòa Thượng được khen là người mát tay nuôi dạy trẻ. Có người bảo:

- Từ nhỏ đến giờ Sư Cụ đâu có bao giờ chăm sóc trẻ thơ đâu mà Ngài tài tình quá nhỉ.

- Thì chăm lo cho chốn quan trường cũng là một hình thức chăm sóc không phải sao? Ấy là người lớn. Còn ở đây là trẻ thơ, khó dạy khó bảo lắm.

Có người lại tò mò muốn biết mẹ cháu là ai, biết đâu trong những người đi lễ chùa vào những lễ sám hối hay những ngày lễ lớn trong năm lại chẳng có mẹ cháu. Hãy để ý xem hành động của một người mẹ thật và một người bàng quan thì sẽ rõ.

- Đâu có ai dại gì mà nhận con lại trong lúc này. Vì Sư Cụ chăm sóc kỹ quá mà!

Một người đàn bà nói thế.

- Đã là con thì hùm dữ chẳng ăn thịt con. Sao người mẹ nào lại đành đoạn thế?

Một bà khác nói:

- Theo tôi cứ để yên như thế là xong, lớn lên biết đâu tiểu sẽ đi tu. Vì ngày xưa người ta vẫn thường ví:

“Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa lại quét lá đa.”

- Nhưng sư phụ mình đâu phải người thường. Đó là bậc quan lại của triều đình. Đã bỏ chốn quan trường vào cửa Phật xuất gia, thì chắc rằng Ngài cũng phải cho tiểu này học đến nơi đến chốn chứ.

- Ừ tùy theo thằng bé, nếu nó thông minh.

- Trông dáng nó kìa, vừa xinh vừa hồng hào, trông như quả đào chín mọng ấy!

- Ấy, đừng khen con trẻ ở tuổi này.

Sau lễ sám hối hôm đó, bé Ngộ Đạo được vào liêu phòng của Hòa Thượng Phương Trượng và bé cất tiếng hỏi: “Bạch sư ông, mẹ cha của con sao chẳng thấy đến chùa lễ Phật?”

Câu hỏi của bé khiến sư ông suy nghĩ hồi lâu mới trả lời.

- Chắc là bận lắm!

- Nhưng con chưa bao giờ gặp.

- À, chuyện này thì dài dòng lắm, làm sao con hiểu hết được đây. Nếu ông có nói cho con nghe bây giờ, thì sau này chắc gì con còn nhớ. Vì con còn quá nhỏ, thôi để từ từ khi con lớn lên năm, bảy tuổi ông sẽ kể cho con nghe. Lúc ấy, con sẽ có được sự nhận định rõ ràng hơn. Còn bây giờ thì …

- …. con muốn nghe

- Nhưng ở tuổi này con nghe đâu có ích gì. Con hãy trở lại phòng mình đi ngủ sớm, ngày mai còn phải cùng ông ra vườn tưới cây kiểng và xem bướm hay hoa nở nữa.

Con nít khi bị dụ vào mục tiêu khác, nhất là mục tiêu nào chúng thích thì sẽ sớm quên ngay những gì chúng đang đòi hỏi. Dầu cho việc đòi hỏi ấy có quan trọng đi nữa cũng sẽ dễ quên đi.

Sáng hôm sau cả hai ông cháu đều ra vườn và họ thủ thỉ với nhau ra chiều tâm đắc lắm.

Đây là bụi hoa mai, đây là giàn hoa thiên lý, đây là hoa cẩm chướng, đây là hoa anh đào.

- Nhưng tại sao gọi là hoa, thưa ông?

- Thì tại nó là hoa. Nhưng sau này con lớn khôn lên, con học chữ Hán để biết thì ý nghĩa kỳ diệu lắm! Chữ Hán là một loại chữ tượng hình, từ đời ông Bành Tổ bên Tàu đã hơn năm ngàn năm nay, họ dùng chữ tượng hình để viết và gọi tên con người, con vật, cây cỏ v.v..Ví dụ như chữ hoa (花) viết bên trên là bộ thảo (艸) có nghĩa là loài cây cỏ. Bên dưới là chữ hóa (化) có nghĩa là sự biến đổi của đất trời vạn vật. Nếu chiết tự thêm ra nữa thì một bên có bộ nhân đứng (亻) tức là người, còn bên kia là bộ chủy (匕) ví như cuộc đời này yên lặng. Mọi việc đều vô sự mà có đầy đủ việc ăn uống an lành. Như thế cả ba bộ ghép lại thành chữ hoa. Hoa là kết tinh của cuộc đời, của con người và của sự vật. Hoa mang hương sắc đến cho đời, điểm tô cho đời thêm lộng lẫy nên thơ và chính hoa cũng làm cho đời khổ lụy.

- Tại sao vậy ông?

- Thì cũng như trường hợp của mẹ con đó. Người ta khi nghĩ đến một người đàn bà còn trẻ mà bạc phước thì người ta nói uổng một đời hoa.

- Vậy mẹ con đã chết hay còn sống?

- Chắc rằng...

- Mẹ con đã chết hả ông?

- Điều đó không chắc lắm, vì con là đứa con rơi, mẹ con đem bỏ trước cửa chùa vào một ngày mùa đông mưa gió, mới đó mà cũng bốn, năm năm rồi. Quả thật thời gian trôi nhanh thật, đâu có ai ngờ...

- Ngờ gì thưa ông?

- Biết đâu mẹ con đã vào chùa tu niệm.

- Mà cũng chưa chắc, hay là mẹ con đã lấy chồng khác.

- Hoặc giả mẹ con đã biệt xứ ra đi, mà cũng chưa chắc nữa. Biết đâu mẹ con đang ở gần đây để xem sự trưởng thành của con. Đâu có người mẹ nào mà chẳng thương con...

- Nhưng còn ba của con…?

- Đó là điều bí hiểm nữa, chỉ có mẹ con là người biết rõ thôi.

- Thôi! Con đừng hỏi nữa, hãy lo học và cầu nguyện, biết đâu một ngày nào đó, sẽ có ngày hội ngộ, và lúc trùng phùng con sẽ rõ biết hơn. Còn ông, ông chỉ biết đến đó và ông cũng biết cuộc đời của con người vốn gốc của nó là khổ đau tục luỵ mà thôi.

- Con hãy nhìn cây này xem.

- Là cây gì vậy ông?

- Là cây nghệ đó.

- Cây này làm thuốc hay lắm. Nếu bị thương mà không có thuốc gì đắp lên vết thương thì cứ giả nhỏ củ nghệ đắp lên vết thương và ràng lại cho kỹ, vết thương sẽ mau lành.

- Vậy con lấy lá đắp lên chân con nghe?

- Không phải vậy. Vả lại con có bị thương đâu. Lại nữa củ nghệ mới có tác dụng chứ lá thì chẳng công hiệu gì đâu.

- Còn đây là trà hoa nữ, đó là hoa tý ngọ, hoa phù dung.

- Tại sao gọi là trà hoa nữ, tý ngọ với phù dung, thưa ông?

- Thì loại nào sớm nở chiều tàn người ta gọi là phù dung. Vì nó đẹp, nhưng nó phù du lắm. Có đó rồi mất đó. Đẹp đó rồi xấu đó. Tất cả chỉ là phù du mộng ảo, như chốn quan trường vậy thôi.

- Ông nói gì con không hiểu?

- À chuyện này dài dòng lắm, nếu có nói con cũng chẳng hiểu đâu. Chuyện ngày xưa ấy mà, khi ông còn là một quan văn của chốn triều đình, mà bây giờ thôi không bàn đến chuyện ấy nữa.

- Vậy những loại hoa kia?

- À, tý ngọ là do người ta đọc lệch, đúng ra phải là tỵ ngộ, vì hoa này mỗi ngày chỉ nở một lần vào giờ tỵ và kéo dài không qua giờ Ngọ, tức là khoảng 9, 10 giờ cho đến quá 12 giờ trưa thì tàn, cho nên người ta gọi là dân gian còn gọi là hoa mười giờ.

- Còn trà hoa nữ?

- Có lẽ người con gái hái hoa này để ướp trà nên người xưa gọi như vậy chăng? Điều ấy ông chẳng biết.

- Nhưng tại sao chùa mình trồng nhiều hoa thế hở ông?

- Như con biết đó, cây cỏ, hoa lá vốn vô tình, nhưng nó mang lại niềm vui cho đời. Nhất là chùa mình nằm trên triền núi này mà không trồng hoa thì chẳng đẹp mắt chút nào. Chỉ toàn là đá và cây cỏ thì khách thập phương khi vãng lai không có nơi dạo chơi thưởng ngoạn. Do vậy mà ông cho trồng nhiều hoa và cây ăn trái. Con thấy đó, cây cỏ tuy vô tình, nhưng nếu mình thương nó, chăm sóc thì nó cũng vui tươi hớn hở đón chào mình, như người khách quý đi xa vừa trở lại cố hương. Còn nếu mình hất hủi nó, không lo bón phân tưới nước cho nó, chẳng khác nào mình đem con bỏ chợ vậy.

- Như thế ba mẹ của con không thương con phải không ông?

- Ấy! Chẳng phải thế, ông lỡ lời vậy thôi, chứ ông và các vị tịnh hạnh nhân ở chùa chăm sóc cho con còn hơn cha mẹ của con nữa đó. Con thấy đúng không?

- Tại sao con thấy nhớ ba mẹ con quá!

- Ai cũng vậy thôi. Nhưng con hãy nghe ta nói tiếp đây. Ở đây có cây chanh, kia có cây bưởi, gần đó có cây cam và cây lựu. Lúc nào những cây này cũng có trái quanh năm suốt tháng và nhờ như vậy mà chùa mình có cây trái xanh tươi cúng Phật khỏi phải đi chợ. Hoa cũng vậy, quanh vườn chùa mình dư để cúng Phật. Mà con nhớ khi nào có cúng Phật phải lựa những hoa đẹp, hoa tươi, trái cây xanh tốt để cúng. Và đó là thể hiện lòng mình đối với Phật Tổ.

- Con xin vâng lời ông, khi nào được phép của ông con sẽ làm điều đó.

Nhìn lên bầu trời quang đãng vào buổi sớm mai, sư ông Từ Tâm muốn dạy tiếp cho điệu Ngộ Đạo những bài học vở lòng nơi chốn thiền môn nên ông ôn tồn bảo:

- Con có biết rằng những con chim ấy bay đi đâu không?

- Chắc là về quê của nó.

- Quê của nó ở đâu vậy?

- Chắc là ở bên núi kia.

- Nhưng núi kia chắc gì có tổ của nó! Mỗi sáng chim đi kiếm mồi và mỗi chiều chim bay về tổ. Con chim nó vẫn có cội có nguồn, và lòng người cũng thế.

- Nhưng nguồn gốc của con, con không rõ.

- Rồi một ngày kia con sẽ biết.

Đoạn Sư Cụ Từ Tâm quay sang chuyện khác để bày cho điệu Ngộ Đạo trong bước sơ cơ chập chững ở cửa Thiền.

- Con hãy nhìn ra ngoài đi. Phía trước có cái gì đó?

- Đó là cửa tam quan mà ông vẫn thường hay nói.

- Nhưng chắc rằng con không hiểu chữ tam quan là gì? Bây giờ ông giải nghĩa đây: Tam là ba, quan là cái cửa. Cái cửa ấy có ba chứ không phải có một. Phía giữa gọi là Trung quan, Phía trái gọi là Không quan, và phía phải gọi là Giả quan.

- Chữ Nho nhiều quá phải không ông?

- Ừ, thì xưa đến nay ta vẫn dùng vậy. Con hãy nghe tiếp đây. Chữ Không có nghĩa là tất cả mọi việc, mọi vật trên đời này tuy có hình tướng đấy, nhưng những hình tướng ấy đều do sự giả hợp mà thành. Tất cả các hợp tướng ấy được cấu tạo bởi đất nước gió lửa, rồi khi tàn suy cái gì của đất trả về cho đất, cái gì của lửa trả về cho lửa, cái gì của gió trả về cho gió, cái gì của nước lại trở về với nước. Do vậy mà nói “không” là như thế. Còn một cái “Không” vượt lên trên cái có nữa kia. Nhưng bây giờ con còn nhỏ chưa hiểu đâu. Từ từ, thủng thẳng năm ba năm nữa, ông sẽ dạy cho con, ráng chờ nghe. Còn chữ Giả có nghĩa là không có thật tướng, tuy chúng ta thấy có cung vàng điện ngọc, nhà cửa lầu đài, con người, sự vật v.v…, nhưng dưới con mắt của người hiểu đạo, thì chẳng có gì là thật hết. Tuy có đó nhưng là giả tướng. Do đó gọi là “giả quan”. Có nghĩa là cái cửa đi vào chỗ không tướng. Ừ mà cái này khó lắm, chắc chừng ba bốn chục năm nữa con mới hiểu được. Còn cái cửa giữa ấy gọi là trung quan. Trung có nghĩa là ở giữa. Có nghĩa là không thật mà cũng chẳng hư, không chơn mà cũng chẳng giả, là con đường vượt lên mọi sự đối đãi trong cuộc đời, trong thế gian phiền não này. Do vậy đi vào chùa là đi vào con đường ở giữa. Con đường này không phải là con đường không có bên mặt, không có bên trái, mà là con đường vượt lên trên bên mặt và vượt lên cả trên bên trái. Do vậy gọi là trung đạo hay trung quan là thế.

- Nghe ông giảng thật là hay, nhưng con không nhớ hết. Thôi để dành lúc khác vậy. Nhưng thưa ông tại sao trời có mưa và có nắng. Tại sao trời không mưa hoài để ông cháu mình khỏi tưới cây hả ông?

- Ấy thế! Chẳng phải vậy đâu! Mưa hoài cũng thối đất, mà nắng hoài cũng cháy rừng. Vì vậy thiên nhiên tuy vô hình nhưng hay lắm đó. Như con thấy kìa, trên khoảng không ấy có một cụm mây đang là đà bay đó, không phải không có nguyên do đâu. Nước biển hay nước sông khi gặp gió rồi bốc hơi bay lên trên, rồi hơi biến thành mây. Mây gặp lạnh thành mưa. Cứ thế và cứ thế. Trong cõi tử sanh này luôn luôn hoán chuyển và tồn tại đã bao nhiêu triệu năm như thế. Còn nơi nào không có gió, không có điều kiện thuận lợi, thì nước không bốc hơi được. Cho nên không có mưa, mà không có mưa thì ông bà ta gọi là hạn hán. Mùa màng sẽ mất mát, thu hoạch kém, lúa thóc không có, người ta phải đói kém. Do vậy mà có nhiều hệ lụy trong cuộc đời, như chiến tranh, đói nghèo, cháy rừng v.v… Thật ra, tất cả cũng đều do lỗi con người gây ra cả. Vì lẽ ai cũng muốn phần thắng về mình. Lo đi chinh phục thiên nhiên, để có nước nhiều hơn, hay để có năng lượng nhiều hơn, cho nên thiên nhiên mất quân bình, rồi từ đó sinh ra không biết bao nhiêu là hệ luỵ của cuộc đời. Con lớn lên một chút nữa sẽ hiểu được nhiều sự việc hơn. Như ở trong rừng này, tuy chim chóc và côn trùng ta thấy dường như vô tích sự, có con còn phá hoại mùa màng nữa và cũng có con giết hại những con trùng ấy để nuôi sống bản thân chúng. Nhưng nhờ thế mà môi trường được quân bình. Cũng như trong thế gian, có đàn ông thì phải có đàn bà, có nam phải có nữ để bổ sung cho nhau. Chỉ những thế giới giải thoát bên trên mình mới không cần hai thân như ở cõi này. Mà chỉ cần một thân là đủ, vì nơi đó chỉ có biến hóa mà thôi, ai muốn gì thì biến ra hình tướng ấy.

- Hay quá là hay, có lẽ vì vậy con thấy Bồ Tát Quán Thế Âm ở chùa mình có nhiều tay nhiều mắt và nhiều đầu phải không ông? Chứ bình thường con đâu thấy ai nhiều tay như vậy. Lúc đầu con thấy hình tượng ấy con sợ, nhưng bây giờ thì không, vì con thấy nhiều người hay đến cầu nguyện trước hình tượng của Ngài, chắc là Bồ Tát linh thiêng lắm?

- Ừ, đúng vậy! Bồ Tát ấy không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà, mà Bồ Tát muốn độ cho người đàn ông thì hiện ra thân đàn ông. Ngài muốn độ cho người nữ thì hiện ra người nữ. Thậm chí hình thể của vua quan, hay người ở cõi âm kia, Bồ Tát Quán Âm cũng có thể hiện thân được tất cả. Nếu kẻ nào có lòng tin và xưng dương tán thán danh hiệu của Ngài, thì sẽ được Ngài độ trì. Ví dụ như con muốn học giỏi, hiểu đạo nhanh v.v…, thường ngày nên lễ lạy Ngài và xưng danh hiệu của Ngài thì con sẽ được toại ý.

- Con chỉ muốn gặp được cha mẹ con thôi. Không biết Bồ Tát có gia hộ không?

- Dĩ nhiên là có. Nhưng phải tùy duyên, con cứ việc cầu nguyện. Chắc chắn việc ấy sẽ đến. Nhưng thế gian này tất cả đều bị ràng buộc, dễ gì cởi trói được đâu con. Con người, cuộc đời, sự vật, tiền tài, danh vọng, tình yêu, sự cảm thông, lòng từ bi, sự hận thù, hơn thua, được mất, giàu nghèo, ôi thôi là mộng ảo và thật tướng lại đan lẫn với nhau, làm sao con người có thể thoát ra khỏi chỗ vô minh này?

- Ông nói gì con không hiểu. Con chỉ nhớ lờ mờ thôi. Nhưng cha mẹ con là con người có thật mà ông?

- Đúng thế! Là con người bằng xương bằng thịt, nhưng bằng dục vọng họ đã sinh con ra và không có trách nhiệm nuôi dưỡng. Nhưng thôi, việc ấy hạ hồi phân giải. Nói làm chi cho thêm đau lòng trong lúc này, mà dẫu cho có phân tích rõ ràng, con cũng khó hiểu và chấp nhận, sẽ hẹn một ngày khác vậy.

Hai người một già một trẻ, một ông một cháu như ra chiều tâm đắc lắm. Có những lúc Sư Cụ Từ Tâm hình như chỉ nói hay thuyết giảng cho đất trời vạn vật nghe, cho cỏ cây hoa lá vui mừng, cho chim xanh bay trên trời cao, đừng mỏi cánh, cho suối chảy êm tai hơn, chứ thật ra với tuổi lên năm, lên bảy, điệu Ngộ Đạo có hiểu gì đâu. Có thể đó là nỗi niềm của Sư Cụ đã vào ra chốn quan trường, đã bao lần ngao ngán và cũng có thể vì hiểu đạo và luật vô thường nên mới chọn ẩn thân nơi núi thẳm rừng sâu như thế này. May mà có điệu Ngộ Đạo, lúc nào cũng lủi thủi theo sau ông, và nhân cơ hội ấy mới nghe được những nỗi niềm này. Tuy chẳng có người bên cạnh lắng nghe Sư Cụ, nhưng có lẽ Hộ Pháp và chư vị Thiện Thần đi tuần đâu đó sẽ dừng công việc lại để lắng nghe ông. Trong luật ở chùa ở dạy rằng:

“Cần tảo già-lam địa,
Thời thời phước huệ sanh.
Tuy vô tân khách chí,
Diệc hữu thánh nhân hành.”

Dịch nghĩa:

“Siêng quét đất già-lam,
Trí huệ sanh liền liền.
Tuy chẳng người khách đến,
Thánh nhân mãi đi tuần.”

Dịch thơ:

“Siêng năng quét đất vườn chùa,
Ươm mầm tuệ giác bốn mùa nở hoa.
Tuy dù vắng khách lại qua,
Thánh nhân luôn vẫn đoái hoài tới lui.”

Như thế ấy, có nghĩa là chung quanh ta vẫn có bậc khuất mặt khuất mày, người trên kẻ dưới đủ đầy cả, nếu ta có lòng tin, có lòng cầu nguyện, thì tiếng nói này có thể bay bổng đến 10 phương vô biên thế giới và biết đâu, lúc ấy sẽ có loài hữu tình hay vô tình nghe được. Rồi phát tâm tu hành giác ngộ. Như vậy ta cũng có công đức.

Có lần, một vị đại sư bên Trung quốc giảng kinh Hoa Nghiêm mà chẳng ai hiểu cả, vì đây là một hiện thực siêu thế giới, chỉ có Phật với Phật mới hiểu còn Bồ Tát có nghe cũng ngẩn ngơ thôi. Sau đó vị đạo sư này không nản, ông ta ra vườn chùa dựng tất cả những hòn đá lên ngay thẳng và ông ta bắt đầu giảng về diệu lý kinh Hoa Nghiêm, sau khi giảng, Ngài hỏi lại có hiểu không thì tất cả những hòn đá đều gật đầu. Như thế, dầu cho loài vô tình đi chăng nữa, chúng cũng có một sự cảm nhận. Cho nên, đừng cho là sự vật không hiểu mình, mà chỉ lo rằng chính con người không thể hiểu hết sự vật mà thôi.

Từ kinh nghiệm bản thân, sau bao nhiêu năm tu hành, nên Sư Cụ lúc nào cũng nói cho cháu mình nghe, nói cho cỏ cây và nói với chim ngàn, gió núi. Nói cho thú rừng hay nói cho chính mình nghe. Nói xong tự mình giải thích và cũng tự mình đồng ý hay phản đối lại tư tưởng của mình, khi tư tưởng nào đó lập luận không đúng với Chánh Pháp.

Chùa Hưng Phước bây giờ trông như đẹp hẳn hơn xưa, vì nơi đó có sức hồi sinh, có mầm non đang phát triển. Thế hệ người lớn tuổi, một ngày nào đó rồi phải ra đi, trở về với đất trời vạn vật. Còn tuổi trẻ, tuổi còn mộng mơ, của cuộc đời thanh xuân đầy hứa hẹn, tràn đầy nhựa sống ở một tương lai khá dài. Do vậy mà cảnh vật cũng tươi hơn, để đón chào một tâm hồn như thế. Dường như Sư Cụ Từ Tâm cũng đã đoán biết được hết những vấn đề này, nên đã cố công chuyển hết năng lực vào thế hệ kế thừa ấy. Tuy tuổi tác khác nhau xa, nhưng việc hiểu đạo chẳng cần nơi tuổi. Chẳng nhớ ông Tô-đà-di, mới bảy tuổi đến cầu Phật xuất gia. Phật hỏi rằng:

- Ông từ đâu tới?

- Ba cõi chẳng có nơi nào là nhà của con cả.

Ông đáp như thế

Nghe trả lời như thế cả đại chúng đều giật mình và Phật cho người này thọ giới tỳ-kheo lúc 7 tuổi, mặc dù theo Luật định thì phải đến tuổi 20 mới là tuổi đầy đủ oai nghi tế hạnh, để làm một bậc sa-môn đi vào đời tế độ quần sanh.

Dường như Sư Cụ Từ Tâm có được thiên nhãn nên đã thấy được việc này chăng hay chú bé này là thần đồng? Hoặc có một lý do gì đó mà Sư Cụ vẫn canh cánh bên lòng.


    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Dưới bóng đa chùa Viên Giác


Vua Là Phật, Phật Là Vua


Học đạo trong đời


Truyền thuyết về Bồ Tát Quán Thế Âm

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.224.0.25 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Ngọc Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Thiện Diệu Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Văn Minh Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Thiền Khách Rộng Mở Tâm Hồn nước Rộng Mở Tâm Hồn Bui Tuyet Lan Rộng Mở Tâm Hồn Xuân Thôn Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Độ Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn Pháp Tâm Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Yduongvan Rộng Mở Tâm Hồn Trí Tuệ Từ Bi Rộng Mở Tâm Hồn Tiến Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Hoat Khong ... ...

Việt Nam (71 lượt xem) - Hoa Kỳ (56 lượt xem) - French Southern Territories (5 lượt xem) - Philippines (2 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Anh quốc (1 lượt xem) - Mauritius (1 lượt xem) - Algeria (1 lượt xem) - Kenya (1 lượt xem) - Uzbekistan (1 lượt xem) - Hà Lan (1 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - ... ...