Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Thiền Lâm Bảo Huấn [禪林寶訓] »» Bản Việt dịch quyển số 4 »»

Thiền Lâm Bảo Huấn [禪林寶訓] »» Bản Việt dịch quyển số 4


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.62 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.77 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thiền Lâm Bảo Huấn

Kinh này có 4 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | Quyển cuối
Việt dịch: Thích Tâm Châu

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

230.– GIÁC-CHIẾU
Phật-Trí-Dụ Hòa-Thượng nói: Ngựa tuấn chạy nhanh, không dám để cho chân nó tự-do chạy, mà phải dùng hàm-thiết, dây cương ngăn lại. Tiểu-nhân cương-cường, hoạnh-bạo, không dám để cho họ buông thả tình-thức, nên phải dùng hình-pháp mà chế-ngự. Sự lưu-lãng của ý-thức, không dám để cho nó vin theo duyên trần, mà phải dùng năng-lực giác-chiếu. Ôi, người học đạo, không biết dùng năng-lực giác-chiếu cũng như ngựa tuấn không có hàm-thiết, dây cương, cũng như tiểu-nhân không có hình-pháp, thì lấy gì mà dứt bỏ được tham-dục, điều trị được vọng-tưởng!
231.– HỖ-TƯƠNG
Ngài Phật-Trí nói với ngài Thủy-Am: Thực-thể trụ-trì có bốn pháp. Một là, đạo-đức. Hai là, ngôn-hành. Ba là, nhân-nghĩa. Bốn là, lễ-pháp. Đạo-đức, ngôn-hành là căn-bản của sự giáo hóa. Nhân nghĩa, lễ-pháp là chi-mạt của sự giáo hóa. Không có căn bản, không lập đạo-nghiệp được. Không có chi-mạt không thành sự được.
Tiên-thánh thấy người học đạo không tự-trị được, nên dựng tùng-lâm để cho họ có chỗ an-cư và, lập trụ-trì để thống-lý các việc. Song, tùng-lâm được tôn-trọng, không phải là vì trụ-trì; cơm ăn, áo mặc, đồ nằm, thuốc thang đầy-đủ, không phải là vì người học đạo, mà đều vì đạo của Phật-Tổ. Cho nên, người khéo trụ-trì, quyết-định trước tiên phải tôn đạo-đức, giữ ngôn-hành. Người học đạo, quyết định trước tiên phải giữ nhân-nghĩa, tuân lễ-pháp. Người trụ-trì không có người học đạo, không lập đạo-nghiệp được. Người học đạo không có trụ-trì, không thành sự-nghiệp được. Người trụ-trì và người học đạo cũng như thân với cánh tay, đầu với chân, lớn nhỏ xứng-hợp, không trái nhau, mới nương nhau làm việc được. Vì vậy, có chỗ nói: Người tu học phải bảo-thủ tùng-lâm. Tùng-lâm phải bảo-thủ đạo-đức. Người trụ-trì không có đạo-đức, thì thấy rõ là tùng-lâm bị phế-hủy.
232.– ĐẠO VÀ LỢI
Thủy-Am-Nhất Hòa-Thượng nói: Kinh-Dịch nói: Người quân-tử lo nghĩ đến tai-hoạn nên luôn luôn dự-phòng. Vì vậy, cổ-nhân nghĩ đến đại-hoạn sinh-tử, nên dùng đạo để đề-phòng thì sự lợi-ích mới lớn lao và sự truyền-trì mới xa rộng.
Người đời nay cho cầu đạo là vu-khoát chẳng bằng cầu lợi thiết-đáng hơn. Do đó, đua tranh học tập phù-hoa, so-sánh từng hào-ly nhỏ nhặt, hy-vọng những việc trước mắt và, hoài bão những kế cẩu-thả. Như thế, việc mực-thước của một năm còn không chịu làm, huống là lo đến lẽ sinh-tử. Vì vậy, người học đạo càng ngày càng bỉ-lậu, tùng-lâm càng ngày càng phế-hủy, kỷ-cương càng ngày càng truy-lạc. Và, cho đến lúc suy-đồi nghiêng ngửa thực sự, không sao cứu vãn được. Ôi, há không soi nghiệm sao!
233.– CHÍ ĐẠO
Ngài Thủy-Am nói: Xưa kia, tôi đi hành cước tới chùa Vân-Cư, thấy ngài Cao-Am dạ-sam nói: “Chí đạo thẳng-thắn, đĩnh-đặc không gần nhân-tình. Cần phải thành-tâm, chính-ý, đừng chuộng kiểu sức thiên-tà. Kiểu sức thì gần trá nịnh. Thiên-tà thì không trung-chính. Và, những việc ấy, đều không hợp với chí đạo”.
Tôi trộm nghĩ, lời nói của ngài Cao-Am rất gần chân-lý, nên tôi khắc-ý, theo làm. Đến khi được yết-kiến Phật-Trí tiên-sư, tôi mới thực sự triệt-ngộ một cách rộng lớn. Và, như thế mới không phụ chí hành-cước bình-sinh của tôi.
234.– LỢI DỤNG
Ngài Thủy-Am nói: Ngài Nguyệt-Đường[204] đi trụ-trì, tới đâu Ngài chỉ lấy việc hành-đạo làm trách-nhiệm của mình. Ngài không cần các hóa-chủ, cũng không yết-kiến các quí-nhân. Sự ăn uống hàng năm, tùy thường-trụ có bao nhiêu thì dùng vậy. Những Tăng-sĩ có chí muốn sung vào việc đi khất-thực, hóa-đạo, Ngài đều khước-từ. Hoặc có người nói: Phật răn các Tỳ-Khưu làm hạnh trì bát, để giúp thêm cho thân-mệnh, sao Ngài lại chống đối, không dung cho các vị? Ngài Nguyệt-Đường nói: Khi đức Phật chúng ta còn tại thế thì được, nhưng ngày nay làm hạnh ấy, quyết-định có người ham lợi đến bán cả thân mình!
Nhân đó tôi nghĩ rằng ngài Nguyệt-Đường ngừa lỗi từ lúc còn vi-tế, ngăn-lấp tệ-bệnh sẽ tiến dần, thực là thâm-thiết và rõ ràng vậy. Và, lời nói xứng thực ấy, nay còn rất đúng. Ngày nay đem lời nói ấy mà quan-sát, thì còn nhiều sự tệ hơn thế, há chỉ có sự bán mình mà thôi đâu!
235.– TỰ TIẾN
Ngài Thủy-Am nói với Thị-Lang Vưu-Diên-Chi[205]: Xưa kia, ngài Đại-Ngu-Chi, ngài Từ-Minh-Viên, ngài Cốc-Tuyền-Đạo và, ngài Lang-Da-Giác, kết bạn đi tham học nơi Phần-Dương-Chiêu Thiền-Sư. Miền Hà-Đông – tức vùng Thái-Nguyên, thuộc Phần-Châu – rét ghê-gớm, chúng-nhân đều sợ. Chỉ có ngài Từ-Minh-Viên để chí vào đạo, sớm hôm không lười và đêm ngồi chứ không nằm. Nếu buồn ngủ thì Ngài cầm cái dùi sắt tự đâm vào mình và than: Cổ nhân vì đại-sự sinh-tử, không ăn, không nghỉ, ta đây là người gì, mà lại buông thả cho sự lười biếng, sinh tâm phóng-dật, sống vô ích cho đời, chết không nghe tiếng về sau, như thế là tự bỏ mình vậy !
Một hôm Ngài từ biệt trở về, ngài Phần-Dương than: Nay Sở-Viên đi về, đạo của ta cũng trở về miền Đông vậy!
236.– BIẾT ĐƯỜNG
Ngài Thủy-Am nói: Cổ-đức trụ-trì, tự đem thân mình hành-đạo, chưa bao giờ tự phóng túng, cẩu-thả và sơ-sót. Xưa kia, ngài Phần-Dương thường than là đời tượng-quí khinh-bạc, người học đạo khó giáo-hóa. Nhưng, ngài Từ-Minh lại nói: Rất dễ. Chỉ lo nguời chủ-pháp không khéo dẫn-đạo mà thôi. Ngài Phần-Dương nói: Cổ-nhân thuần-thành, còn đến hai, ba mươi năm mới thành-đạt được. Ngài Từ-Minh nói: Việc ấy không phải là lời bàn chí-lý của thánh-triết. Tôi nghĩ, nếu người khéo biết đường tới đạo, gắng công một nghìn ngày là có thể đạt thành. Có nguời cho ngài Từ-Minh là nói dối. Không nghe.
Miền Phần-Dương lạnh nhiều, nhân khi bãi cuộc dạ-sam, bỗng nhiên có một vị Tỳ-Khưu lạ tới nói với Ngài rằng: Trong pháp-hội này có sáu bậc Đại-sĩ, sao không ra đời thuyết pháp, độ sinh? Quả thực, chưa đến ba năm, đã có sáu vị thành đạo. Tức là các ngài: Từ-Minh-Viên, Đại Ngu-Chi, Lang-Da-Giác, Cốc-Tuyền-Đạo, Pháp-Hoa-Cử và Thiên-Thắng-Thái. Ngài Phần-Dương thường đọc bài tụng, tán dương về việc sáu Ngài thành đạo như sau:
Hồ-Tăng kim-tích-quang,
Thỉnh pháp đáo Phần-Dương.
Lục nhân thành đại-khí,
Khuyến-thỉnh vị phu-dương.
Phỏng dịch:
Đạt-Ma rung trượng ánh Thiền soi,
Pháp đến Phần-Dương, pháp rạng ngời.
Sáu vị, khoát-nhiên thành đại-khí,
Tuyên-dương diệu-chỉ khắp nơi-nơi.
237.– TỰ TÁN
Đầu-Tử-Thanh Hòa-Thượng[206] vẽ tranh ngài Thủy-Am. Vẽ xong, ngài Đầu-Tử-Thanh xin ngài Thủy-Am một bài tán, để vào bức tranh ấy. Ngài Thủy-Am tự-tán như sau:
Tự Thanh thiền-nhân, Cô ngạnh vô địch.
Thần hôn nhất trai, Hiếp bất chí tịch.
Thâm-nhập thiền-định, Ly xuất nhập tức.
Danh đạt cửu trùng, Đàm thiền, tuyển đức.
Long-nhan đại duyệt, Tứ dĩ kim bạch.
Lực từ giả tam, Thượng nãi gia thán.
Chân đạo – nhân giả, Thảo mộc đằng hoán.
Truyền dư lậu-chất, Chú hương thỉnh tán.
Thị sở vị: Thanh xuất ư lam, nhi thanh ư lam giả giã!
Phỏng dịch :
Người, Thanh nối pháp, Cứng cỏi vô chừng.
Một bữa trong ngày, Nách không bén giường.
Vào sâu thiền-định, Hơi thở không vương.
Tiếng suốt Cửu-trùng, Đức, thiền bàn thường.
Long-nhan vui vẻ, Ban lắm lụa vàng.
Từ chối ba bận, Thêm lời tán-dương.
Đạo-nhân chân-thực, Cây cỏ mến thương.
Truyền lậu-chất ta, Tán ghi, tâm-hương.
Rõ thực:
Màu xanh sinh bởi màu lam nọ,
Xanh đậm hơn lam vượt mức thường!
238.– TƯƠNG KHẢ
Ngài Thủy-Am nói: Phật-Trí tiên-sư nói: Đông-Sơn, Diễn Tổ thường nói với ông Cảnh-Long-Học: Sơn-Tăng này có ngài Viên-Ngộ như cá có nước, chim có cánh. Cho nên, Thừa-Tướng Tử-Nham Cư-sĩ[207] khen: Thày trò tương-khả, tương đắc, ít gặp trong một thời. Và, đó là tố-phận thủy chung, ai có thể gián-cách được! Thực, Tử-Nham Cư-sĩ là người biết người và nói đúng vậy!
Gần đây, thấy bậc tôn-túc các nơi, dùng tâm-thuật để ngừa Tăng-sĩ, Tăng-sĩ đem thế-lợi để phụng-sự bậc tôn-túc. Chủ khách giao với nhau bằng lợi, thì trên dưới bị khinh-khi, làm sao mà pháp-môn hưng-hiển, tùng-lâm thịnh-vượng được!
239.– DẶN DÒ
Ngài Thủy-Am nói: Nói cảm động tới người cốt ở chỗ chân thực và thiết-đáng. Nói không chân-thực và thiết-đáng, thì sự cảm-động hẳn ít, vì ai là người hoài-mộ. Xưa kia, Bạch-Vân Sư-Tổ, đưa Sư-Ông đi trụ-trì chùa Tứ-Diện, Ngài đinh-ninh dặn-dò: Tổ-đạo suy-tàn, nguy như xếp trứng vậy. Ông đừng nên để tâm phóng túng, sơ-sót đạo-nghiệp, phóng-dật hành-vi, hư-phí quang-âm và làm bại-hoại chí-đức. Ông nên có độ lượng khoan-dung, làm lợi cho người, giữ gìn Tăng chúng. Ông nắm giữ và làm được những việc ấy là báo ơn Phật-Tổ đấy! Đương thời, ai nghe thấy cử-chỉ của Ngài cũng đều cảm-động.
Tới đây, ngài Thủy-Am nói với ngài Đầu-Tử-Thanh: Từ trước tới nay ông được nhà vua triệu vào cung Thần-đình hỏi đạo, thực là sự may-mắn cho pháp-môn. Nhưng, ông luôn luôn nên nhún mình xuống, tôn đạo lên, lấy sự lợi-ích và cứu giúp người làm tâm-niệm mình và, không nên cậy mình, khoe-khoang. Ông nên theo các bậc tiên-triết trên mình, nhún-nhường, kính sợ, bảo-thân, toàn-đức, đừng cho thế vị là vinh, mới có thể được tiếng vang trong sạch một thời và, danh thơm muôn thuở. Tôi sợ đời tôi, bóng sáng không còn dài, không còn gặp mặt được nữa, nên tôi đem những lời trên này tha-thiết dặn-dò ông. Ông nên cố gắng!
240.– TỰ NHƯ
Ngài Thủy-Am khi còn ít tuổi, tính-tình vẫn nhẹ-nhàng, thong-thả, không gò bó, nhưng có chí lớn, chuộng khí-tiết, không tập phù-hoa, không xem xét những sự nhỏ-nhặt, lòng dạ rộng-rãi và luôn luôn dấn thân theo việc-nghĩa. Tuy có lúc, họa-hại đến ngay trước mắt, nhưng không thấy biến sắc. Ngài trụ-trì tám ngôi chùa, trải khắp bốn quận. Đến đâu, tâm Ngài cũng đều tha-thiết lo nghĩ về việc hành đạo và xây-dựng. Năm thứ năm của niên-hiệu Thuần-Hy, Ngài rút lui chùa Tịnh-Từ ở Tây-Hồ, Ngài có làm bài kệ như sau:
Lục niên sái-tảo Hoàng-đô tự,
Ngõa lịch phiên thành Thích, Phạn-cung.
Kim nhật cung thành, qui khứ giã,
Trượng dầu bát diện khởi thanh-phong.
Phỏng dịch:
Sáu năm sái-tảo chốn chùa vua,
Lộng-lẫy cung trời, khác hẳn xưa.
Về vậy! Viên-thành công-quả đạo,
Gậy rung, gió mát tám phương lùa.
Quan-chức, thứ dân ở đây, thỉnh Ngài lưu lại mãi, nhưng Ngài không nhận. Ngài đi trên con thuyền nhỏ đến chùa Thiên-Minh, thuộc huyện Tú-Thủy (Gia-Hưng). Và, không bao lâu Ngài bị bệnh, từ-biệt đại-chúng và thị-tịch.
241.– CỔ PHÁP
Nguyệt-Đường-Xương Hòa-Thượng nói: Xưa kia, Đại-Trí Thiền-Sư lo các Tỳ-Khưu đời mạt-pháp kiêu-mạn, lười biếng, nên đặc-biệt chế ra qui-củ để ngăn-ngừa và, tùy theo khí-lượng, tài năng, đặt ra các chức-vị cho mỗi người phải chấp-sự. Chủ-pháp ở trượng-đường, đại-chúng ở thông đường[208]. Đặt ra mười chức-vị như: Trụ-trì, Thủ-Tọa, Thư-Ký, Tạng-chủ, Tri-khách, Đô-quản, Giám-tự, Phó-tự, Duy-na, Điển-tọa, để trông coi công việc, nghiêm-túc như nơi quan-phủ vậy. Người ở trên nắm giữ đại-cương, người ở dưới trông coi các mục, khiến cho trên, dưới tiếp nối nhau làm việc, như thân sai khiến cánh tay, cánh tay sai khiến ngón tay, nhất nhất đều noi theo nhau làm các việc. Vì vậy, bậc tiền-bối noi theo, tôn-phù và, tha thiết phụng-hành, khiến di-phong của tiên-thánh chưa mất vậy.
Gần đây, tùng-lâm suy kém, thấy người học đạo, chỉ quí người tài-ba thông suốt, mà khinh người giữ tiết-nghĩa, ưa chuộng sự phù-hoa, khinh rẻ sự chân-thực. Cứ như thế, ngày thêm tháng tới, tùng-lâm dần dần đi vào chỗ khinh-bạc. Đầu tiên, mới trộm yên một chút, sau sinh huân-tập lâu ngày và, cho là lý đương nhiên như thế, chứ không cho là phi nghĩa, phi lý. Người trên phập-phồng sợ người dưới, người dưới ngấp-nghé rình người trên. Khi bình thường thì nói ngọt, khuất mình, siếm-mị nhau cho vui, nhưng được ít lâu, thì sau lưng dùng gian-tâm, quỉ-kế để giết nhau. Thành là người hiền, bại là người ngu, không cần hỏi đến trật-tự, tôn-ty, lý lẽ phải trái. Người kia đã làm, người này bắt chước, người dưới nói, người trên theo, người trước làm, người sau nói. Ôi, nếu không phải là hiền thánh, nhân nguyện-lực xưa ra đời, làm sư-phạm cho đời, và chứa góp công-đức giáo-hóa hàng trăm năm, mới có thể chuyển nổi sự tệ-ác kiên-cố của họ, bằng không thì không thể nào thay đổi được!
242.– GIAO VIỆC
Ngài Nguyệt-Đường trụ-trì chùa Tịnh-Từ rất lâu. Có nguời nói: Hòa-Thượng hành-đạo đã lâu năm, môn hạ, chưa nghe thấy có người đệ-tử nào được Ngài giao-phó công việc hoằng-hóa, như vậy há không cô-phụ Diệu-Trạm tiên-sư[209] sao? Ngài Nguyệt-Đường không đáp. Ngày khác họ lại hỏi Ngài lại. Ngài Nguyệt-Đường nói: Ông không nghe người xưa trồng dưa sao? Người xưa vì mến dưa quá, giữa trưa mùa nắng gắt, đem nước tưới cho dưa, dưa không tốt lên được, mà lại héo chết, là sao vậy? Người mến dưa kia không phải là không siêng, song, tưới không phải thời mà dưa trở thành héo chết. Bậc lão-túc các nơi, tác-dưỡng và đề-bạt các Tăng-sĩ cũng vậy. Không xem đạo-nghiệp của họ ở bên trong đã đầy-đủ chưa? Tài khí của họ có xa rộng không? Mà chỉ muốn cho họ chóng làm người sư-phạm. Đến khi họ xuất đầu, xét tới đạo-đức của họ thì nhơ-nhớp, xét tới ngôn-hạnh của họ thì ngang trái và nói họ công chính thì họ lại là người tà-nịnh. Có những sự việc như thế, há chẳng phải là vì yêu quá phận của họ không? Và, sự yêu như thế, cũng chính như là người mến dưa, tưới dưa giữa trưa vậy. Tôi rất sợ các thức-giả cười, nên tôi không dám giao-phó công việc hoằng-hóa cho họ!
243.– SƯ PHÁP
Ngài Nguyệt-Đường nói: Khi ngài Hoàng-Long ở chùa Tích-Thúy, bị đau ba tháng không ra khỏi nhà phương-trượng. Ngài Chân-Tịnh thấy thế, lo lắng, nửa đêm lên trước Tam-Bảo khẩn-đảo, đốt hương trên đầu, thắp đèn trên cánh tay, mong nhờ thần-lực âm-trợ cho ngài Hoàng-Long chóng khỏi. Ngài Hoàng-Long nghe biết trách: Sinh-tử là phận của tôi, ông tham thiền mà không đạt lý như thế sao? Ngài Chân-Tịnh thung-dung thưa: Tùng-lâm có thể không có Khắc-Văn tức Chân-Tịnh – con, chứ không thể không có Hòa-Thượng. Các thức-giả cho ngài Chân-Tịnh có tâm chân-thành kính thày trọng pháp như thế, sau này quyết thành bậc đại-khí.
244. – CẢM HÓA
Ngài Nguyệt-Đường nói: Hoàng-Thái-Sử, Lỗ-Trực thường nói: Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư, khí-lượng thâm-hậu, không bị sự-vật chuyển dời. Bình-sinh, Ngài không ưa trang sức. Đệ-tử trong nhà, có người suốt đời không trông thấy Ngài có nét mặt mừng giận. Dù là những người hầu hạ, sai khiến, Ngài đều lấy lòng thành-thực đối-đãi. Cho nên, Ngài có thể không động đến thanh-khí mà làm cho đạo của ngài Từ-Minh được chấn-hưng. Thực không phải là sự cẩu thả mà được!
245.- COI THƯỜNG
Ngài Nguyệt-Đường nói: Đời Tống-Cao-Tôn, niên-hiệu Kiến-Viêm, ngày mồng ba tháng ba năm Kỷ-Dậu, Chung-Tương nổi loạn ở Lễ-Dương-châu, thuộc phủ Thường-Đức (Hồ-Quảng). Trong thời gian này, Văn-Thù-Đạo Thiền-Sư bị ách-nạn[210]. Thế giặc rất mạnh, tín-đồ bỏ chạy lung-tung. Thiền-Sư nói: “Tai họa có thể tránh được ư?” Ngài cương-quyết ngồi tại trượng-đường, không chạy. Ngài bị giặc hại.
Vô-Cấu Cư-sĩ viết bài bạt trong bộ Pháp-Ngữ của Ngài rằng: “Ham sống sợ chết là thường tình của con người. Chỉ có bậc chí-nhân hiểu lẽ bản-lai là bất-sinh, nên tuy sống mà không ham-thích; suốt lẽ bản-lai là bất-diệt, nên dù chết không sợ hãi. Cho nên, khi lâm vào tử-sinh, họa-hoạn mà không dời cái đạo của mình vẫn giữ, Thiền-Sư là hạng người này vậy! Đem đạo-đức, tiết-nghĩa của Thiền-Sư mà thực-hiện, cũng đủ để giáo-hóa tùng-lâm, làm khuôn thước cho đời sau. Thiền-Sư tên là Chính-Đạo, người ở Đan-Lăng, Mi-châu và nối pháp ngài Phật-Giám”.
246.- THIỀN BỆNH
Tâm-Văn-Bí Hòa-Thượng [211] nói: Tăng-sĩ nhân học Thiền mà lại mắc bệnh nhiều. Có người mắc bệnh tai mắt, lấy giương mi, quắc mắt, ghé tai, gật đầu làm thiền. Có người mắc bệnh khẩu-thiệt, lấy nói năng điên-đảo, quát tháo hồ-loạn làm thiền. Có người mắc bệnh tay chân, lấy tiến trước, lùi sau, chỉ Đông, vẽ Tây làm thiền. Có người mắc bệnh tâm-phúc, lấy sự nghiên-cứu cùng-tận sự huyền-diệu, vượt tình-thức, lìa kiến-giải làm thiền. Cứ thực mà bàn thì tất cả đều là bệnh.
Chỉ có những vị tôn-sư, tự thấy rõ sắc-tướng bản-lai chân-thực không giả và xét rõ tới căn-cơ vi-tế mới là thực-chứng. Vì vậy, tôn-sư vừa trông thấy người kia, đã biết rằng người kia lãnh-hội được hay không lãnh hội được thiền-chỉ. Và, người này vừa vào nhà Thiền, tôn-sư đã phân-biện được rằng người này đến hay không đến được cửa liễu-ngộ của Thiền-gia. Sau đó, đối với người chưa lãnh-hội, chưa tới cửa liễu-ngộ, tôn-sư mới dùng một hình-thức nào đó, như lấy cái dùi hay cái móc nhọn, chích vào thân thể cho bừng-tỉnh, làm cho những hoặc-nghiệp ly-ty triền-miên trong tâm-thức thoát xuất và, những kết sử ngưng đọng không thông đều phá vỡ! Tiếp đến, nghiệm chỗ sở-đắc chân, giả của họ, định chỗ sở hành hư, thực của họ. Và, nếu chưa đúng, cần phải dùng các phương-tiện khác, chứ không phải cố giữ một phương-tiện, làm mê-mờ sự biến thông trong việc lợi người. Cứu-cánh là khiến cho người tham thiền bước trên cảnh-giới an-lạc vô sự, mới thôi.
247.- ANH KIỆT
Ngài Tâm-Văn nói: Cổ nhân nói: Góp tú khí của nghìn người vào một mình gọi là ANH. Góp anh tài của vạn người vào một mình gọi là KIỆT. Những Tăng-sĩ có tiếng là trí-tuệ, đức hạnh, được nghe thấy ở trong tùng-lâm, há không phải là những vị gần như bậc anh kiệt ngoài đời sao? Song, chỉ cần siêng-năng tham-cứu, bỏ cái hư-giả, lấy cái chân-thực, là đều có thể tùy cơ đắc dụng. Như thế, thì tu viện không cứ lớn nhỏ, chúng-nhân không cứ nhiều ít, đều có thể noi theo sự giáo-hóa được.
Xưa kia, ngài Phong-Huyệt [212] đến đất Bạch-Đinh, ngài Dược-Sơn đến núi Ngưu-Lan, ngài Thường-Sơn [213] đến núi Đại-Mai, ngài Từ-Minh đến đất Kinh-Sở, trong lúc các Ngài chưa gặp thời, những bọn tầm thường lơ-mơ, nếu lấy địa-vị, dung-mạo các Ngài mà tìm hiểu, tất nhiên khi họ thấy các Ngài, họ sẽ khinh-khi các Ngài. Nhưng, một mai các Ngài ngồi vào chiếu sư-phạm, lên tòa bảo-hoa, thì hàng vạn người vây quanh, phát-minh ánh sáng của Phật-Tổ trong đời mạt-pháp. Khi ấy, các nơi tùng-lâm đều tòng phục như gió lướt cỏ rạp.
Bậc tiền-bối đều có sẵn trong người tài-năng kỳ-vĩ, chí-khí anh-kiệt, còn phải lận-đận ở trong lúc chưa gặp thời, phải ngậm chịu sự thẹn-hổ nhẫn-nhục điều người khinh, cùng ngụp lặn trong dòng sóng, cùng lẫn-lộn trong cuộc đời như thế, huống là xuống đến hạng không tài-đức này ư?
Ôi, người xưa cũng như người nay, đời này cũng như đời khác, nếu phải đợi ngài Dược-Sơn, ngài Phong-Huyệt làm thày, thì nghìn năm mới gặp được. Và, nếu phải đợi ngài Đại-Mai, ngài Từ-Minh làm bạn, thì trăm đời mới có. Việc, có từ vi-tế đến rõ rệt, công, góp từ nhỏ mà thành lớn. Chưa thấy ai không học mà thành, không tu mà đạt. Nếu hiểu lý ấy thì tìm được thày, chọn được bạn, học được đạo, tu được đức. Như thế, những việc trong thiên-hạ làm gì mà không được. Cổ-nhân nói: Biết người thực khó, thánh-nhân còn lo, huống là người khác ư?
248.- BIỆT TRUYỀN
Ngài Tâm-Văn nói: Đạo của giáo ngoại biệt truyền[214] rất giản-lược, rất thiết yếu. Lúc ban đầu, không có thuyết gì khác, mà bậc tiền-bối thực-hành không ngờ-vực và giữ gìn không thay đổi.
Vào khoảng đời Tống-Chân-Tôn, niên-hiệu Thiên-Hy, ngài Tuyết-Đậu dùng tài biện-bác, đem ý đẹp biến thành khi-lộng, bằng cách hướng theo ý cổ-nhân, tìm mới, giũa khéo, nối nghiệp ngài Phần-Dương làm tụng cổ, lung-lạc học-giả đương thời. Tông-phong do đó bị một lần biến đổi.
Đến khoảng đời Tống-Huy-Tôn, niên-hiệu Tuyên-Chính, Viên-Ngộ Thiền-Sư lại xuất theo ý mình tách ra làm Bích-Nham-tập[215]. Thời đó, có những bậc thuần-toàn có thể hơn cổ-nhân như ngài Đạo-Ninh[216], ngài Tử-Tâm, ngài Linh-Nguyên, ngài Phật-Giám, các vị Trưởng-lão này, đều không thể kéo lại được thuyết bình-xướng kia. Vì, đối với pháp-môn tân-tiến ấy, những người hậu-sinh rất quý-trọng, sớm tụng, tối tập, cho là học-thuyết rất hay, mà không có ai biết nó là trái. Đau-khổ thay, tâm thuật người học đạo bị bại-hoại!
Đời Tống-Cao-Tôn, niên-hiệu Thiệu-Hưng năm đầu, ngài Phật-Nhật[217] vào đất Mân(Phúc-Kiến), thấy người học đạo bị hấp-lực của tập Bích-Nham, không sao kéo họ trở lại theo cũ được. Ngày tháng rong-ruổi, dần dần thành tệ. Ngài liền đập nát ván in của tập Bích-Nham và từ bỏ thuyết ấy. Ngài còn khai-thị, bỏ sự mê-chấp của học-giả, cứu vớt học-giả bị chìm-đắm vào thuyết ấy, tước bỏ sự phiền toái, nén dẹp ý còn mạnh, tồi tà hiển chính, khiến cho đạo của giáo ngoại biệt truyền lại được chấn-hưng một cách đặc biệt. Lúc này các Tăng-sĩ hơi biết chỗ trái của tập sách kia, mà không mến mộ nữa. Trước hoàn-cảnh ấy, nếu không phải là ngài Phật-Nhật có kiến thức cao-xa sáng suốt, theo sức bi-nguyện cứu tệ thời mạt-pháp, thì tùng-lâm đã bị một việc rất đáng sợ hãi vậy!
249.- CHÂN - TƯỚNG
Chuyết-Am, Phật-Chiếu, Đức-Quang Hòa-Thượng[218] khi mới tới tham học ngài Tuyết-Đường ở chùa Tiến-Phúc, có người xem tướng chợt thấy Ngài, liền đoán là bậc đại-khí. Họ liền nói với ngài Tuyết-Đường: Trong chúng có Đức-Quang Thượng-Tọa, đỉnh đầu phương chính, trán rộng cằm đầy, bảy nơi[219] bình-mãn, ngày kia hẳn là bậc thày của đế-vương. Đời vua Hiếu-Tôn, niên-hiệu Thuần-Hy năm đầu triệu Ngài vào kinh hỏi đạo, Ngài ứng đối hợp ý, nhà vua lưu Ngài tại Nội-Quán-đường bảy đêm, đãi-ngộ Ngài một cách ưu-ái, kỳ-dị, vượt quá lễ nghi thông thường của nhà vua từ trước tới nay và, ban cho Ngài bảo-hiệu là Phật-Chiếu từ đó tiếng Ngài đồn khắp thiên-hạ.
250.- ĐẠO-BẢN
Ngài Chuyết-Am nói với Thừa-Tướng Ngu Doãn-Văn[220]: “Đại-đạo rỗng không, bản-lai không phân-biệt ngu, trí. Ví như ông Y-Doãn[221], ông Lã-Vọng[222] là người cày ruộng, câu cá mà làm thày đế-vương, há có thể lấy trí, ngu mà so-sánh chăng? Tuy nhiên không phải là bậc đại-trượng-phu, ai sánh dự được!”
251.- THƯỜNG NHƯ
Ngài Chuyết-Am nói: Ngài Tuyền-Dã-Am[223] thường nói: Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư là người khoan-hậu, trung-tín, cung-kính mà từ-ái, độ-lượng lặng-lẽ nhưng xa-xôi. Ngài học rộng nghe nhiều. Ngài thường cùng ngài Vân-Phong-Duyệt đi hành-cước tại Hồ-Tây (Tương-Âm). Một hôm hai Ngài tránh mưa dưới gốc cây. Duyệt Thiền-Sư thì ngồi xổm đối diện còn Nam Thiền-Sư thì ngồi nghiêm. Duyệt Thiền-Sư quắc mắt trông và nói: Diệu-đạo của Phật-Tổ không phải là ông thần thổ-địa trong miếu cổ của một thôn nhỏ có ba gia-đình, mà ông làm như mô-dạng người chết vậy. Nam Thiền-Sư cúi đầu tạ lễ và càng ngồi nghiêm hơn. Vì vậy, Hoàng-Thái-Sử Lỗ-Trực khen: Nam Thiền-Sư động tĩnh không quên cung kính, thực là vị chủ tùng-lâm vậy.
252.- TRÍ GIÁC
Ngài Chuyết-Am nói: Đem thân tới đại-chúng, cần lấy trí-tuệ làm đầu. Đuổi vọng-tưởng trừ tình-thức, phải lấy giác-chiếu làm trước. Bội giác hợp trần thì tâm bị che mờ. Trí, ngu không phân thì việc bị rối loạn.
253.- TRÍ LƯỢNG
Ngài Chuyết-Am nói: Khi ngài Phật-Giám trụ-trì chùa Thái-Bình, ngài Cao-Am sung chức Duy-Na. Ngài Cao-Am tuổi tuy còn nhỏ, nhưng chí-khí hào-hùng, coi rẻ chư phương tôn-túc, tựa như ít có người vừa ý mình. Một hôm Ngài đánh kiền-trùy thụ trai. Ngài trông thấy thị-giả bưng một bát ăn riêng để trước ngài Phật-Giám. Ngài Cao-Am ra trước Tăng-đường nói lớn: Ở đây có năm trăm vị Tăng, thiện-tri-thức làm việc ấy như thế, lấy gì làm mô-phạm cho hậu học? Ngài Phật-Giám như không nghe thấy, vội xuống nhà hỏi, mới biết bát đồ ăn ấy là món rau thủy-tê. Vì ngài Phật-Giám có bệnh đau lá-lách, không ăn được dầu, nên phải dùng món rau ấy. Ngài Cao-Am có sắc thẹn, tới trước nhà phương-trượng cáo lui. Ngài Phật-Giám nói: Duy-Na nói rất chính đáng, vì Huệ-Cần – tức Phật-Giám này – có bệnh, nên mới thế thôi. Tôi thường nghe thánh-nhân nói: “Dùng lý làm thông mọi sự chướng-ngại”. Nay món ăn của tôi không hơn chúng, thì đối với chúng không có gì là ngờ-vực. Duy-Na chí-khí cao minh, xa rộng, ngày sau ông sẽ là trụ-thạch của tông-môn. Tôi mong rằng ông đừng lấy việc nhỏ-nhặt này làm nghịch ý.
Đến khi ngài Phật-Giám dời về chùa Trí-Hải, ngài Cao-Am qua chùa Long-Môn và, sau ngài Cao-Am nối pháp ngài Phật-Nhãn.
254.- LUẬN ĐẠO
Ngài Chuyết-Am nói: Đại phàm, cùng luận đạo, thù-tạc với các quan-chức, cần phải gạt bỏ sự hiểu biết của họ, đừng để họ ngồi yên trong hang tổ. Nên đem ngay một vấn-đề gì hướng đến chỗ phát-minh cho họ một cách rõ-rệt. Diệu-Hỷ tiên-sư thường nói: Khi tương-kiến cùng các sĩ, đại-phu, họ hỏi thì đáp ngay, không hỏi thì không đáp. Và, khi đàm luận, cần biết họ là người trong đạo, mới nên nói chuyện về những điều có lợi cho đạo. Lời nói ấy, có bổ ích cho thời nay và, không hại đến đại-thể trụ-trì. Nên suy nghĩ kỹ!
255.- BẢO DƯỠNG
Ngài Chuyết-Am nói: Đất tốt nuôi tốt cây. Người chủ có nhân-từ hay bảo-dưỡng được các trí-sĩ. Nay xưng là trụ-trì, phần nhiều không đem tâm nhân-ái bảo-trì chúng-nhân, mà chỉ vội làm việc cho sự ham muốn của mình. Ghét nghe lời nói phải, ưa che-dấu lỗi xấu, mặc sức làm tà-hạnh và, buông thả theo ý vui sướng nhất thời của mình. Do đó, bị bọn tiểu-nhân nắm lấy sự ưa, ghét của mình để ép bức, thì đạo trụ-trì há không bị nguy sao?
256.- HIỂN – LỘ
Ngài Chuyết-Am nói với ngài Dã-Am: Thừa-Tướng Tử-Nham Cư-sĩ nói: Diệu-Hỷ tiên-sư bình-sinh lấy đạo-đức, tiết-nghĩa, dũng-cảm làm trước. Nên thân, không nên sơ. Nên gần, không nên xa ép. Nên giết, không nên làm nhục. Cư-xử không phóng-đãng, ăn uống không nồng hậu. Và, tới họa-hoạn, sinh-tử coi như không. Sự thao-trì của ngài Diệu-Hỷ như thế, chính như Hiếu-Tử truyện nói: “Can-Tương, Mạc-Da[224] khó tranh-phong với nhau được”. Song, sợ có tai-hoạn bất-trắc làm thương-tổn. Sau này, đúng như lời Tử-Nham Cư-sĩ nói.
257.- PHỤ TÁ
Ngài Chuyết-Am nói: Ngài Dã-Am làm trụ-trì, thấu suốt trước, sau của nhân-tình, hiểu rõ đại-thể của tùng-lâm. Ngài thường nói với tôi: Làm chủ một phương, phải chọn hàng Tăng-sĩ có chí-hạnh làm phụ-tá, tán-trợ mới được. Cũng như tóc phải có lược, mặt phải có gương, thì lợi, hại, tốt, xấu không thể giấu được. Như ngài Từ-Minh được ngài Dương-Kỳ, ngài Mã-Tổ được ngài Bách-Trượng, khác gì múc nước đổ vào nước không nghịch nhau vậy.
258.- TRIỆT ĐỂ
Ngài Chuyết-Am nói: Thời mạt-pháp, người tham-học chỉ học phần ngọn và lãnh-thụ phần da mà thôi. Họ chỉ quí tai nghe, còn mắt thì lười xem đọc. Cứu-cánh là họ không nghiên-cứu được tới chỗ sâu xa, vi-diệu của sự học. Cho nên, có chỗ nói: “Núi không chán cao, nên ở trong có nhiều hang và gom góp nhiều phong cảnh u-kỳ. Biển không chán sâu, nên lòng biển thu-nạp được nước bốn phương, chín vực. Người muốn nghiên-cứu đại-đạo, cần phải xét tới chỗ cùng cực của lẽ cao sâu, sau mới có thể soi sáng chỗ u vi và ứng-biến không cùng vậy.
259.- LÝ SỰ
Ngài Chuyết-Am nói với Vưu-Thị-Lang: Bản-ý thánh-hiền thanh-thản mà lý sáng, thung-dung mà sự tỏ. Dụng sự không mong chóng thành, mà hứa hẹn giữ chí lâu bền, không hứa hẹn quyết tiến thắng, mà hứa hẹn sự có thể. Nếu dụng công được như thế và suy tường được bản-ý thánh-hiền, thì có thể giữ-gìn được suốt muôn đời mà không bị sai lầm.
260.- NHÂN QUẢ
Thị-Lang, Vưu-Công nói: Bản-ý của Tổ-Sư trước đây, vốn không lập ra sự trụ-trì. Nhưng, sau này vì sự ứng thế, hành-đạo, bất đắc dĩ mà phải có. Song, các Ngài ở bằng nhà lá, nhà cỏ để che đỡ gió mưa, ăn bằng cơm gạo thô, cho đỡ bệnh đói. Tân-khổ, tiều tụy, coi như có sự lo-lắng, không thể chịu nổi, nhưng vương công đại-nhân tới, mong được yết-kiến mà không được. Cho nên, các Ngài lập ra sự việc gì, đều là những sự việc lỗi-lạc, kinh thiên động địa.
Đời sau thì không thế, nhà cao, cửa rộng, áo đẹp, cơm ngon, hất hàm chỏ tay như ý. Khi ấy, bọn ma Ba-tuần[225] mới dương-dương động tâm-thức, ngấp-nghé đến cửa quyền quý, vẫy đuôi xin thương. Tệ hơn nữa, họ còn dùng mọi chước khéo để chiếm lấy, cậy thế-hào để cướp đoạt, như kẻ ăn cắp vàng giữa ban ngày[226] mà họ không biết thế gian này cũng có nhân-quả.
Lá thư này của ngài Diệu-Hỷ, há chỉ viết riêng cho ngài Bác-Sơn, mà Ngài nhắc hết những tập-khí từ các nơi lại; không sót mảy may, như người uống nước thượng chì của Thương-Công[227], thấy suốt được đến gan phổi người ta. Nếu ai tin tưởng, lãnh-thụ và vâng làm lời ngài Diệu-Hỷ, bất tất phải tìm cầu riêng biệt về giáo pháp của chư Phật.
261.- KHIÊM CUNG
Thị-Lang, Vưu-Công nói với ngài Chuyết-Am: Xưa kia, ngài Diệu-Hỷ là vị trung-hưng đạo-pháp của tôn Lâm-Tế, trong lúc đang tàn-lụi. Tính Ngài chuộng sự nhún nhường, thanh-hư. Chưa bao giờ Ngài cậy mình và theo đuổi sự biện-luận để chiếm lẽ phải về mình. Bình-sinh, Ngài không xu-phụ quyền thế, không cầu lợi-dưỡng. Ngài thường nói: Vạn sự không thể làm được, bằng cách túng tình, thỏa ý, mà phải bằng sự cần-lao; không thể giữ thói xa-hoa, kiêu-ngạo, mà phải tiết-kiệm. Vì, thế-sự nhiều lối, có việc lợi đối với thời; tiện đối với vật và cũng có việc chỉ làm thêm lỗi-lầm mà không có công gì. Nếu phóng-túng xa-hoa vui sướng, thì không thành được. Kẻ bất-tiếu nên kính-phục và mang giữ lời nói ấy, làm điều răn trọn đời.
Ngày trước, lão-sư may gặp Chúa-thượng ban ân, nghỉ lại tại Nội-quán-đường, thực là cái may cho Phật-pháp. Tha-thiết mong rằng Ngài không quên tâm bi-nguyện, khiến cho con đường tiến thiện được khai-minh, con đường trông coi việc chúng càng lớn, ngõ hầu, làm cho những kẻ hậu-sinh, vãn-bối không mưu-tập việc nhỏ, gần, mà đều ôm ấp vào mưu đồ xa rộng. Như thế, há không phải là việc lợi-tế cho tùng-lâm sao!
262.- HUÂN-TẬP
Mật-Am-Kiệt Hòa-Thượng[228] nói: Tùng-lâm hưng, suy do ở lễ-pháp. Người học tốt, xấu do tại tập tục. Cổ-nhân ở tổ, ở hang, uống nước suối, ăn cỏ cây, nếu đem những việc ấy thực-hiện cho thời nay thì không được. Người thời nay, mặc áo đẹp văn-vẻ, ăn cơm ngon, đồ béo, nếu đem những việc ấy thực-hiện cho đời xưa cũng không được. Có gì khác chăng? Chỉ do tập hay không tập mà thôi. Sự thấy, nghe của người ta, từ buổi sớm đến buổi chiều, cho là sự thường và quyết cho là việc thiên-hạ, chính hợp với lẽ đương nhiên như thế. Nhưng, một ngày kia, có người sai khiến họ làm việc nọ bỏ việc này không những họ sinh tâm ngờ vực không tin, mà họ sẽ không theo là khác. Dùng việc ấy mà quan-sát, nhân-tình muốn đặt yên ở chỗ đã tập lúc bình-thường và kinh-hãi sự chưa thấy, chưa nghe. Đó là thường tình, có gì là lạ!
263.- KIẾN ĐẠO
Ngài Mật-Am nói với Ngộ Thủ-Tọa[229]: Trong Tùng-lâm này, tôi thấy chỉ có một số các vị người Triết-Giang, có tính khinh thường, nhu-nhược, ít ai lập chí cao xa. Ông tuy cũng là người miền Triết-Giang, nhưng tài-khí rộng lớn, lượng độ uyên-dung, chí-hướng ngay thực và chỗ kiến đạo của ông ổn-mật. Do đó, ngày kia ông xiển-dương đạo-pháp, dễ ai so-sánh và nói bàn tới được. Song, ông tự nên ẩn-tránh, đừng lộ khuê-dác, hủy hình vuông mà hợp vào cùng với ngói vụn, giữ-gìn trung-đạo và đừng để thế-lợi làm uổng-khuất chút nào. Nếu được như thế, tức là không ra khỏi cõi trần-lao mà làm Phật-sự vậy.
264.- HAY DỞ
Ngài Mật-Am nói: Ứng-Am tiên-sư thường nói: Người hiền, kẻ bất-tiếu trái ngược nhau, không thể không lựa chọn. Người hiền giữ đạo-đức, nhân-nghĩa để lập thân. Kẻ bất-tiếu chuyên cầu thế, lợi, trá-nịnh để dụng sự. Người hiền khi đắc chí, quyết làm theo chỗ học được của mình. Kẻ bất-tiếu ở vào địa-vị nào, cũng chuyên nhiều về việc làm riêng theo lòng mình. Họ ghét người hiền, ghen người có tài, ham muốn cầu lợi và không việc gì là không làm. Cho nên, được người hiền thì tùng-lâm hưng-thịnh. Dùng kẻ bất-tiếu thì tùng-lâm phế-hủy. Có một kẻ bất-tiếu ở trong ấy, quyết-định tùng-lâm không được an-tĩnh!
265.- ĐỪNG NÊN
Ngài Mật-Am nói: Trụ-trì có ba điều đừng nên: Việc nhiều đừng sợ. Vô sự đừng tìm. Phải trái đừng bàn. Người trụ-trì đạt được ba điều ấy, thì không bị ngoại-vật mê-hoặc.
266.- ĐÁNG GHÉT
Ngài Mật-Am nói: Tăng-sĩ thường làm việc khuynh-tà, xưa nay vẫn có những hình tích bất-thiện, mà trong tùng-lâm ai cũng biết, nhưng người ấy chưa đáng ghét. Chỉ có người mà chúng-nhân ai cũng cho là hiền mà trong tâm thực bất-tiếu, người ấy mới thực đáng ghét.
267.- NHẪN NHỤC
Ngài Mật-Am nói với ngài Thủy-Am: Người ta có hủy nhục mình, mình nên thuận nhận, đừng nên khinh thường và vừa nghe người ta nói đã vội vàng tỏ bày ý-tưởng của mình. Đó là những thức-kiến nhỏ mọn, như cầm ống mà dòm trời vậy.
Đại-để, bọn nịnh-hót có bè-đảng, có nhiều phương-pháp tà-sảo. Họ hay mang tâm nham-hiểm bất bình, ưa thả mặc cho lòng riêng tư, thường khởi ra ý-nghĩ ngờ-vực, ghen ghét, thiên vị, mà bỏ cả lời bàn luận công-chính. Vì xu hướng của bọn chúng hẹp-hòi, kiến thức ám-đoản, nhưng chúng vẫn tự cho chúng là khác người, không cần quần-tụ với ai. Chúng phá được những sự công-nghị, chúng cho là hơn người. Chúng chỉ biết chỗ dụng sự của chúng, chúng cho là hoàn-toàn phải và chúng vẫn cho người khác là trái, là tự hủy-báng.
Tất cả mọi chuyện, lâu dần sẽ tự sáng tỏ, không cần phải biện-bạch và, cũng bất tất cho lẽ phải về mình, mà phải cật-vấn để va-chạm đến người khác. Như thế, khả dĩ làm đạo-nhân ở chốn lâm-hạ được!
268.- CHÍ THÀNH
Tự-Đắc-Huy Hòa-Thượng[230] nói: Đại phàm, Tăng-sĩ chí-thành hướng về chính-đạo, dù ngu cũng dùng được. Kẻ nịnh, mang lòng tà, dù trí, sau cũng làm hại. Đạo-nhân ở chốn lâm-hạ, giữ tâm bất-chính, dù có tài-năng, sau cùng cũng không thể lập thân, lợi đạo được.
269.- CHÍNH QUI
Ngài Tự-Đắc nói: Đại-Trí Thiền-Sư đặc biệt sáng-chế thanh-qui để cứu gỡ tệ-bệnh bất-chính của các Tỳ-Khưu thời mạt-pháp. Do đó, các bậc tiền-hiền tuân-thừa răm-rắp vâng làm. Và, làm có giáo-hóa, có điều-lý, có thủy-chung.
Cuối niên-hiệu Thiệu-Hưng, đời Tống-Cao-Tôn, tùng-lâm còn có các bậc lão-thành, giữ được điển-hình của tiên-thánh, không dám dời bỏ điều này hay điều nọ trong giây lát. Nhưng, mấy năm gần đây, tùng-lâm mất hết tôn-ty, trật-tự, cương không ra cương, kỷ không ra kỷ. Mà dù có cương-kỷ đi nữa, nhưng đâu được chân-chính như thời ngài Bách-Trượng. Cho nên, có chỗ nói: Chủ-pháp nhắc một giềng lưới lên, thì trăm mắt lưới đều mở. Và, bỏ một cơ thì muôn sự đều hỏng. Nguy vậy, cương-kỷ không chấn-hưng, thì tùng-lâm không hưng-vượng!
Chỉ có cổ-nhân xét gốc để chính ngọn. Các Ngài chỉ lo pháp-độ không nghiêm, chứ không lo người học đạo mất chỗ hành trì. Và, sự chính ấy do nơi công-minh mà thôi. Nay người làm chủ ở các nơi, đều đem tư-tâm lẫn-lộn vào việc công, lấy ngọn chính cho gốc. Người trên cầu lợi không dùng đạo, thì người dưới cướp lợi không dùng nghĩa. Trên dưới rối loạn, khách chủ lộn xộn, làm sao các Tăng-sĩ hướng theo chính-đạo và tùng-lâm hưng-thịnh được?
270.- DỤNG SỰ
Ngài Tự-Đắc nói: Ngọc quí, khi chưa bổ trong đá ra, thì khác gì ngói đá. Ngựa ký, khi chưa chạy, thì cùng lẫn lộn với ngựa nô. Đến khi bổ đá ra thấy ngọc sáng, khi chạy thấy ngựa giỏi, thì ngọc, đá, ngựa ký, ngựa nô, phân-biệt.
Hàng Tăng-sĩ hiền đức khi chưa dụng sự, lẫn-lộn trong chúng đông người, làm sao biện-biệt được. Nhưng, cốt ở các bậc cao-minh, cùng công-luận đề-cử. Nhận chức-sự, nghiệm tài-năng và kiểm-trách trong công việc thành-tựu, thì thấy rõ là các Tăng-sĩ này sẽ không cùng với bọn dung-lưu, rất xa vậy.
271.- ĐẦU CƠ
Hoặc-Am-Thể Hòa-Thượng[231], khi mới tới tham học nơi Thử-Am, Cảnh-Nguyên Thiền-Sư ở chùa Hộ-Quốc, núi Thiên-Thai. Nhân khi lên pháp-đường, Ngài đem bài “Tuyển Phật Trường” của Bàng-Cư-sĩ và ngài Mã-Tổ[232] ra hỏi. Đến câu: “Đây là trường tuyển Phật”, ngài Thử-Am quát lên một tiếng, ngài Hoặc-Am đại-ngộ. Liền đó, ngài Hoặc-Am làm bài tụng ĐẦU-CƠ như sau:
Thương lường cực xứ kiến đề-mục,
Đồ lộ cùng biên nhập thí-trường.
Niêm khởi hào-đoan phong vũ khoái,
Giá hồi bất tác Thám-Hoa lang!
Phỏng dịch:
Đầu đề rõ-rệt, khéo suy lường!
Trót-lọt đường đi tới thí-trường.
Ngọn bút tung bay, mưa gió cuộn,
Lúc này đâu hám Thám-Hoa lang!
Từ đó, Ngài ẩn-dật nơi núi Thiên-Thai. Thừa-Tướng Tiền-Công[233], mến Ngài là người đạo-đức, thỉnh Ngài trụ-trì chùa Thiên-Phong và khuyên Ngài ứng thế. Ngài Hoặc-Am nghe biết việc ấy, Ngài nói: “Tôi không cổi dây treo đầu dê, bán thịt chó!” Ngay đêm hôm ấy Ngài trốn mất.
272.- VĂN Ý
Đời Tống-Hiếu-Tôn, niên-hiệu Càn-Đạo năm đầu, ngài Hạt-Đường[234] trụ-trì chùa Quốc-Thanh. Nhân thấy ngài Hoặc-Am viết bài tán vào tượng ngài Viên-Thông như sau:
Bất y bản phận,
Não-loạn chúng-sinh.
Chiêm chi, ngưỡng chi,
Hữu nhãn như manh.
Trường-An phong nguyệt quán kim, tích,
Ná cá nam-nhi mô bích hành!
Phỏng dịch:
Sao chẳng y theo bổn-phận mình,
Còn làm náo-loạn cả quần-sinh?
Kìa ai, chiêm-ngưỡng chân-dung đó?
Có mắt như lòa thực chẳng minh!
Xưa nay phong-nguyệt Trường-An thỏa,
Vách nọ làm chi vẽ dáng hình!
Ngài Hạt-Đường mừng và sợ, nói: Không ngờ ngài Thử-Am lại có người đệ-tử này! Ngài liền đi tìm khắp mọi nơi, và sau tìm thấy ngài Hoặc-Am ở chùa Tiêu-Sơn miền Giang-Tây. Ngay trong chúng đông-đảo, ngài Hạt-Đường cung thỉnh ngài Hoặc-Am lên ngôi vị đệ-nhất của tùng-lâm.
273.- HỢP DUYÊN
Đời Tống-Hiếu-Tôn, niên hiệu Càn-Đạo, năm đầu bỗng dưng ngài Hoặc-Am tới thăm ngài Hạt-Đường ở chùa Hổ-Khâu. Chư Tăng và Cư-sĩ ở thành Cô-Tô, nghe biết cao-phong của Ngài, liền tới đây thăm và thỉnh Ngài trụ-trì chùa Giác-Báo trong thành. Ngài Hoặc-Am nghe lời mời của chúng-nhân, Ngài nói: Thử-Am tiên-sư tôi trước khi Ngài thị-tịch có dặn tôi: Ngày sau nếu gặp chùa Lão-Thọ thì ở. Nay nếu khế-hợp với lời dặn xưa, thì tôi vui vẻ ứng-mệnh.
Chùa Giác-Báo xưa tên là Lão-Thọ-Am.
274.- ĐẠO VÀ SỰ
Sau khi ngài Hoặc-Am nhập-viện - tức trụ-trì chùa Giác-Báo, các thí-chủ thỉnh Ngài thuyết-pháp. Ngài nói: “Đạo, từ trước tới nay vẫn không phai mờ. Sự, có tệ-bệnh tất nhiên phải biến đổi. Xưa kia, các Tổ ở Nam-Nhạc, miền Giang-Tây, có làm gì đều xét-nghiệm lời dạy của cổ-nhân, xem rằng việc ấy, nên hay không nên làm. Các Ngài giữ đúng mức trung-đạo, chuyên hợp nhân-tâm và lấy giác-ngộ làm pháp-tắc. Cho nên, phong-cách thuần-tố của các Ngài vẫn như xưa và đến nay chưa mất được. Nếu chừng nào những môn-hạ của bần-tăng này, trước câu nói mà tiến-chứng được, đó là người đã khuất-phục nơi tông-phong tôi vậy! Và, nếu người nào, cuối câu nói mới phân-minh, thì người đó đã chôn chìm Phật-Tổ vậy! Tuy thế, nhưng nếu ai đi được đến chỗ cùng tận của bến nước, thì khi ấy và người ấy cũng ung-dung ngồi xem mây nổi vậy”!
Tăng, tục nơi đây rất mừng được nghe những điều chưa được nghe bao giờ và quay về theo Ngài rất đông như họp chợ vậy.
275.- XƯỚNG HỌA
Khi ngài Hoặc-Am đã lĩnh chức Trụ-trì chùa Giác-Báo, thì quan chức, thứ-dân tới qui-y Ngài tấp-nập. Các Tăng-sĩ truyền tin ấy tới ngài Hạt-Đường ở chùa Hổ-Khâu. Ngài Hạt-Đường rất mừng và nói đùa:
Giá cá Sơn-man đỗ-ảo tử,
Phóng phách manh-thiền.
Trị nễ!
Ná nhất đội dã-hồ-tinh!
Phỏng dịch:
Sơn-man vượt pháp, thất nhân-tình,
Buông vịn, thiền lòa, bước nhẹ-tênh.
Người ấy phải chăng nên thẳng trị!
Gọi bằng một bọn dã-hồ tinh!
Ngài Hoặc-Am nghe biết, cũng đùa viết bài kệ đáp:
Sơn-man đỗ ảo đắc năng tăng?
Lĩnh chúng khuông đồ tự bất tằng!
Việt cách đảo niêm thiều-trừu bính,
Phách manh-thiền trị dã-hồ-tăng!
Phỏng dịch:
Đáng ghét mán nầy vượt pháp chăng?
Khuông đồ lĩnh chúng dễ chưa từng!
Tay cầm cán chổi buông niêm cách,
Vịn lấy manh-thiền trị dã-tăng!
Ngài Hạt-Đường cười.
276.- THĂNG BẰNG
Ngài Hoặc-Am nói với Thị-Lang Tăng-Công-Đại: Điều quan-yếu của sự học đạo, như sự định giá lượng vật của trái cân. Nó cần phải giữ mức thăng bằng, nếu nó nghiêng hay nặng về bên nào có được không? Nó đẩy về phía trước hay gần về phía sau, đó là nó nghiêng về một bên. Hiểu rõ vấn-đề ấy, là có thể học được đạo.
277.- TƯƠNG BẢO
Ngài Hoặc-Am nói: Đạo-đức là căn-bản của tùng-lâm và, Tăng-sĩ là căn-bản của đạo-đức. Người trụ-trì chán bỏ Tăng-sĩ là quên đạo-đức. Đạo-đức đã mất thì lấy phương-pháp gì để tu-hành, giáo-hóa, chỉnh-đốn tùng-lâm và dụ-dẫn người tới học. Cổ-nhân xét gốc để chính ngọn, lo không làm được đạo-đức, chứ không lo tùng-lâm mất chỗ hoằng-trì. Cho nên, có chỗ nói: “Tùng-lâm bảo-dưỡng Tăng-sĩ và Tăng-sĩ bảo-dưỡng đạo-đức”. Trụ-trì không có đạo-đức thì tùng-lâm phế-hủy.
278.- HIỀN - ĐỨC
Ngài Hoặc-Am nói: Là thiện-tri-thức, cốt ở chỗ biết người hiền-đức, chứ không phải ở nơi mình hiền-đức. Cho nên, làm hại người hiền-đức là ngu-si, ngăn-che người hiền-đức là tối-tăm và ghét người hiền-đức là nông cạn. Được sự vinh-hiển một mình, không bằng được tiếng khen một đời. Được tiếng khen một đời, không bằng được một Tăng-sĩ hiền-đức. Vì, có Tăng-sĩ hiền-đức thì những người hậu-học có thày và tùng-lâm có chủ.
279.- THỊ-TỊCH
Ngài Hoặc-Am dời về chùa Tiêu-Sơn, đến năm này là năm thứ ba, ngày mồng bốn tháng tám, niên-hiệu Thuần-Hy năm thứ sáu, trước khi Ngài bị bệnh thường, Ngài liền viết một lá thư, kèm theo hai nghiên mực cho người đem đến vĩnh-biệt quan Quận-Thú, Thị-lang Tăng-Công. Và, đến nửa đêm hôm ấy thì Ngài thị-tịch. Ông Tăng-Công làm bài kệ kính-điếu Ngài như sau:
Thiên-thiên chích lý trục Tây-phong.
Nhất vật hồn vô bố đại trung.
Lưu hạ Đào-hoằng tương để dụng,
Lão-phu vô bút phán hư-không!
Phỏng-dịch:
Gió Tây phơi-phới chiếc dầy đi!
Túi rỗng không dung một vật gì!
Lưu lại nghiên Đào, lưu để đó!
Hư-không, đâu bút, dễ-dàng ghi!
280.- TỐ-PHẬN
Hạt-Đường-Viễn Hòa-Thượng nói với ngài Hoặc-Am: Tài-khí người ta, tự nó đã có lớn nhỏ rồi và không thể do giáo-hóa mà được. Tờ giấy nhỏ không thể gói được vật lớn. Dây ngắn không thể múc nước từ dưới giếng sâu lên được. Chim cú ban đêm, mắt nó có thể tìm bắt được con bọ chét, xét được sợi lông tơ mùa Thu, mà ban ngày dù nó có giương mắt lên cũng không trông thấy được gò, núi. Vì, chúng đã có sự phân-định từ lúc sinh-thành rồi!
Xưa kia, ngài Tĩnh-Nam-Đường[235] mong mỏi truyền đạo-pháp của phái Đông-Sơn. Ngài là người thông-minh, hiểu suốt ý-chỉ u-áo, thâm thiết rõ ràng. Nhưng, đến khi Ngài ứng-thế trụ-trì, thì đến nơi nào Ngài cũng không thể chấn hưng nổi. Một hôm, khi Viên-Ngộ tiên-sư trở về đất Thục cùng với Giác-Phạm Hòa-Thượng, ghé thăm chùa Đại-Tùy. Các Ngài thấy ngài Tĩnh-Nam-Đường điều-khiển công việc một cách đại khái, vội-vàng, sơ-sót và hàng trăm việc của Tùng-lâm đều hủy bỏ. Tiên-sư hoàn-toàn không hỏi gì. Nhưng khi về đến nửa đường, ngài Giác-Phạm nói với Viên-Ngộ tiên-sư: Ngài Tĩnh-Nam-Đường và Ngài là bạn đạo, cùng tham học với nhau, sao Ngài không có một lời khai-đạo, khuyến-tiến nào vậy? Tiên-sư nói: Ra đời lĩnh chúng, cần phải có pháp-lệnh làm trước. Ban hành pháp-lệnh do tại trí-năng. Có trí-năng hay không có trí-năng là do tố-phận của người, làm sao giáo-hóa được. Ngài Giác-Phạm gật đầu.
281.- CHÍNH
Ngài Hạt-Đường nói: Người học đạo trước tiên cần phải chính tâm, sau mới có thể chính mình và chính người. Tâm mình đã chính thì muôn vật an-định. Tôi chưa nghe thấy tâm ai đã chế-ngự được, mà thân còn loạn-động. Giáo-pháp của Phật-Tổ dạy từ trong ra ngoài, từ gần đến xa. Thanh, sắc mê-hoặc bên ngoài là bệnh của tứ chi. Vọng-tình phát-khởi ở trong là bệnh của tâm-phúc. Tôi chưa thấy ai tâm chính mà không chế-trị được vật, thân chính mà không giáo-hóa được người. Vì, nhất tâm là cội-gốc, vạn vật là cành lá. Cội-gốc chắc mạnh thì cành lá tươi tốt. Cội-gốc khô-héo thì cành lá gãy non. Người khéo học đạo, trước trị trong để chống ngoài, đừng tham ngoài để hại trong. Cho nên, hướng-dẫn người cốt ở chỗ có tâm thanh-tịnh. Muốn chính người trước phải chính mình. Tâm đã chính, mình đã sửa, mà vạn vật không theo sự giáo-hóa của mình, thì việc ấy chưa có vậy.
282.- CÓ THỜI
Giản-Đường-Cơ Hòa-Thượng[236], trụ-trì chùa Quản-Sơn, thuộc huyện Bà-Dương, Nhiêu-châu. Ngài ở đây gần hai mươi năm, ăn cơm gạo nếp với rau lê và Ngài tuyệt-nhiên không có ý tưởng về sự vinh-đạt. Ngài thường xuống núi. Một hôm, trên đường đi, Ngài nghe thấy bên đường có tiếng khóc thảm-thiết, Ngài động lòng thương, đến hỏi. Họ đáp: Cả nhà bị bệnh hàn, vừa chết mất hai người, nhà nghèo quá không có tiền sắm đồ liễm-táng. Ngài vội tới chợ mua áo quan chôn cất cho họ. Các người trong làng đều cảm-thán công-đức Ngài.
Thị-Lang Lý-Công[237] nói với các sĩ, đại-phu: Trong làng tôi có Giản-Đường-Cơ lão-sư là vị Tăng-sĩ có đạo, lại có lòng từ-huệ thương người. Nhưng, chùa Quản-Sơn nhỏ quá, không hiểu Ngài có ở lâu không? Ông liền họp ông Khu-Mật (Đô-Sát-Viện) là Uông-Minh-Viễn cùng các vị Tuyên-Phủ (Tuần-Phủ) các quận, viết thư đến quan Quận-Thú Cửu-Giang là Lâm-Công Thúc-Đạt, thỉnh Ngài về trụ-trì chùa Viên-Thông vì chùa này còn thiếu vị chủ-pháp. Ngài Giản-Đường thuận và nói: Đây là nơi thực-hành đạo-pháp của tôi! Ngài vui vẻ chống gậy tới nhận chức Trụ-trì và lên tòa thuyết-pháp.
Ngài nói:
Viên-Thông bất khai sinh-dược phố,
Đơn đơn chỉ mãi tử-miu-đầu[238]
Bất tri ná cá vô tư-toán,
Khiết trước thông thân lãnh-hãn lưu.
Phỏng dịch:
Thuốc sống, Viên-Thông chẳng mở-mang,
Đầu mèo chết bán mãi ai màng!
Nó đâu phải thứ suy-lường được,
Nhá tới, mồ-hôi toát lạnh tràn.
Tất cả Tăng, tục nơi đây nghe Ngài nói bài pháp này, ai cũng đều kinh lạ. Pháp-tịch do đây vang dội!
283.- ĐỒNG ĐẠO
Ngài Giản-Đường nói: Người xưa, tu thân trị tâm, thì cùng với mọi người cùng làm sáng đạo ấy; hưng sự, lập nghiệp, thì cùng với mọi người cùng hiển-lộ công ấy. Đạo thành công tỏ, thì cùng với mọi người cùng nêu rõ danh ấy. Vì vậy, đạo đều sáng, công đều thành và danh đều vinh.
Người đời nay, không thế. Họ chuyên làm cái đạo vị-kỷ, chỉ sợ người hơn mình. Họ không biết theo điều thiện, không biết làm việc nghĩa, vì họ tự cho họ là xa rộng hơn người. Họ chuyên lập công cho mình, không muốn người có công và không biết dùng người hiền-năng, vì họ tự cho họ là lớn hơn người. Họ chuyên tạo danh cho mình không muốn có danh chung cùng mọi người và, không biết khiêm-nhường ánh quang-minh nơi mình để hướng-dẫn người, vì họ tự cho là họ thông-đạt hơn người. Cho nên, đạo không thể tránh được sự che lấp, công không thể tránh được sự tổn-hại và danh không thể tránh được sự nhục-nhã. Đó là sự phân-biệt lớn lao giữa những người học xưa và nay vậy.
284.- ĐẠI NGHIỆP
Ngài Giản-Đường nói: Học đạo cũng như người trồng cây. Cây vừa tốt đã chặt, chỉ có thể làm củi đun. Cây sắp lớn đã chặt, chỉ có thể làm dui mè. Cây hơi mạnh đã chặt, chỉ có thể làm kèo cột. Và, cây lớn già mới chặt, thì làm được rường nóc. Như thế, há không phải dụng công nhiều mà được lợi lớn chăng!
Cho nên, cổ-nhân chỉ thấy đạo rộng lớn, mà không hẹp-hòi, chỉ lập chí sâu xa mà không thiển-cận, chỉ lập ngôn cao-trọng mà không ty-tiểu, mặc dù có những lúc bị lận-đận, khốn cùng vì đói rét hay bỏ xác nơi gò, hang. Thân xác mất đi nhưng để lại đạo phong, công-liệt suốt trăm nghìn năm không mất và người đời sau còn lấy đó làm pháp-tắc lưu-truyền.
Giả-sử, nếu thấy đạo một cách nhỏ hẹp để tạm dung thân, lập chí thiển-cận để cầu hợp ý người, lập ngôn ty-tiểu để phụng-sự quyền thế, thì sự lợi-ích ấy chỉ vinh-hiển cho một mình, làm sao còn có những ân-huệ phổ-cập cho đời sau được!
285.- TƯƠNG ĐẦU
Vào tháng tư năm thứ năm niên-hiệu Thuần-Hy, ngài Giản-Đường từ Cảnh-Tinh-Nham, núi Thiên-Thai, trở lại chùa Ẩn-Tĩnh. Ông Ngô-Công-Phí, xưa làm Cấp-Sự, đang ẩn-dật, dưỡng lão ở Hưu-Hưu-Đường. Ông họa theo vần thơ của Đào-Uyên-Minh để tiễn chân ngài Giản-Đường, gồm mười ba thiên như sau:
1.- Ngã tự qui lâm hạ, Dĩ dữ thế tương sơ.
Lại hữu thiện-tri-thức, Thời năng quá ngã lư.
Bạn ngã thuyết đạo-thoại, Ái ngã độc Phật-thư.
Ký vi nham thượng khứ, Ngã diệc vi cao-xa.
Tiện dục triển ngã bát, Tùy sư đồng phạn sơ.
Thoát thử trần-tục lụy, Trường dữ nham thạch cư.
Thử nham cố cao hỹ, Trác xuất sơn hải đồ.
Nhược tỷ ngô sư cao, Thử nham hoàn bất như!
Phỏng dịch:
Từ khi về dưới rừng, Tôi với đời cùng xa.
May có thiện-tri-thức, Thời thường vẫn qua nhà.
Mến tôi đọc sách Phật, Nói chuyện đạo bao la.
Khi trở về động cũ, Tôi cùng theo chân qua.
Cơm chay cùng thụ-dụng, Thêm ý-vị đậm-đà.
Thoát khỏi vòng tục-lụy, Hang này mãi cùng ta!
Hang cao, cao cao thật, Hơn bức tranh sơn hà.
So-sánh đạo sư cao, Thì đây còn kém xa!
2.- Ngã sinh sơn quật-lý, Tứ diện thị sàn nhan.
Hữu nham hiệu Cảnh-Tinh, Dục đáo tri kỷ niên.
Kim thủy tín kỳ-tuyệt, Nhất lãm tiểu chúng san.
Cánh đắc sư vi chủ, Nhị diệu vị dị ngôn.
Phỏng dịch:
Tôi sinh hoạt trong động, Bốn mặt núi sàn sàn.
Kia gọi Cảnh-Tinh-Nham, Mong thăm, mấy tuổi tròn.
Nay qua xem kỳ-tuyệt, Núi nhỏ cũng triều tôn.
Thêm được sư làm chủ, Cảnh, người đẹp gì hơn!
3.- Ngã gia hồ sơn thượng, Xúc mục thị lâm khâu.
Nhược tỷ tư sơn tú, Bồi lâu cố nan trừ.
Vân sơn thiên lý kiến, Tuyền thạch tứ thời lưu,
Ngã kim tài nhất đáo, Dĩ thắng ngũ hồ du.
Phỏng dịch:
Nhà tôi trên hồ sơn, Trước mặt rừng san-sát.
Cảnh đẹp núi hang này, Bên tôi vào hạng trót.
Vân sơn nghìn dậm xa, Tuyền thạch bốn mùa rót.
Mới tới lần này đây, Hơn đi năm hồ khác.
4.- Ngã niên thất thập ngũ, Mộc mạt quải tàn-dương.
Túng sử thân vị thệ, Diệc năng khởi cửu trường.
Thượng ký lâm gian trụ, Dữ sư cộng mạt-quang.
Cô vân nga tạm xuất, Viễn cận hãi thương hoàng.
Phỏng dịch:
Tôi đã bảy mươi lăm, Tàn dương treo ngọn cỏ.
Thân tuy chưa mất hẳn, Ngày tháng bao lâu nữa.
Lâm hạ cùng sư ở, Bóng sau cùng cho bõ.
Cô-vân tạm vụt bay, Đây đó đều bỡ-ngỡ.
5.- Ái sơn đoan hữu tố, Câu tục diệc khả lân.
Tạc thủ Đương-Đồ quận, Bất thức ẩn-tĩnh san.
Tiện sư lai hựu khứ, Quí ngã phục hà ngôn.
Thượng kỳ vô cửu vãng, Qui tống ngã tàn niên.
Phỏng dịch:
Thích núi là tố-phận, Tục tình cũng đáng thương.
Xưa coi Đương-Đồ quận, Đâu biết tĩnh-sơn hương.
Khen ngợi sư đi lại, Thẹn-thùng, nghĩ vấn-vương!
Mong đừng đi lâu lắm, Ai tống buổi tàn-dương!
6.- Sư tâm như tử khôi, Hình diệc như khao mộc.
Hồ vi nạp-tử qui? Tự hưởng đáp không cốc.
Cố ngã trần-cấu-thân, Chính đãi đề-hồ dục.
Cánh nguyện trương Phật-đăng, Vị ngã đại minh chúc.
Phỏng-dịch :
Tâm sư như tro lạnh, Hình dáng như cây khô.
Tăng-sĩ đều qui-hướng? Hang không, vang ứng vô.
Nhìn thân đầy trần cấu, Mong tắm nước đề-hồ.
Sư thắp tuệ đăng Phật, Rọi tâm tôi tối mờ.
7.- Phù sơ nham thượng-thụ, Nhập Hạ tổng thành âm.
Kỷ niên kinh-cức địa, Nhất đán thành tùng-lâm.
Ngã phương dữ nạp-tử, Cộng thính hải-triều-âm.
Nhân sinh đa tụ-tán, Ly-biệt hốt kinh-tâm!
Phỏng dịch :
Cây trên hang thưa-thớt, Vào Hạ bóng xanh rờn.
Gai góc bao năm rậm, Tùng-lâm ngày lớn hơn.
Tôi, Tăng sĩ ham nghe, Tiếng hải triều vang rộn.
Kiếp sống nhiều tụ-tán, Biệt-ly bỗng kinh hồn!
8.- Ngã dữ sư lai vãng, Tuế nguyệt tuy vị trường.
Tương khán thành nhị lão, Phong-lưu diệc dị thường.
Sư án tọa nham thượng, Ngã phương vi tụ lương.
Thảng sư năng tảo qui, Thử lạc do vị ương!
Phỏng dịch :
Tôi và sư đi lại, Năm tháng chửa là bao.
Kỳ-dị, phong-lưu cách, Nhìn ra đều suy lão.
Sư an tọa trên hang, Tôi góp gom rau gạo.
Sư sớm về đây nhé! Mừng vui này tuyệt hảo!
9. – Phân-phân học thiền-giả, Yêu bao cạnh bôn-tẩu.
Tài năng thuyết cát-đằng, Si-ý tiện tự phụ.
Cầu kỳ đạo-đức tôn, Như sư cái hy-hữu.
Nguyện truyền Thượng-thừa-nhân, Vĩnh quang Lâm-tế hậu.
Phỏng dịch:
Nhộn-nhịp kẻ học-thiền, Mang toàn chuyện đua chen.
Cát-đằng[239] vừa lượm được, Si ý, cậy ta liền.
Cầu đạo-đức như sư, Đời nay coi chừng hiếm.
Pháp trao người thượng thặng, Lâm-Tế mãi lưu truyền.
10. – Ngô ấp đa truy-đồ, Hạo-hạo nhược vân-hải.
Đại-Cơ cửu dĩ vong, Lại hữu Tiểu-Cơ tại.
Nhưng cánh dữ Nhất-Sầm, Thuần toàn lưỡng vô hối.
Đường-đường nhị lão-thiền, Hải nội cộng kỳ đãi.
Phỏng dịch:
Ấp ta nhiều Tăng-sĩ, Mây biển tít mù khơi.
Mắt sớm, Đại-Cơ[240] nọ, Tiểu-Cơ[241] đương sáng chói.
Nhất-Sầm[242] với sư đây, Thuần toàn thực không hối.
Đường đường hai Trưởng-lão, Hải-nội đều mong mỏi.
11.- Cổ vô trụ-trì sự, Đãn chỉ truyền pháp-chỉ.
Hữu năng ngộ sắc, không, Tiện khả siêu sinh-tử.
Dung tăng muội bản-lai, Khởi thức Tây-qui-lý.
Mãi thiếp, tọa thiền-sàng, Phật-pháp tương hà thị!
Phỏng dịch:
Xưa không có trụ-trì, Truyền thụ bằng pháp-chỉ.
Ai ngộ được sắc, không, Liền siêu-thoát sinh-tử.
Tăng thường mờ bản-lai[243], Sao biết Tây-qui lý[244]!
Mua thiếp, tọa Thiền-sàng[245], Đạo ta nhờ chi nhỉ?
12.- Tăng trung hữu cao-tăng, Sĩ diệc hữu cao-sĩ.
Ngã tuy bất vi cao, Tâm thô năng tri chỉ.
Sư thị cá trung nhân, Đặc hoạn bất vi nhĩ.
Hà hạnh ngã dữ sư, Câu thị lân-gia tử!
Phỏng dịch:
Tăng-già có cao tăng, Nho-sĩ có cao-sĩ.
Tôi chẳng là cao sĩ, Tâm thô biết ngưng chỉ.
Cao-tăng ấy là sư, Chẳng bận tâm sư nghĩ!
May mắn tôi cùng sư, Cùng là người lân lý!
13.- Sư bản Cùng-Hòa-Thượng, Ngã diệc Cùng-Tú-Tài.
Nhẫn cùng tâm dĩ triệt, Lão khẳng bất qui lai.
Kim sư tuy tạm biệt, Tuyền thạch mạc tương xai.
Ứng duyên liêu phục ngã, Sư khởi hữu tâm tai!
Phỏng dịch:
Sư là Cùng-Hòa-Thượng, Tôi cũng Cùng-Tú-Tài,
Tâm nhẫn Cùng đã suốt, Già rồi không quay lại?
Nay sư tuy tạm biệt, Tuyền thạch đừng e ngại!
Trở lại, ứng duyên xong, Thâm-tâm thế, phải Ngài?
286.- KHÔNG CÓ
Cấp-sự Ngô-Công-Phí nói với ngài Giản-Đường: Cổ-nhân sạch vọng-tâm, dứt thế-trí, ẩn ở trong nghìn hang, muôn hốc, uống nước suối, ăn cỏ cây và tuyệt ý về công-danh. Không may, một mai có chiếu chỉ của nhà vua, các Ngài quyết che thân-quang, dấu hình-tích, trà-trộn vào làm những việc hèn hạ, kiếm củi, giã gạo, v.v... Buổi đầu đã không có ý nghĩ về sự vinh-đạt, thì sau cùng tất được liệt vào hàng truyền-đăng. Vì vậy, nếu đạt được vô tâm, thì đạo lớn, đức rộng. Còn tính-toán mong cầu, thì danh thấp, chí hẹp.
Chỉ Ngài là người có độ lượng ngưng-viễn, nối gót được cổ-nhân. Ngài đã nhẫn-nại ở chùa Quản-Sơn mười bảy năm, mà thành bậc lương-khí nơi tùng-lâm. Các Tăng-sĩ ngày nay, trong tâm không có cái gì được gọi là gìn-giữ, bên ngoài thì chạy theo sự phân-hoa, danh-lợi, ít có mưu-kế xa rộng cho pháp-môn và cũng không có gì lợi-ích cho đại-thể. Cho nên, những vị ấy không giúp đỡ tôn-giáo được và cũng không thể sánh kịp Ngài được. Thực xa vậy!
287.- XÉT NGHIỆM
Ngài Giản-Đường nói: Thường tình con người ít ai không có lầm lỡ. Đại-để, có những sự lầm-lỡ như: bị che-lấp bởi cả tin, bị ngăn-trở bởi ngờ-vực, bị sơ-sót bởi khinh-khi và bị đắm đuối bởi quá ham. Tin đã thiên lệch, thì nghe lời nói của họ không cần xét đến sự thực, nên có những lời nói quá đáng. Ngờ vực đã nhiều, thì tuy thực, nhưng cũng chẳng cần nghe lời họ nói, nên có sự nghe trái với sự thực. Đã khinh-khi người, thì bỏ sót mất những việc đáng trọng. Quá ham vào việc gì, thì vẫn cố giữ những con người thực đáng bỏ. Những việc trên đều là do sự cẩu-thả, phóng-túng theo lòng riêng mình, mà không xét đến đạo-lý. Do đó, đạo của Phật-Tổ bị quên, tâm đối với tùng-lâm bị mất. Vậy, ta cần nhớ rằng: “Cái khinh của thường tình là cái trọng của thánh-hiền”. Cổ-đức nói: “Mưu xa phải nghiệm trước sự gần, việc lớn phải cẩn-thận chỗ vi-tế”. Phàm sự việc lượm-lặt nhiều, nhưng phải xét, chọn ở trong đó mà dùng và không phải ở chỗ chuộng cao, ham lạ vậy.
288.- TỰ LẠC
Ngài Giản-Đường có đức-độ thanh-liêm, sáng suốt, khoan-dung, bình-dị, hiền lành và hay ra ân cho người. Tăng-sĩ nào có chút lỗi lầm, Ngài che-dấu, bao bọc, nhưng khuyên răn hối-tiếc, để thành đức-hạnh làm người. Ngài thường nói: “Người ta ai không có lỗi. Biết cải hối là tốt”.
Khi Ngài trụ-trì chùa Quản-Sơn ở Bà-Dương, gặp mùa Đông rất lạnh, mưa tuyết suốt ngày, cơm cháo không có, mà Ngài vẫn coi như không nghe biết gì. Vì vậy đương thời có bài tụng:
Địa lô vô hỏa khách nang không,
Tuyết tự dương hoa lạc tuế cùng.
Nạp bị mông đầu thiêu cốt đốt,
Bất tri thân tại tịch-liêu trung.
Phỏng-dịch:
Túi khách rỗng không, bếp lửa không,
Hoa dương rụng tuyết ngập năm cùng.
Củi thêm sức ấm, đầu che áo,
Lạnh-lẽo thân này mặc tiết Đông!
Bình-sinh, Ngài tự lấy đạo làm vui và, Ngài không vội-vàng trong sự có vinh-danh. Khi theo lời mời của ngài Viên-Thông trụ-trì chùa Lư-Sơn, Ngài chống gậy, đi dép cỏ tới mà thôi. Do đó, ai trông thấy Ngài đều có nét mặt trang-kính và ý xấu tiêu-giải. Ngay quan Quận-Thú Cửu-Giang là Lâm-Công Thúc-Đạt, trông thấy Ngài cũng nói: “Đây là vị tân-lương trong Phật-pháp”. Bởi thế, tên Ngài được trọng-vọng khắp bốn phương. Sự đi hay tới của Ngài thực được như thể cách của bậc tiền-bối. Khi Ngài mất, dù là những người làm, hầu hạ cũng đều sa lệ.
289.- TẠO NGHIỆP
Thị-Lang Trương-Công Hiếu-Tường gửi thư tới Phong-Kiều, Diễn Trưởng-Lão[246] rằng: Các Tổ trước đây, không có sự trụ-trì. Mở cửa thu-nhận đồ chúng là việc cưỡng-bách, bất-đắc-dĩ. Thời tượng pháp suy kém đến nỗi có thuyết nói: Có những vị Tăng-sĩ đem tiền của cùng các đồ trân-bảo, đút lót cho các quan-chức, để xin được phong chức, phong hiệu. Có những vị hùn vốn với những người thương-mại để kiếm lời. Có những vị mua bán chùa, viện v.v… Mà, những việc xảy ra trên đây từ trước tới nay, tại nơi Phong-Kiều của Ngài đầy dẫy những nhân-vật ấy. Việc xuất-xử của Ngài ai cũng đều biết. Nhưng, việc trong chùa Ngài, Ngài dung-túng và người đời coi như là Ngài có vẻ ám-hợp với họ như thế, thì thực sự, không có ai gắng sức làm việc, mà chỉ là những người có duyên thì ở, hết duyên thì đi. Nếu cứ để những bọn buôn bán Phật-pháp ở trong ấy, chỉ là để tạo nghiệp địa-ngục mà thôi. Như thế, chẳng bằng chia tay nhau còn hay hơn.
290.- KỲ VỌNG
Từ-Thụ-Thâm Hòa-Thượng[247] nói với Kính-Sơn-Nột Hòa-Thượng[248]: Hai, ba mươi năm trở lại đây, chốn thiền-môn trở nên tiêu-điều vắng vẻ, nguy đến nỗi, tôi không muốn ngó tới nữa. Trưởng-lão các nơi thì chạy Nam, chạy Bắc, không biết bao nhiêu người mà kể. Còn có những nơi chia bếp, chia chúng v.v... đầy dẫy trước mắt như thế cả. Chỉ có Sư-huynh là thần-tình bất động, ngồi hưởng an-dật, không thèm cùng với những kẻ tầm thường lục-lục, mà chuyện của họ nói hàng ngày cũng không hết được. Đáng khâm-phục và khen ngợi! Đối với đoạn nhân-duyên này, nếu tự mình không phải là người đầy-đủ đạo-đức và việc làm cùng sự hiểu biết tương-ứng, thì không thể làm được! Tôi mong Sư-huynh gắng sức để dụ-dẫn hậu-côn, làm cho nguồn Tào-Khê đang cạn được tràn đầy pháp-trạch, cây giác-ngộ điêu-tàn lại gặp được mùa xuân. Tâm tôi thực đau đáu kỳ-vọng vào Sư-huynh vậy.
291.- SÀM BÁNG
Linh-Chi-Chiếu Hòa-Thượng nói[249]: Sàm (gièm-pha) và báng (chê bai) có đồng nghĩa như nhau hay khác nhau? Đáp: Sàm (gièm-pha) phải nhờ báng (chê bai) mà thành. Vì có kẻ chỉ chê-bai người khác mà không đi nói gièm-pha. Và chưa thấy ai nói gièm-pha mà lại không có chê-bai.
Sở dĩ sinh ra sự gièm-pha, đầu tiên bởi ở chỗ ghen ghét mà sau thành ra ít tin. Đã ít tin, thì tất nhiên sẽ bị những kẻ tiểu-nhân siểm-nịnh làm ra việc ấy. Cổ-nhân có những người tận trung giúp vua, tận hiếu thờ song-thân và giữ nghĩa với bạn bè. Tuy có sự tương-đắc giữa vua và bày tôi, có sự tương ái giữa cha và con, có tình tương-thân giữa các bạn bè. Nhưng, ngày nào đó, bị người ta gièm pha, thì có thể sinh ra việc cha con giận dữ không nhìn nhau, anh em đánh nhau, vua tôi xua đuổi nhau, bạn bè ly gián nhau và tất cả đều coi nhau như giặc thù. Với những việc xảy ra như trên, dù là thánh-hiền đời xưa cũng khó tránh được! Và, những việc ấy, có việc lúc mới xảy ra, không thể biện-minh được nhưng, lâu lâu về sau này mới sáng tỏ. Có những việc khi sống không thể biện-minh được và sau khi chết rồi mới biện-minh được. Có những việc sau khi chết rồi vẫn không thể biện-minh được và suốt cả thời gian xa xưa nối tiếp nhau cũng không thể biện-minh được. Những việc hàm oan ấy rất nhiều, không sao kể xiết được.
Thày Tử-Du[250] nói: Bày tôi thờ vua mà can-gián nhiều, nhân việc ấy sẽ đem lại nhục-nhã. Bạn bè thường thường khuyên răn nhau, nhân việc ấy sẽ đem lại sự xa nhau. Những lời nói trên đây, mục-đích để khuyên răn người nên xa tránh những lời nói gièm pha của tiểu-nhân. Ôi, gièm-pha (sàm) và chê bai (báng) không thể không xét kỹ! Kinh-sử đã chép rõ. Các học-giả xem đến những kinh-sử ấy, ai cũng biết nó là trái. Và, cũng biết rằng nếu thân mình luôn luôn tự hãm vào miệng lưỡi của kẻ gièm pha, uất-ức đến chết, mà không thể tự-biện-minh được. Người bị gièm pha tất nhiên căm giận những người chấp-nhận sự gièm pha là không biết xem xét, để bị kẻ gièm pha siểm-nịnh. Cho đến, có những bọn tiểu-nhân thường quay quần ở trước mặt người chấp-nhận sự gièm-pha ấy lại đi gièm pha với những người khác nữa và họ lại nghe và cho là phải, như thế đáng gọi là thông-minh ư? Vì, kẻ giỏi gièm-pha, đủ mọi phương-tiện khéo-léo tranh-đấu, cấu tạo, đón hợp ý người, ngăn che sự thật, khiến cho người nghe mê mờ như bị quỉ ốp, đến nỗi suốt đời cũng không thể xét rõ được là bị người mê hoặc.
Đức Khổng-Tử[251] nói: “Sự thấm-nhuần của lời bày đặt gièm-pha. Sự cảm-thụ nhẹ-nhàng của lời tố oan. Những lời nói ấy, thấm vào người dần dần, khiến người ta không biết trước được”. Dù thày Tăng-Sâm là người chí-hiếu, mà mẹ vẫn quyết ngờ là người giết người[252]. Chợ chứ không là rừng-rú, nghe sự đồn-đãi mà người ta vẫn quyết ngờ là trong chợ có hổ[253]. Thảng hoặc có người không tin những việc ấy, thì đáng gọi người ấy là người minh-viễn quân-tử vậy.
Tôi là người ngu-chuyết, sơ-sài, biếng-nhác, không hay siểm-phụ, giả vui đối với người, nên tôi bị nhiều người sàm-báng. Tôi nghe biết, nhưng tôi trộm tự xét rằng: Người kia nói quả là đúng, thì ta nên đổi lỗi và như thế người kia là thày ta. Người kia nói quả là sai thì cho người kia là nói không. Làm sao có thể làm nhiễm-ô tâm ta được! Như thế, tai tôi tuy có nghe; miệng tôi chưa bao giờ thốt lời biện-minh cả. Còn những kẻ sĩ, quân-tử xét hay không xét là do tài-năng, kiến-thức của họ sáng hay không sáng mà thôi. Tôi cần chi bày tỏ sự cong thẳng, phải, trái để mong sự hiểu biết của người! Song, nếu họ không biết ngay, lâu lâu về sau này họ sẽ rõ. Đời sau, đời sau nữa họ sẽ rõ. Suốt đời xưa, qua đời xưa họ sẽ rõ. Văn-Trung-Tử[254] nói: “Lấy gì ngưng được sự sàm-báng? Đáp: Không biện-minh.” Tôi theo lời nói ấy.
292.- TỊNH NGHIỆP
Lại-Am-Khu Hòa-Thượng[255] nói: Người học đạo nên kỳ-vọng sự triệt-ngộ và cần cầu bậc thiện-tri-thức quyết-trạch. Nếu tình-kiến còn vướng bằng đầu sợi tơ chưa hết, tức là vẫn còn cội gốc sinh-tử. Khi tình-kiến đã hết, phải xét đến cùng tận chỗ sở dĩ hết của nó. Ngài Qui-Sơn nói: Người thời nay, tuy theo cơ-duyên được nhất niệm đốn-ngộ tự-lý, nhưng còn có tập-khí từ đời vô thỉ, chưa bỏ hết một cách nhanh-chóng được, nên phải dạy họ trừ sạch nghiệp-thức lưu-lãng hiện-tiền. Như thế tức là tu vậy. Và, không thế, thì còn có pháp-môn gì thực-hành để cho họ xu-hướng theo? Ngài Qui-Sơn đã thốt ra lời nói trên đây, như hoặc người ta không theo làm như thế, thì đến khi chết, nhãn-quang lạc địa, hẳn là chưa tránh khỏi việc tay chân khờ-khoạng như con cua, con cáy rớt vào nước nóng vậy.
293.- THƯỜNG TRỤ
Ngài Lại-Am nói: Trong luật có dạy: Tăng vật có bốn loại:
Một là, thường-trụ thường-trụ,
Hai là, thập phương thường-trụ,
Ba là, hiện-tiền thường-trụ,
Bốn là, thập-phương hiện-tiền thường-trụ[256].
Của thường-trụ thì không được phạm vào bằng sợi tơ, kẽ tóc. Vì, tội ấy không phải nhẹ. Tiên-thánh, hậu-thánh đều đinh-ninh khuyên răn như vậy. Song, người ta thường thường nghe, nhưng chưa hẳn đã tin. Và, người tin, chưa hẳn đã làm. Sơn-tăng này, hoặc xuất, hoặc xử, chưa bao giờ không lấy lời răn ấy ghi vào tâm-ý một cách thành khẩn. Tuy vậy, còn sợ có chỗ chưa giữ được nên tự-thuật bài kệ sau đây để thức-tỉnh:
1.- Thập phương Tăng-vật trọng như san!
Vạn kiếp, thiên sinh khởi dị hoàn!
Kim khẩu cộng đàm tằng vị tín,
Tha niên tranh miễn thiết-thành quan!
Phỏng dịch:
Của thập-phương Tăng nặng tựa non,
Nghìn đời, muôn kiếp dễ chi đền!
Lời vàng, dù nói đâu tin hẳn!
Thành sắt sau đây khó lối chuồn!
2.- Nhân thân nan đắc hiếu tư-lường!
Đầu dác sinh thời tuế nguyệt trường!
Kham tiếu tham tha nhất lạp mễ!
Đẳng nhàn thất khước bán niên lương!
Phỏng-dịch:
Nghĩ kỹ, thân người dễ được chăng?
Súc-sinh thân-phận tháng năm trường!
Tham-lam hạt gạo bao nhiêu nhỉ?
Đằng-đẵng đền bù sáu tháng lương!
294.- THIỀN GIÁO
Ngài Lại-Am nói: Kinh Niết-bàn dạy: “Nếu người nào nghe TA (đức Thế-Tôn) nói một câu, một chữ về Đại-niết-bàn mà không khởi ra tướng của chữ ấy, không khởi ra tướng của câu ấy, không khởi ra tướng nghe được, không khởi ra tướng Phật, không khởi ra tướng nói, thì những nghĩa như thế gọi là vô tướng tướng (không còn tướng của vô tướng).” Đạt-Ma đại-sư vượt biển tới Trung-Hoa, chỉ truyền tâm-pháp, mà không lập ra văn-tự, hẳn là làm sáng ý-chỉ vô-tướng kia, chứ không phải là ngài Đạt-Ma tự-xuất ra ý mới, hay lập riêng một pháp-môn khác.
Cận-đại, người học đạo không hiểu ý-chỉ ấy, cho rằng Thiền-tôn là một pháp-môn riêng. Người lấy Thiền làm tôn, thì chỉ chuyên chủ về Thiền mà không học-tập về Giáo. Người lấy Giáo làm tôn, thì chỉ chuyên chủ về Giáo, mà không học-tập về Thiền. Như vậy, liền thành ra học thuyết của hai nhà và trở thành sự chê bai tranh chấp lẫn nhau không dứt.
Ôi, do chỗ nghe hiểu nông cạn mà đến nỗi sinh ra sự mâu-thuẫn[257] tranh-chấp, như thế, thì không phải là người ngu, cũng tức là người cuồng. Thực đáng than-trách!


Chú thích:
[204] Tịnh-Từ, Nguyệt-Đường, Đạo-Xương Thiền-Sư ở phủ Lâm-An. Ngài họ Ngô ở Bảo-Khê, Triều-Châu. Ngài nối pháp Diệu-Trạm-Tuệ Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Thanh-Nguyên.
[205] Thị-Lang họ Vưu tên là Mậu, tự là Diên-Chi, hiệu là Toại-Sơ Cư-sĩ, hỏi đạo nơi ngài Thủy-Am, Đoan-Nhất Thiền-Sư.
[206] Đầu-Tử-Sơn, Nghĩa-Thanh Thiền-Sư ở Thư-châu, nối pháp Thủy-Am, Đoan-Nhất Thiền-Sư, thuộc đời thứ 17 của phái Nam-Nhạc.
[207] Thừa-Tướng Trương-Tuấn, tự Đức-Viễn, hiệu Tử-Nham Cư-sĩ. Năm đầu niên hiệu Thiệu-Hưng, bái phong làm Hòa-Quốc-Công. Ông hỏi đạo nơi Viên-Ngộ-Cần Thiền-Sư.
[208] Trượng-đường tức là Phương-trượng-đường, là căn nhà dành cho vị Trụ-Trì trong Tùng-lâm. Phương-trượng có nghĩa là căn nhà vuông, mỗi bề một trượng, theo kiểu căn nhà đá của ông Duy-Ma-Cật ngày xưa. Còn Thông-đường tức là những dẫy nhà phổ-thông để đại-chúng ở.
[209] Tuyết-Phong, Diệu-Trạm, Tư-Tuệ Thiền-Sư ở Phúc-châu Ngài họ Du ở Tiền-Đương. ờngai nối pháp Pháp-Vân Thiện-Bản Thiền-Sư, thuộc đời thứ 13 của phái Thanh-Nguyên.
[210] Chung-Tương nổi loạn tại Động-Đình hồ, tự xưng là Thiên-Hoàng Đại-Vương. Sau bị binh-sĩ của Trương-Tuấn đánh bại và tử thương. Mùa Xuân niên-hiệu Kiến-Viêm năm thứ ba, Văn-Thù, Chính-Đạo Thiền-Sư lên pháp-đường nói với Tăng chúng về lời di-chúc là phái Lâm-Tế sắp bị diệt như sau:
a. Chính-pháp nhãn-tạng hạt-lư diệt,
b. Lâm-Tế hà tằng hữu thử thuyết?
c. Kim cổ thời-nhân giai vọng-truyền,
d. Bất tín đãn khan hậu tam nguyệt.
e. Phỏng dịch:
f. Lừa mù sẽ diệt, pháp không lâu!
g. Lâm-Tế chưa từng nói thế đâu?
h. Nay, trước đều cho là vọng-thuyết,
i. Tháng ba sau, thấy rõ đuôi đầu!
j. Quả nhiên đến tháng ba năm sau, binh lính của Chung-Tương đến. Tín-đồ muốn ngài cùng chạy về phía Nam. Ngài nói: Học đạo cần liễu sinh-tử, há nên trốn-tránh sao! Ngài cương-quyết không chạy và ngồi ngay tại trượng-đường. Bỗng nhiên giặc đến. Ngài nói: Giết ta chóng lên, để thỏa tâm chí các người! Giặc cầm giáo đâm ngài chết, máu phọt ra như sữa trắng. Giặc cả sợ, lấy chiếu phủ thi-thể ngài rồi đi.
[211] Tâm-Văn, Đàm-Bí Thiền-Sư ở chùa Vạn-Niên (Đài-châu). Ngài là người ở Vĩnh-Gia, nối pháp Dục-Vương, Giới Thầm Thiền-Sư thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
a. Đàm-Bí Thiền-Sư có người đọc là Đàm-Bôn Thiền-Sư.
[212] Phong-Huyệt, Diên-Chiểu Thiền-Sư. Ngài họ lưu ở Dư-Hàng, Tiền-Đường. Ngài nối pháp Nam-Viện, Tuệ-Ngung Thiền-Sư, thuộc đời thứ 7 của phái Nam-Nhạc.
[213] Pháp-Thường Thiền-Sư họ Trịnh ở Tương-Dương. Sau khi ngài yết-kiến Mã-Tổ Thiền-Sư, ngài ẩn ở Cận-Huyện cách phía Nam Đạt-Mai-Sơn 70 dặm.
[214] Giáo ngoại biệt truyền: Là câu pháp chỉ về Thiền-tôn. Đạt-Ma Tổ-sư truyền Thiền-đạo sang Trung-Hoa không dùng văn-tự, không lập ngôn-cú, truyền thẳng tâm-ấn của Phật Tổ mà thôi, nên gọi là giáo ngoại biệt truyền (sự trao-truyền riêng biệt ngoài giáo-pháp bằng văn-tự). Đạt-Ma chi Ngộ-tính-luận viết: “Trực-chỉ nhân-tâm, kiến tính thành Phật, giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn-tự”. Bộ Vô-Môn-Quan viết: “Đức Thế-Tôn nói: Ta có Chính-pháp nhãn-Tạng, Niết-bàn diệu-tâm, thực-tướng vô tướng, vi-diệu pháp-môn, không lập văn-tự thuộc giáo ngoại biệt truyền”.
[215] Bích-Nham tập: Tập sách mà Viên-Ngộ Thiền-Sư viết ra tại núi Bích-Nham, nên đặt tên là Bích-Nham tập.
[216] Khai-Phúc, Đạo-Ninh Thiền-Sư ở Đàm-Châu. Ngài họ Uông ở Hấp-Khê. Ngài nối pháp Ngũ-Tổ-Diễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc.
[217] Phật-Nhật là tên chùa, mà pháp-danh của ngài là Đại-Tuệ Thiền-Sư.
[218] Chuyết-Am, Phật-Chiếu, Đức-Quang Thiền-Sư ở Dục-Vương, phủ Khánh-Nguyên. Ngài họ Bành ở quận Lâm-Giang. Ngài nối pháp Đại-Tuệ-Cảo Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[219] Bảy nơi trong thân-thể con người tức là hai tay, hai chân, hai vai và đỉnh đầu.
[220] Ông Doãn-Văn họ Ngu, tên là Doãn, tự là Phân-Phủ. Năm 10 tuổi ông đã làm thi từ rất hay. Sau này, trong thời vua Hiếu-Tôn phong làm Thừa-Tướng. Đặt quán-xá ở Kiều-Thôn để ông tiếp hiền-sĩ bốn phương.
[221] Ông Y-Doãn thương Trung-Quốc không có vua hiền, than đạo của ông không thực-hiện được, ông đi ẩn và cày ruộng ở cánh đồng Hữu-Sắn (tên một cổ-thành ở phía Đông phủ Khai-Phong 50 dặm) để vui với đạo Nghiêu-Thuấn. Vua Thang ba lần đến mời, bái phong làm Thừa-Tướng. Ông tự nói: Nếu trong đời tôi không có vua Thành-Thang thì trọn đời tôi ở cánh đồng Hữu-Sắn này, chứ quyết không theo ai, để uổng đạo. Ông giúp vua Thang đánh vua Trụ, vua Thang tôn ông là A-Hành. Vua Thang mất, cháu là Thái-Giáp vô đạo, ông bỏ đi đến đất Đồng ba năm. Thái-Giáp hối lỗi, ông trở về đất Hào. Ông mất năm ông 100 tuổi và được an-táng theo nghi-lễ thiên-tử.
[222] Ông Lã-Vọng người Đông-Hải, họ Khương, tên là Thượng, tự là Tử-Nha. Ông câu cá ở bến Vị-Thủy, Bàn-Khê, thuộc huyện Bảo-Kê. Ông Chu-Văn-Vương (Tây-Bá) trước đi săn có bói một quẻ rằng: Lần này đi săn, chẳng phải là săn được con long, con ly, con hùng, con bi mà sẽ được một người phụ-tá thành bậc Bá-Vương. Đúng vậy, lần này Chu-Văn-Vương đi săn gặp ông Khương-Thượng đang câu cá, nhà vua rất mừng. Chu-Văn-Vương nói: Tiên-Quân Thái-Công ta thường nói: Sẽ có bậc chí nhân tới giúp nhà Chu, ông là bậc ấy chăng? Đáp: Đúng. Chu-Văn-Vương nói: Thái-Công ta mong ông đã lâu, vậy nay đặt tên hiệu ông là Thái-Công-Vọng, tôn ông làm Quân-Sư và phong là Lã-Hầu. Năm ấy ông hơn 70 tuổi.
[223] Dã-Am, Tổ-Tuyền Thiền-Sư nối pháp Đại-Qui-Quả Thiền-Sư, thuộc đời thứ 18 của phái Nam-Nhạc.
[224] Can-Tương, Mạc-Da: Theo Hiếu-Tử truyện viết: Vợ vua Sở-Tương-Vương, nhân mùa hạ hóng mát, ôm vào cây cột sắt cho mát, tự nhiên cảm thấy có thai và, sau sinh ra một khối sắt. Vua sai người thợ rèn tên là Can-Tương đem rèn thành thanh-kiếm cho nhà vua. Can-Tương rèn ba năm mới xong hai thanh kiếm, một thanh thư và một thanh hùng. Can-Tương giấu thanh hùng và chỉ dâng nhà vua có thanh thư mà thôi. Nhà vua cất kín thanh thư vào trong hộp. Nhưng, vẫn thường nghe thấy tiếng nó kêu thảm-thiết. Nhà vua mới đem việc ấy ra hỏi quần thần. Có một ông quan đứng lên tâu: Kiếm ấy phải có hai thanh: một thanh thư và một thanh hùng. Thanh này là thanh thư nó nhớ thanh hùng nên nó kêu. Nhà vua cả giận muốn giết Can-Tương. Can-Tương biết rằng thế nào mình cũng phải chết, mới đem giấu thanh kiếm hùng vào giữa cột nhà. Vợ Can-Tương tên là Mạc-Da, khi ấy đang có thai, sắp sinh. Can-Tương mới dặn vợ rằng:
a. Nhật xuất hộ Đông,
b. Nam-sơn hữu tùng.
c. Tùng sinh ư thạch,
d. Kiếm tại kỳ trung.
e. Phỏng dịch:
f. Trời mọc phía cửa Đông,
g. Nam-sơn có cây thông.
h. Cây thông mọc trên đá,
i. Thanh kiếm ở bên trong.
j. Can-Tương lại dặn vợ thêm: Nếu sinh con trai, khi nó lớn lên bảo nó như thế! Quả nhiên, sau này nàng Mạc-Da sinh con trai và ở khoảng giữa chặng mày có một nốt đỏ. Do đó, nàng Mạc-Da đặt tên cho nó là Mi-Gian-Xích. Khi Mi-Gian-Xích được 15 tuổi, mới hỏi mẹ rằng: Cha con ở đâu? Người mẹ trả lời vắn tắt: Cha con bị giết oan rồi! Mi-Gian-Xích nghe thấy thế, giận lắm, ngày đêm suy nghĩ tìm cách báo thù cho cha. Hắn định đi ra ngoài cửa ba lần nhưng không thấy núi có thông đâu cả. Hắn mệt quá nằm xuống giữa nhà, bỗng thấy cây cột thông ở trong nhà. Tỉnh dậy, hắn bổ cây cột ra, thì thấy thanh kiếm.
k. Đằng khác, nhà vua mơ thấy một thằng nhỏ, ở giữa chặng mày có một nốt đỏ, nói là báo thù cho cha. Nhà vua sợ, ra lệnh: Ai bắt được thằng nhỏ có nốt đỏ ở giữa chặng mày hay chém được đầu nó, sẽ được hậu thưởng. Mi-Gian-Xích nghe thấy thế, trốn vào trong rừng, bỗng gặp một người kiếm củi hỏi: Anh có phải là Mi-Gian-Xích không? Đáp: Phải. Người kiếm củi nói: Ta là người ở Tăng-Sơn. Ta mới nghe lệnh nhà vua bắt anh. Anh định trốn. Nhưng, trốn khó thoát lắm. Sao anh không đem đầu anh và thanh kiếm giao cho ta, ta sẽ vì anh mà báo thù cho. Xích nói: May lắm! Nói rồi, Xích lấy kiếm tự chặt đầu mình giao cho người kiếm củi. Người kiếm củi kia giấu kiếm vào mình, còn đem đầu anh Xích dâng vua. Nhà vua rất mừng. Người kia tâu: Đầu dũng-sĩ sợ có hậu-hoạn xin đem dầu mà nấu. Nhà vua liền sai bắc vạc dầu nấu ba ngày ba đêm đầu vẫn không nát và miệng, mắt lúc mở lúc khép như khi còn sống. Người kia mời nhà vua xuống coi. Nhân lúc nhà vua coi vô ý, người kia rút gươm chém đứt đầu vua rơi vào trong vạc. Thế là hai cái đầu cắn nhau. Người kia sợ đầu của Xích không thắng, liền chặt đầu mình vào giúp. Ba đầu cắn nhau một lúc thì nát. Quần thần không biết phân-biệt cái đầu nào là của vua, khi đó, liền phân nước, thịt ra làm ba mà mai-táng. Cho nên đời thường gọi là mộ ba vua và, hiện nay còn ở huyện Nghi Xuân, phủ Nhữ Nam.
[225] Ba-Tuần (Pàpiyas – Pàpiman – Pàpimà): Tên một ác ma, Trung-Hoa dịch là “Sát-giả”: nghĩa là nó luôn luôn muốn dứt-hại tuệ-mệnh của con người. Còn dịch là “ác-giả”: nghĩa là loại ma này mong mỏi thành-tựu những ác-pháp và luôn luôn mang tâm ý ác-hại.
[226] Ăn cắp vàng giữa ban ngày: Truyện Liệt-Tử viết: Xưa kia một người nước Tề muốn có vàng. Một buổi sáng nọ, lúc chợ đang đông người, người này đến tiệm vàng, ung-dung nhặt lấy vàng rồi ra đi. Người chủ tiệm vàng bắt họ lại và nói: Tại sao chợ đông người như thế này mà dám ung-dung vào tiệm vàng lấy vàng mà đi? Đáp: Chính khi tôi lấy vàng, tôi không thấy người nào cả!
[227] Nước thượng-chì của ông Thương-Công: Cổ-sử nói: Về phía Đông đất Lư-Việt, có ông Biển-Thước họ Tần, tên là Hoãn, người ở quận Bột-Hải, nên gọi là Thương-Công. Thiếu-thời, ông làm Xá-Trưởng. Có ông khách tên là Trương-Tang-Quân, thấy ông Biển-Thước là một người kỳ-đặc, nên ông thường tới chơi. Sự tới lui với nhau hơn mười năm. Một ngày nọ, ông Trương-Tang-Quân cùng ông Biển-Thước cùng ngồi ở một nơi yên-tĩnh. Ông Trương-Tang-Quân nói: Này ông Biển-Thước, tôi có phương thuốc, nay tôi đã già, tôi muốn truyền cho ông, nhưng ông không được tiết-lậu cho ai. Ông Biển-Thước xin vâng. Ông Trương-Tang-Quân liền lấy phương thuốc ở trong bọc ra cho ông Biển-Thước, và bảo: Ông hãy lấy nước thượng-chì mà uống. Nước thượng-chì tức là nước hạt móc ban đêm đọng ở trên lá trúc, lá cây. Ông uống trong hai mươi mốt ngày ông sẽ tự thấy suốt được nhân vật. Ông Trương-Tang-Quân lấy hết phương thuốc trao cho ông Biển-Thước và, bỗng nhiên biến mất. Khi đó, ông Biển-Thước mới biết là Tiên-nhân. Ông Biển-Thước theo như lời dạy mà uống. Hết hai mươi mốt ngày, quả nhiên ông Biển-Thước trông thấy rõ các nhân vật trong một phương. Và, sau đó, ông coi bệnh của bệnh-nhân, ông trông thấy suốt chỗ trưng-kết của ngũ-tạng. Do đó, ông đặc tài về chẩn mạch, là một lương-y nổi tiếng đương thời.
[228] Thiên-Đồng, Mật-Am, Hàm-Kiệt Thiền-Sư ở phủ Khánh-Nguyên. Ngài họ Trịnh ở Phúc-châu. Ngài nối pháp Ứng-Am-Hoa Thiền-Sư thuộc đời thứ 17 của phái Nam-Nhạc.
[229] Ngũ-Vân-Ngộ Thiền-Sư ở phủ Lâm-An. Ngài là người ở Ngô-Hưng, Thiều-Khê.
[230] Tịnh-Từ, Tự-Đắc, Tuệ-Huy Thiền-Sư ở Hàng-châu. Ngài họ Trương ở Cối-Kê. Ngài nối pháp Thiên-Đồng, Chính-Giác Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Thanh-Nguyên.
[231] Tiêu-Sơn, Hoặc-Am, Sư-Thể Thiền-Sư ở phủ Chấn-Giang. Ngài họ La ở Thai-châu. Ngài nối pháp Thử-Am, Cảnh-Nguyên Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[232] Tuyển-Phật-Trường: Một hôm Bàng-Cư-sĩ hỏi ngài Mã-Tổ: “Không cùng muôn pháp làm bạn thì là người thế nào?” Ngài Mã-Tổ nói: “Đợi ông hút một ngụm hết nước Tây-giang, tôi sẽ nói cho ông biết.” Bàng-Cư-sĩ đại-ngộ và trình bài kệ:
1. Thập phương đồng tụ-hội,
2. Cá cá học vô vi.
3. Thử thị tuyển-Phật-trường,
4. Tâm không cập đệ qui.
ii. Phỏng dịch :
1. Mười phương cùng tụ họp,
2. Ai cũng học vô-vi.
3. Đây chính trường tuyển Phật,
4. Tâm không, đỗ-đạt về!
[233] Thừa-Tướng Tiền-Tương-Tề, tự Tượng-Tiên, hỏi đạo nơi Hoặc-Am Thiền-Sư.
[234] Hạt-Đường, Tuệ-Viễn Thiền-Sư ở chùa Linh-Ẩn, phủ Lâm-An. Ngài họ Bành ở Mi-Sơn. Ngài nối pháp Viên-Ngộ-Cần Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[235] Đại-Tùy, Nam-Đường, Nguyễn-Tĩnh Thiền-Sư ở Bành-Châu. Ngài là con nhà đại-nho : Triệu-Ước-Trọng ở Ngọc-Sơn, Lăng-Châu. Ngài nối pháp Ngũ-Tổ-Diễn Thiền-Sư.
[236] Giản-Đường, Hành-Cơ Thiền-Sư ở chùa Quốc-Thanh. Ngài họ Dương ở Thai-châu. Ngài nối pháp Hộ-Quốc, Cảnh-Nguyên Thiền-Sư.
[237] Thị-Lang Lý-Công, tên là Hạo, tự là Đức-Viễn, hiệu là Thung-Niên. Thuở nhỏ ông xem kinh Lăng-Nghiêm rất thông hiểu như là người đi chơi ở nước cũ mà mình đã đi thăm rồi. Sau ông tham học nơi Hòa-Thượng Ứng-Am và tỉnh-ngộ.
[238] Xưa có vị Tăng hỏi ngài Tào-Sơn: Vật gì quí nhất trên thế-gian này? Ngài Tào-Sơn đáp: “ Đầu mèo chết”. Ngài Đan-Hà làm bài tụng rằng:
i. Tanh-tao hồng lạn bất kham văn,
ii. Động xứ khinh-khinh huyết hãn thân.
iii. Hà sự liểu vô nhân trước giá?
iv. Vị y bất thị thế-gian trân!
b. Phỏng dịch:
i. Tanh-tao, rữa thúi, ngửi làm sao?
ii. Huyết-hãn đầy thân rỉ rỉ trào!
iii. Duyên cớ, sao người không đặt giá?
iv. Với đời giá-trị đáng là bao!
[239] Cát-đằng: Dây sắn, dây leo, chỉ nhờ quấn vào cây lớn mà bò lên. Đây là chỉ cho phiền-não. Và, cũng là tiếng nói bóng thông thường của Thiền-gia. Trong Thiền-gia, chỉ cho những vị tham thiền, chưa liễu ngộ được đạo Thiền, chỉ mới lượm lặt được một chút thiền-ngữ đã khoe-khoang, tự-phụ. Kinh Xuất-Diệu quyển 3 nói: “Có những chúng-sinh sa vào lưới tham-ái, quyết làm hại Chính-đạo…, cũng như dây leo (cát-đằng) quấn vào cây, quấn đến ngọn cây, thì cây khô”. Bộ Tùng-Lâm Thịnh-Sư nói: “Trong Thiền-gia, phàm nói đến sự gì liên-miên, quanh co không rõ ràng, gọi là nói dây leo, tức là cát-đằng-ngữ”.
[240] Đại-Cơ tức là chỉ cho Trọng-Cơ, Minh-Chân Thiền-Sư ở chùa Thiên-Ninh, Hàng-châu. Ngài là người Thai-châu. Ngài nối pháp Huyền-sa, Sư-Bị Thiền-Sư.
[241] Tiểu-Cơ là chỉ cho Giản-Đường, Hành-Cơ Thiền-Sư.
[242] Nhất-Sầm tức Viên-Cực-Sầm Hòa-Thượng.
[243] Bản-lai: Tức là “bản-lai diện-mục” hay là “bản địa phong-quang”, hay là “tự-kỷ bản-phận” v.v…, đều là lời nói chỉ cho pháp-đạo cực-độ của Thiền-môn. Tức là chỉ cho Phật-tính hay chân-tính… sẵn có từ trước tới nay, không biến-chuyển.
[244] Tây-qui-lý: Xem chú thích trong thiên 49 và 219.
[245] Mua thiếp, tọa thiền-sàng: Ý nói, thời mạt-pháp các Tăng-sĩ ham giao dịch với những người quyền-quí, mua thiếp để chúc-tụng và xin danh-thiếp của họ về khoe khoang. Hơn thế nữa, xu-nịnh họ, mời họ về tùng-lâm, mời họ ngồi lên thiền-sàng nói chuyện cho Tăng-chúng nghe và, còn có khi, họ ngồi trên giường, sư lạy dưới đất.
[246] Phong-Kiều ở trước chùa Hàn-Sơn, thuộc Tô-châu. Diễn Trưởng-lão tức Hoa-Tạng, Độn-Am, Tôn-Diễn Thiền-Sư ở Thường-châu. Ngài họ Trịnh ở Phúc-châu. Ngài đắc pháp nơi Đại-Tuệ Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[247] Từ-Thụ, Hoài-Thâm Thiền-Sư ở chùa Tuệ-Lâm, Đông-Kinh. Ngài họ Hạ ở Thọ-Xuân. Ngài nối pháp Trường-Lư, Sùng-Tín Thiền-Sư, thuộc đời thứ 13 của phái Thanh-Nguyên.
[248] Kính Sơn, Diệu-Không, Trí-Nột Thiền-Sư ở phủ Lâm-An, nối pháp Trường-Lư, Sùng-Tín Thiền-Sư.
[249] Linh-Chi, Viên-Chiếu, Trạm-Nhiên Luật-Sư ở Hàng-châu. Ngài họ Đường ở Dư-Hàng. Khi ngài lễ Tuệ-Tài Pháp-Sư để nhận thụ giới-pháp, ngài cảm thấy tượng Bồ-Tát Quán-Âm phóng quang, nên ngài làm bài biện-minh SÀM-BÁNG.
[250] Thày Tử-Du là đệ-tử đức Khổng-Tử. Thày họ Ngôn, tên là Yến, tự Tử-Du.
[251] Đức Khổng-Tử: Xem chú-thích nơi thiên 3.
[252] Tăng-Sâm tự là Tử-Du, là đệ-tử đức Khổng-Tử. Thày là người ở Vũ-Thành và là người rất có hiếu. Nhân sự hiếu của thày mà đức Khổng-Tử làm ra Hiếu-Kinh. Ông Cam-Mậu đời nhà Tần nói: Nước Lỗ có người cùng tên là Tăng-Sâm. Tăng-Sâm này giết người. Có người nói với mẹ Thày Tăng-Sâm rằng: Con bà giết người. Mẹ Thày Tăng-Sâm nói: Con tôi nhân hiếu, không bao giờ giết người. Bà nói xong và vẫn ngồi yên dệt vải. Lát sau có người lại đến bảo bà: Tăng-Sâm giết người. Bà vẫn tự-như, không xúc-động. Sau đó, lại có người nữa đến bảo bà; bà liền quăng thoi cửi, trèo tường mà chạy. Tâu Bệ-Hạ: Nay tôi hiền không bằng Thày Tăng-Sâm, vua tin bày tôi chưa bằng mẹ Thày Tăng-Sâm. Nếu có người cáo gian cho bày tôi, chắc không đến ba người, Bệ-Hạ đã quăng thoi rồi! Tới đây, Tần-Vũ-Vương dùng Cam-Mậu đi đánh Hàn.
[253] Hàn-Tử nói: Bàng-Thông cùng với Ngụy Thái-Tử Chất ở Hàn-Đan nói với Ngụy-Vương rằng: Nay có người nói trong chợ có hổ, Đại-Vương có tin chăng? Ngụy-Vương nói: Không. Hỏi: Hai người nói, Đại-Vương có tin chăng? Đáp: Hơi ngờ thôi. Hỏi: Ba người nói, Đại-Vương có tin không? Đáp: Quả-nhân tin. Nói: Rõ-ràng là trong chợ không bao giờ có hổ, mà Đại-Vương thấy ba người nói đã tin, thì Hàn-Đan này cách Đại-Vương xa hơn chợ, nghị thần đây hơn ba người, mong Bệ-Hạ xét. Nhà vua nói: Quả-nhân này tự biết rõ ràng mới từ bỏ việc làm được.
[254] Văn-Trung-Tử họ Vương, tên là Thông, tự Trọng Yêm, người ở Long-Môn, Lạc-Dương. Sau khi ông mất, môn nhân đặt thụy-hiệu cho ông là Văn-Trung-Tử. Ông đến Trường-An yết-kiến Tùy-Dạng-Đế, trình 12 sách lược về Thái-Bình. Vua Dạng-Đế rất mừng. Ông trở về làng 9 năm, nối tiếp việc sửa bộ Lục-Kinh Đại-Bị. Ông Giả-Quỳnh hỏi Văn-Trung-Tử: Ngài lấy gì để ngưng được sự sàm-báng? Văn-Trung-Tử đáp: Không biện-minh. Hỏi: Ngưng oán thì sao? Đáp: Không tranh. Văn-Trung-Tử nói tiếp: Người nghe sự phỉ-báng mà oán là bị sự lừa dối của kẻ gièm pha. Người thấy khen mà mừng là môi-giới cho kẻ nịnh. Bỏ sự bị lừa dối, môi-giới thì kẻ sàm-nịnh tránh xa vậy.
[255] Lại-Am, Đạo-Khu Thiền-Sư chùa Linh-Ẩn, phủ Lâm-An, nối pháp Đạo-Trường, Cư-Huệ Thiền-Sư, thuộc đời thứ 18 của phái Nam-Nhạc.
[256] Tăng vật có bốn loại:
1. Thường-trụ thường-trụ: Động-sản, bất-động-sản của riêng một chùa không được đem qua chùa khác và, chỉ được thụ-dụng chứ không được đem bán.
2. Thập phương thường-trụ: Đồ ăn uống hay các vật khác cúng dường tất cả chư Tăng mọi nơi.
3. Hiện-tiền thường-trụ: Các vật cúng-dường chư Tăng hiện-diện mà thôi.
4. Thập-phương hiện-tiền thường-trụ: Vật-dụng của vị Tăng trong chùa mất đi, được coi như là cúng dường thập phương Tăng, nhưng chư Tăng trong chùa ấy được họp để phân chia.
[257] Mâu-thuẫn: Mâu là cái giáo. Thuẫn là cái khiên, cái lá chắn hộ thân. Có nghĩa là hai cái chống trái nhau không thuận. Ngày xưa có người đem ra chợ bán cả cái giáo và cái khiên. Người ấy khen rằng: Cái giáo của tôi rất nhọn, rất sắc, đâm vào cái gì cũng thủng. Cái khiên tôi rất bền, không có gì có thể chọc thủng được. Có một người khác nghe thấy thế nói: Bây giờ tôi mua cái giáo của ông đâm vào cái khiên của ông xem có thủng không. Người kia im lặng.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 4 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vì sao tôi khổ


Kinh Di giáo


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự giết hại


Tiếp kiến đức Đạt-lai Lạt-ma

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.216.239.46 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập