Việc những phép lạ đôi khi được các bậc chân sư chứng đạo thực hiện ở 
		thế gian này đã trở thành một phần nổi bật khi người đời truyền tụng về 
		các ngài. Nhưng thật ra đó là một sự sai lệch không nằm trong dụng ý của 
		các ngài.
		Trong kinh nghiệm thực tế trải qua của bản thân mình, tôi đã thấy rõ là 
		một vị chân sư không bao giờ sử dụng bừa bãi các quyền năng siêu nhiên 
		đã đạt được, trừ khi các vị đang nhắm đến một mục tiêu cụ thể nào đó, mà 
		thường là nhằm mục đích giáo hóa. Rất nhiều khi, tai họa ập đến với các 
		ngài do nghiệp quả đã gây ra từ trước, nhưng các ngài vẫn vui vẻ chấp 
		nhận thay vì dùng đến những năng lực huyền bí đã có được của mình.
		Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở một phần sau nữa, nhưng trước hết, liệu 
		có hay không vấn đề phép lạ, và vì sao có thể có những hiện tượng mà 
		khoa học tưởng chừng như không sao giải thích được?
		Việc xuất hiện các phép lạ trong lịch sử nhân loại đã không còn là vấn 
		đề để bàn cãi nữa. Những tài liệu từ rất xa xưa đều có ghi nhận nhiều 
		trường hợp phép lạ được thực hiện, và cho đến hiện nay cũng không ít 
		những trường hợp tương tự đôi khi được tường thuật rộng rãi trên báo 
		chí. Tuy nhiên, một số lớn các nhà trí thức không muốn xem đó là những 
		“phép lạ” hoặc “thần thông”, mà cho rằng chỉ là những hiện tượng mà khoa 
		học chưa giải thích được. 
		Trong một chừng mực nào đó, quan điểm này là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, 
		cùng với sự tiến hóa của khoa học, rất nhiều hiện tượng trước đây được 
		xem là phép lạ thì giờ đây đã được giải thích rõ và trở nên quen thuộc 
		trong nhận thức của con người.
		Tuy nhiên, vấn đề vẫn tồn tại ở điểm là, vì sao người ta có thể thực 
		hiện được những điều đó bất chấp cả những kiến thức khoa học còn giới 
		hạn vào thời điểm ấy? Hay nói cách khác, khoa học chỉ làm công việc chạy 
		theo sau để giải thích những gì đã xảy ra trong thực tiễn, thay vì là 
		thực hiện được một cái gì đó khả dĩ có thể gọi là phép lạ. 
		Hơn thế nữa, còn có nhiều trường hợp mà khoa học chỉ có thể thừa nhận là 
		đúng nhưng không sao giải thích được làm thế nào một bậc giác ngộ có thể 
		đạt được khả năng ấy.
		Nếu ai đã từng trao đổi về giới không sát sinh với các vị tu sĩ Phật 
		giáo, hẳn đều đã được nghe các vị nhắc đến một câu kệ đã xuất hiện từ 
		thuở xa xưa. 
		Kệ rằng:
		Phật quan sát thấy trong mỗi một bát nước,
		Có tám vạn bốn ngàn sinh vật.
[3]
		Người xuất gia theo giới luật phải trì tụng một câu thần chú để chú 
		nguyện cho chúng sanh trước khi uống nước, vì Phật dạy rằng trong nước 
		có các loài sinh vật, cho dù vào thời ấy kính hiển vi chưa hề có trong 
		kiến thức khoa học, và dùng mắt thường thì không ai có thể nhìn thấy 
		được bất cứ loài sinh vật nào trong một bát nước sạch.
		Ngày nay, khoa học đã có thể thấy rõ lời Phật dạy như trên là đúng, vì 
		trong nước quả có rất nhiều loài vi khuẩn sinh sống. Nhưng bằng cách nào 
		mà đức Phật có thể thấy được điều đó từ cách đây hơn 25 thế kỷ thì người 
		ta không sao giải thích được!
		Một ví dụ khác có thể được tìm thấy trong kinh A-di-đà, một bản kinh 
		được người Phật tử trì tụng rất thường xuyên. 
		Trong bản kinh này, khi dẫn chứng đến việc chư Phật ở các thế giới khác 
		đều chứng minh cho tính xác thực của kinh A-di-đà, đức Phật Thích-ca đã 
		có một đoạn nhắc đến “các thế giới ở phương dưới”.
[4] 
		Điều này hoàn toàn vượt ngoài kiến thức của khoa học vào thời ấy, vì 
		không ai có thể ngờ rằng quả đất chúng ta lại “treo lơ lửng” giữa hư 
		không mà không tựa vào đâu cả. Ngay cả đến việc quả đất hình tròn cũng 
		rất lâu về sau người ta mới biết được, vì từ thời cổ người ta vẫn tưởng 
		là quả đất hình vuông! 
		Trong kinh Kim Cang, chúng ta cũng tìm thấy một đoạn khác cụ thể hơn. 
		Phật nói với trưởng lão Tu-bồ-đề rằng:
		“Tu-bồ-đề! Hư không về phương nam, phương tây, phương bắc,
[5] 
		bốn phương phụ, phương trên, phương dưới có thể suy lường được chăng?”
[6]
		 Ở đây Phật đã nhắc đến hư không về phương dưới. Một thực tế ngày nay 
		chúng ta đều biết, nhưng hoàn toàn vượt ngoài hiểu biết của khoa học vào 
		thời điểm cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm.
		Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ rằng những năng lực của con người được 
		đạt đến bằng vào sự tu tập giác ngộ đã vượt rất xa so với những kiến 
		thức đạt được bằng vào sự suy diễn và chứng minh. Cả hai phương thức này 
		xét cho cùng nếu đã chính xác thì không hề dẫn đến sự mâu thuẫn nhau, 
		nhưng khoảng cách giữa cả hai thì có vẻ như chưa bao giờ bị triệt tiêu 
		cả.
		Mặc dù năng lực thần thông là một trong những kết quả của việc tu tập 
		đạt đến giác ngộ, nhưng đó không phải là điều mà người tu tập chân chính 
		nhắm đến. Bởi vì, xét cho cùng thì hết thảy mọi phép lạ cũng không giúp 
		ích được gì cho sự giải thoát khỏi những hệ lụy của cuộc đời. 
		Chính đức Phật đã nhiều lần cảnh báo các đệ tử của ngài không được lạm 
		dụng khả năng thần thông đã đạt được, mà cần phải tập trung nỗ lực, hết 
		sức tinh tấn trong việc tu tập để đạt đến sự chứng ngộ hoàn toàn.
		Câu chuyện sau đây có thể được hiểu như một ví dụ minh họa rất rõ cho 
		quan điểm này.
		Một vị thiền sư có việc phải đi qua sông. Ông đang ngồi chờ đò thì có 
		một đạo sĩ ngoại đạo cũng vừa đến. Ông này nhìn vị thiền sư với ánh mắt 
		khinh thường, rồi lấy chiếc nón đang đội trên đầu xuống, ông thả lên mặt 
		sông, đứng trên đó và lướt đi qua đến bờ bên kia chỉ trong nháy mắt.
		
		Lát sau, vị thiền sư qua sông trên một chuyến đò. Trong khi ông vừa lên 
		khỏi bến sông để tiếp tục hành trình thì vị đạo sĩ liền xuất hiện trước 
		mặt ông. Đạo sĩ xấc xược hỏi:
		– Này ông kia, ông tu hành như thế nào mà không đạt được thần thông, để 
		đến nỗi phải ngồi chờ đò một cách tội nghiệp như thế?
		Thiền sư ngước nhìn và từ tốn hỏi:
		– Đạo trưởng tu luyện bao lâu để đi được trên mặt sông như thế?
		Đạo sĩ đáp:
		– Ta tu luyện đã hơn hai mươi năm rồi.
		Vị thiền sư lẩm bẩm như chỉ nói cho chính mình nghe:
		– Ôi, đắt quá, đắt quá!
		Đạo sĩ ngạc nhiên, liền gạn hỏi:
		– Ông nói đắt quá là nghĩa gì thế?
		Thiền sư đáp:
		– Bần tăng vừa rồi chỉ trả có một đồng xu cho người lái đò để được chở 
		qua sông. Còn đạo trưởng để làm được việc ấy phải mất hơn hai mươi năm, 
		như vậy không phải là một giá quá đắt hay sao?
		Qua câu chuyện này, chúng ta có thể thấy rõ việc đạt đến thần thông 
		không hề là mục đích của một người tu hành chân chính.
		Điều này cũng có thể được thấy rõ ở điểm là, sự an lạc của một người tu 
		tập không đến từ những phép lạ, mà từ trình độ nhận thức và sở đắc về 
		tâm linh đạt được qua công phu hành trì pháp môn mình đã chọn.
		Tuy nhiên, thần thông hay phép lạ vẫn là một hiện tượng có thật khiến 
		cho con người luôn luôn thắc mắc và không sao hiểu được. Dựa trên những 
		nguyên tắc nào để phát sinh những điều huyền bí mầu nhiệm vượt ngoài các 
		quy luật vật chất thông thường?
		Một trong những điểm chung thường thấy ở hầu hết các trường hợp xuất 
		hiện của phép lạ là sự có mặt đồng thời của đức tin. Hay nói một cách 
		khác, khi không có đức tin, hoặc đức tin không đủ sâu vững thì không thể 
		có phép lạ.
		Một kiểu phép lạ thường được nhiều người biết đến nhất là sự linh ứng 
		của các lời cầu nguyện. Khi một lời cầu nguyện được thực hiện với niềm 
		tin tưởng sâu xa, sự linh ứng hầu như chắc chắn sẽ xảy ra. Việc thoát 
		khỏi những căn bệnh bất trị, những trường hợp tai qua nạn khỏi hoặc rất 
		nhiều sự linh nghiệm khác... đã thường xuyên được biết đến mà không ai 
		nghi ngơ gì.
		Điều cần nói ở đây là đức tin sâu xa lại không xuất phát từ kiến thức 
		khoa học. Khi người ta đặt niềm tin vào một lời cầu nguyện, đó không 
		phải là kiểu niềm tin như hai với hai là bốn... Hay nói một cách khác, 
		tiền đề để một sự linh ứng mầu nhiệm xảy ra là người cầu nguyện vốn đã 
		chấp nhận sự linh ứng, mầu nhiệm ấy ngay từ khi nó chưa xảy ra mà không 
		đòi hỏi phải có một sự giải thích hợp lý nào.
		Mối quan hệ giữa đức tin và phép lạ cũng cần được hiểu rõ thêm ở điểm 
		nữa là, rất nhiều khi phép lạ được thực hiện để mang lại niềm tin, nhưng 
		đó chỉ là một kiểu niềm tin để bắt đầu. Kiểu niềm tin này không đủ sức 
		để tự nó mang đến một phép lạ khác, nhưng đó lại là điểm khởi đầu rất 
		tốt để đạt đến một niềm tin sâu vững về sau.
		Sự mầu nhiệm không đạt đến khi người hành giả vì bất cứ một lý do nào đó 
		còn có sự nghi ngờ trong lòng. Ngày kia, có vị tăng đi ngang qua một 
		thôn vắng vào lúc trời sắp tối. Trên nền trời đã tắt nắng, ông nhìn thấy 
		một vùng hào quang tỏa sáng từ một căn nhà tranh nhỏ ở cuối làng. Lấy 
		làm lạ, ông liền tìm đến căn nhà ấy. Thì ra, trong nhà có một bà già 
		đang trì chú Cát tường.
[7] Lấy cớ xin nghỉ đêm lại, 
		ông dò hỏi xem bà già này đang tu tập pháp môn gì. Nhưng thật ra bà 
		không có hiểu biết gì khác ngoài bài thần chú Cát tường được một vị du 
		tăng dạy cho bà cách đó 3 năm. Từ khi học được, ngày nào bà lão cũng trì 
		tụng một cách rất chí thành. Quả thật, gia đình bà và cả ngôi làng nhỏ 
		này đã ba năm qua sống bình yên, mưa thuận gió hòa và không hề xảy ra 
		một tai họa nào.
		Vị tăng liền bảo bà lão đọc câu chú cho ông nghe và nhận thấy bà lão đã 
		đọc sai một chữ. Ông liền đọc lại cho bà nghe và chỉ ra chỗ sai để đề 
		nghị bà sửa lại.
		Hôm sau ông từ biệt ra đi. Và phải mất một thời gian sau ông mới lại có 
		dịp trở lại ngôi làng. Điều thay đổi đầu tiên ông nhận thấy là cũng vào 
		giờ giấc như lần trước, nhưng ông không còn nhìn thấy vùng hào quang tỏa 
		lên từ căn nhà tranh kia. Trên đường vào làng, ông nhìn thấy một khu đất 
		trống với dấu vết của một trận hỏa hoạn vẫn còn rất rõ. Hỏi ra mới biết 
		đã có một người chết và ba căn nhà kế nhau bị thiêu rụi.
		Rất kinh ngạc, ông tìm đến nhà bà lão hôm trước. Sau khi chào hỏi, ông 
		nói:
		– Thưa lão bà, phải chăng người đã không còn trì tụng thần chú Cát tường 
		như trước kia nữa?
		Bà lão đáp với vẻ ngạc nhiên:
		– Tôi vẫn trì tụng bình thường như trước đấy chứ. Hơn nữa, tôi đã nhớ 
		sửa lại chỗ sai như ngài chỉ dạy. Mặc dù điều đó thật khó khăn và tôi 
		vẫn rất hay lầm lộn qua lại giữa chữ đúng và chữ sai ấy.
		Vị tăng liền hiểu ra mọi việc. Chính sự thay đổi do ông yêu cầu đã đánh 
		mất đi hiệu lực của việc trì tụng thần chú. Vì cho rằng trong câu chú có 
		chỗ sai, nên bà lão đã sinh tâm nghi ngờ, không còn tin tưởng tuyệt đối 
		vào việc trì tụng của mình nữa. Mặt khác, do ý niệm sửa sai trong khi 
		trì tụng, bà đã bị phân tán tư tưởng mà không còn tập trung được như 
		trước kia!
		Và việc tập trung tư tưởng, hay định tâm, cũng là một yếu tố quyết định 
		khác được tìm thấy trong những trường hợp phép lạ được thực hiện. Khi 
		người ta phân tán tư tưởng vào nhiều việc, ý chí sẽ không đủ sức mạnh để 
		làm nên những điều vượt khỏi các giới hạn thông thường, hay nói khác đi 
		là không thể có phép lạ. 
		Mặt khác, định tâm và đức tin là hai điều hỗ tương cho nhau và rất 
		thường phải đi đôi với nhau. Khi có một đức tin vững chắc người ta mới 
		có thể định tâm, và chính việc định tâm làm củng cố thêm niềm tin sâu 
		vững.
		Sự thể hiện thần thông có thể là đề tài lôi cuốn sự quan tâm của rất 
		nhiều người, nhưng ngay từ xưa, các bậc chân sư chứng ngộ đã rất dè dặt 
		trong việc thực hiện phép thần thông. Trong những trường hợp nghiệp quả 
		đã chín muồi, một vị chân sư thà rằng thọ nhận tai nạn hay tật bệnh chứ 
		không dùng đến năng lực thần thông của mình để tránh né. 
		Một trong các đại đệ tử của đức Phật là ngài Mục-kiền-liên, đã nổi tiếng 
		với việc nhìn thấu địa ngục để thấy mẹ mình là bà Thanh-đề đang chịu tội 
		khổ và khẩn cầu với Phật chế tác ra phép Vu-lan-bồn để cứu độ cho mẹ, 
		vẫn còn được áp dụng cho đến tận ngày nay. Thế nhưng Đại đức 
		Mục-kiền-liên đã mặc nhiên chấp nhận cho các tà sư ngoại đạo hành hung 
		mình đến chết tại xứ Magadha mà không hề sử dụng đến năng lực thần thông 
		đã chứng đắc.
[8] Bản thân đức Phật cũng rất nhiều 
		lần từ chối không sử dụng đến thần thông, và luôn khuyến cáo các đệ tử 
		rằng đó không phải là mục đích của việc tu tập.
		Cho dù vẫn còn có rất nhiều sự hoài nghi và những hiện tượng thực tế đã 
		xảy ra thách thức kiến thức khoa học của con người, nhưng đức tin và 
		phép lạ luôn là một trong những vốn quý trong lịch sử tồn tại của loài 
		người mà những ai mong muốn có một cuộc sống hoàn thiện về tinh thần 
		không thể không quan tâm tìm hiểu.