Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Giải Thoát Đạo Luận [解脫道論] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Giải Thoát Đạo Luận [解脫道論] »» Bản Việt dịch quyển số 2


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.51 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.65 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Giải Thoát Đạo

Kinh này có 12 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
Việt dịch: Thiện Nhựt

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm 3: Đầu-đà.
Hỏi: Vào thời ấy, nếu người ngồi thiền, giới đã được thanh tịnh mà lòng muốn được công đức lành cao nhứt của hạnh đầu-đà, thì phải suy xét như vầy: thọ trì hạnh đầu-đà được công đức như thế nào?
Đáp: Vì tánh các người ngồi thiền chẳng đồng, nên (việc thọ trì hạnh đầu-đà có thể là vì ít muốn, vì biết đủ, vì sự chẳng nghi nan, vì sự đoạn diệt tham ái, vì muốn tinh tấn tăng thêm dõng mãnh, vì muốn dùng ít để khỏi nhận của kẻ khác bố thí, vì muốn được an trú, vì dẹp bỏ các ràng buộc, vì muốn khéo giữ giới. Các công đức đó trang bị đầy đủ cho Định, và là dòng giống của các bực Thánh trước kia. Đấy là những công đức thù thắng của hạnh Đầu-đà, cần phải nên quán chiếu.
Hạnh Đầu-đà là gì? Có tất cả mười ba pháp:
- hai pháp về quần áo: phấn tảo y và ba y (y= áo; phấn = buị bặm; tảo = tắm giặt; phấn tảo y là áo do lượm vải dơ bỏ ở hố rác về giặt sạch mà may mặc.);
- năm pháp về sự khất thực: khất thực, khất thực theo thứ lớp, chỉ một lần ngồi ăn, khéo đo lường bữa ăn, quá giờ chẳng ăn. (Khất = đi xin, thực = ăn.);
- năm pháp về nằm, ngồi: một, ngồi nơi nhàn tịnh (= vô sự xứ); hai, ngồi dưới bóng cây; ba, ở chỗ trống chẳng che; bốn, ở nơi mồ mả; năm, ở tuỳ chỗ gặp được (= ngộ đắc xứ);
- một pháp về tinh tấn dõng mãnh: thường ngồi chẳng nằm.
Ý nghiã của Phấn tảo y là gì? Đáp: Có ý nghiã là giúp cho việc thọ trì. Các điều còn lại cũng như vậy.
Thọ trì phấn tảo y là thế nào? Là để từ chối của cải do cư sĩ bố thí.
Thọ trì ba y là như thế nào? Là để diệt bỏ sự tích trữ y phục.
Ý nghiã của khất thực là gì? Là để tránh bỏ sự thỉnh mời của kẻ khác.
Ý nghiã của việc khất thực theo thứ lớp là gì? Là để tránh sự vượt quá khi đi khất thực.
Ý nghiã của việc chỉ một lần ngồi ăn là gì? Là để tránh ngồi lại ăn thêm nữa.
Ý nghiã của việc khéo đo lường bữa ăn là gì? Là để diệt bỏ lòng tham ăn quá.
Ý nghiã của việc quá giờ chẳng ăn là gì? Là để đoạn bỏ bụng còn muốn ăn thêm nữa.
Ý nghiã của việc ngồi nơi nhàn tịnh là gì? Là để tránh việc trú nơi xóm làng.
Ý nghiã của việc ngồi dưới bóng cây là gì? Là để bỏ việc trú trong nhà cửa.
Ý nghiã của việc ở chỗ trống chẳng che là gì? Là để lià bỏ các nơi có che phủ bên trên.
Ý nghiã của việc ở nơi mồ mả là gì? Là để lià bỏ việc chọn các nơi khác tốt hơn để ở.
Ý nghiã của việc ở tùy chỗ gặp được là gì? Là để diệt bỏ sự ham muốn được ở nơi các chỗ vui tốt.
Ý nghiã của việc thường ngồi chẳng nằm là gì? Là để lià xa giường ngủ.
Tại sao thọ trì phấn tảo y? Thấy được lỗi lầm trong việc cầu xin áo nơi các cư sĩ và thấy được công đức của việc mặc áo nạp y (= áo may ráp nhiều mảnh vải lại); tôi thấy như thế, nên quyết từ chối áo cư sĩ thí cúng, hầu thọ trì việc mặc áo nạp y.
Công đức của việc mặc áo nạp y như thế nào? Cũng giống với áo được cư sĩ thí, chẳng khiếm khuyết chi, chẳng do kẻ khác mà có được, mất đi chẳng lo buồn, tâm chẳng tham nhiễm, trộm cướp chẳng đoạt lấy, đủ cho sự cần dùng hằng ngày, ít chỗ tạo dựng. Người lành tập theo hạnh nầy được sự chẳng nghi nan, hiện an trú trong niềm vui của pháp, được kẻ khác hâm mộ và noi theo, khiến đắc được chánh thọ. Đó là công đức của việc thọ trì nạp y, được Đức Phật khen ngợi.
Hỏi: Có mấy loại nạp y? Ai thọ trì? Vì cớ gì thọ trì bị thất bại?
Đáp: Có hai loại nạp y: thứ nhứt, chẳng có chủ giữ gìn; thứ hai, bị người đời quẳng bỏ. Hoặc nơi mồ mả, hoặc nơi hố rác, hoặc nơi chợ búa, hoặc nơi đường xá, lượm vải lên đem nấu, giặt sạch, nhuộm, cắt may thành áo mặc. Đó là loại nạp y vô chủ. Hoặc phần vải còn dư sót lại chỗ bị trâu, chuột gặm nhấm, hoặc bị lửa cháy sém, hoặc được người ném bỏ, vải bọc thi thể người chết, hay y phục của kẻ ngoại đạo vứt đi. Đó là loại nạp y được người đời quẳng bỏ.
Thế nào là thọ trì phấn tảo y? Nếu Tỳ-kheo từ khước áo do cư sĩ cúng thí, đó là thọ phấn tảo y. Khi nào thất bại việc thọ trì? Khi Tỳ-kheo thọ nhận của cư sĩ, đó là việc thọ trì nạp y bị thất bại.
Thế nào là thọ trì việc giữ ba y? Khi có một bộ y trội dư, nên phải khước từ ngay, đem cho chẳng giữ, để khỏi vướng ràng buộc. Biết được như vậy là thấy được công đức của việc giữ ba y, và tự nguyện rằng: Kể từ hôm nay, tôi xả bỏ y trội dư để thọ trì việc giữ đúng ba y.
Thế nào là công đức thọ trì việc giữ ba y? Người lành tập hạnh nầy, lià được sự chất chứa của cải thừa thãi, ít lo xây cất, kềm giữ thân biết đủ, như chim bay trên không chẳng luyến nhìn lại phiá sau. Người lành tập pháp nầy đắc được sự chẳng nghi nan.
Hỏi: Ba y gồm có những gì? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại việc thọ trì?
Đáp: Ba y gồm có: (1) Tăng-già-lê (Sanghàti, áo tràng phía ngoài), (2) Uất-đa-la-tăng (Uttarasanga, áo giữa) và (3) An-đà-hội (Antaravàsaka, áo trong). Đó gọi là tam y.
Thế nào là thọ trì giữ ba y? Nếu Tỳ-kheo chẳng cất chứa y dư trội, đó là thọ trì ba y. Nếu cất giữ y thứ tư, đó là thất bại trong việc thọ trì.
Thế nào là thọ trì việc khất thực?
Nếu nhận lời mời của kẻ khác, thì phải xếp bỏ việc của mình lại, chẳng được thoải mái, và kề gối ngồi chung với kẻ khác là chẳng đúng pháp. Biết lỗi đó và thấy được công đức của việc đi khất thực, nên tự nguyện rằng kể từ hôm nay, tôi từ chối việc người khác mời và thọ trì pháp đi khất thực.
Thế nào là công đức việc đi khất thực? Theo tâm sở nguyện, đi tới hay dừng lại được tự do, khỏi lo lắng nấu nướng, dẹp bỏ lười biếng, trừ được kiêu mạn, chẳng tham lam mùi vị, lợi ích chúng sanh, nơi bốn phương lòng chẳng ngăn ngại. Người lành theo hạnh nầy được sự chẳng nghi nan.
Hỏi: Mời thỉnh có mấy loại? Thế nào là thọ trì khất thực? Thế nào là thất bại việc thọ trì khất thực?
Đáp: Mời có ba loại: thứ nhứt, mời riêng; thứ hai, mời chung; thứ ba, mời nhiều bận. Chẳng nhận ba loại mời đó là thọ trì việc đi khất thực. Nếu nhận lời mời, thì việc khất thực thất bại.
Thế nào là khất thực theo thứ lớp?
Nếu khất thực theo thứ lớp, thì chẳng thường đến nơi có nhiều đồ ăn mỹ vị. Nếu lại thường đến đó, thì chỉ là khất thực thường thôi. Nếu có chỗ đáng nghi ngờ, thì tránh xa. Biết được các lỗi đó và thấy được công đức của việc khất thực theo thứ lớp, nên tự nguyện kể từ hôm nay, tôi xả bỏ lối khất thực chẳng theo thứ lớp và thọ trì việc khất thực theo thứ lớp.
Thế nào là công đức của việc khất thực theo thứ lớp? Lấy tâm bình đẳng làm lợi ích cho tất cả, trừ được ganh ghét xấu ác, tránh rong chơi đùa bỡn, chẳng thích được mời mọc, chẳng ưa nhiều lời, xa lià nơi nhà người, bỏ lối đi gấp gáp; như vầng trăng tròn ít khi hiện lên, nên được người đời chiêm ngưỡng. Người lành hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.
Hỏi: Thế nào mới gọi là khất thực theo thứ lớp? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại?
Đáp: Vừa mới ra đi khất thực, Tỳ-kheo vào trong xóm làng, bắt đầu từ ngôi nhà cuối cùng lần lượt đi tới cho đến hết, đó là khất thực theo thứ lớp. Thế nào là thất bại? Nếu vượt qua bỏ sót nhà nào, đó là thất bại.
Thế nào là thọ trì việc chỉ một lần ngồi ăn?
Ngồi ăn hai nơi, lấy thức ăn nhiều lần, rửa bát nhiều bận, những cử chỉ đó nên tránh phạm, đó gọi là chỉ một lần ngồi ăn. Người lành làm theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan. Biết được lỗi lầm như thế, thấy công đức của việc chỉ một lần ngồi ăn, nên tự nguyện kể từ hôm nay, tôi xả bỏ việc ngồi ăn hai nơi, thọ trì việc chỉ một lần ngồi ăn.
Thế nào là công đức của việc chỉ một lần ngồi ăn? Chẳng nhiều chẳng ít, chẳng tham của bố thí chẳng được trong sạch, tránh mọi bịnh tật phiền não, yên sống chẳng bị ngăn ngại, việc mình an vui. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.
Hỏi: Thế nào là chỉ một lần ngồi ăn? Có những giới hạn nào? Thế nào là thất bại việc thọ trì?
Đáp: Có ba giới hạn: giới hạn về ngồi, giới hạn về nước và giới hạn về ăn. Thế nào là giới hạn về ngồi? Ăn rồi, chẳng còn ngồi nán. Uống nước, rửa chén xong, chẳng được ăn nữa. Đó là giới hạn về nước. Thế nào là giới hạn về ăn? Khi đang ăn, nghĩ rằng đây là miếng ăn chót, hễ nuốt xong, thì chẳng ăn nữa. Đó là giới hạn về ăn.
Nếu đã ngồi hai lần để ăn thì đã thất bại việc thọ trì chỉ một lần ngồi ăn. Trừ khi phải dùng thuốc thang, còn việc ăn hai lần, bị Đức Phật quở trách. Đó là giới hạn về ăn.
Thế nào là thọ trì việc khéo đo lường bữa ăn?
Nếu ăn uống quá độ, thân thêm nặng, hay buồn ngủ, thường sanh sự thèm ăn mãi chẳng chán. Đã biết lỗi lầm đó, thấy được công đức của việc khéo đo lường bữa ăn, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi dẹp bỏ sự tham ăn và thọ trì việc khéo đo lường bữa ăn.
Thế nào là công đức của việc khéo đo lường bữa ăn? Trù liệu đo lường bữa ăn chẳng tùy theo cái bụng để khỏi buông lung, ăn nhiều sanh thêm yếu mệt nên chẳng thích ăn nhiều, trừ tham, diệt bịnh, dẹp bỏ sự lười nhác. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.
Thế nào là thọ trì việc khéo đo lường bữa ăn? Thế nào là thất bại trong việc thọ trì?
Đáp: Khi ăn uống, nên suy xét sức mình kham được nhiều ít mà lấy đó làm chừng mực, chẳng dùng quá, khéo trù lượng, dẹp sự vô độ, đó gọi là khéo đo lường bữa ăn. Nếu chẳng biết như vậy, ắt thất bại việc thọ trì.
Thế nào là thọ trì việc quá giờ chẳng ăn?
Đoạn trừ vọng tưởng, bỏ việc ăn vặt; biết được chỗ lỗi lầm đó, thì thấy được công đức của việc quá giờ chẳng ăn, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi bỏ việc ăn thêm, thọ trì việc quá giờ chẳng ăn.
Thế nào là công đức của việc quá giờ chẳng ăn? Dứt trừ được sự ham thích ăn, giữ gìn thân thể, bỏ việc ăn đêm, ngưng việc lăng xăng tầm cầu, khỏi hỏi xin ai, chẳng chiều theo lòng ham muốn. Người lành theo hạnh nghiệp nầy nên được sự chẳng nghi nan.
Hỏi: Quá giờ có mấy thứ? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại việc thọ trì?
Đáp: Có hai thứ quá giờ: giới hạn của sự chẳng tiết độ và giới hạn của sự thọ trì. Thế nào là giới hạn của sự chẳng tiết độ? Đáp: Nhận ăn thêm khi được mời riêng, đó là tội, chẳng được ăn nữa. Thế nào là giới hạn của việc thọ trì? Đã ăn đến miếng ăn thứ hai mươi mốt rồi, chẳng được ăn thêm; thọ trì việc quá giờ chẳng ăn ắt phải đoạn bỏ chẳng ăn thêm. Nếu có ăn thêm, thì thất bại việc thọ trì quá giờ chẳng ăn.
Thế nào là thọ trì việc ngồi nơi nhàn tịnh?
Nơi làng mạc huyên náo, tâm thức xúc chạm đến năm trần (= sắc, thanh, hương, vị, xúc), tâm bị ô nhiễm và chạy theo thú vui. Nếu ở nơi ồn ào, nhiều người đi qua lại, tâm sanh loạn động. Biết được các lỗi lầm đó và thấy được công đức của nơi nhàn tịnh, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi chẳng trú trong làng mạc và thọ trì việc ở nơi nhàn tịnh.
Thế nào là công đức của nơi nhàn tịnh? Lìa nơi làng mạc huyên náo, tâm thức xúc chạm đến năm trần, tâm bị ô nhiễm và chạy theo thú vui. Nếu ở nơi ồn ào, nhiều người đi qua lại, tâm sanh loạn động. Biết được công đức tối thắng của thập ngữ (= mười lời nói) mà Trời Người đều khen ngợi, chẳng dua theo thế tục, được niềm vui tịch tĩnh (= yên lặng), ít tiếng động, tùy tâm mà ngồi thiền. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.
Hỏi: Thế nào là nơi nhàn tịnh gần nhứt? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại?
Đáp: Lià nơi nghỉ trong đô thành, ra ngoại ô tránh chỗ ngoài bià xa, giữ khoảng cách chừng năm trăm cung, (mỗi cung bằng bốn khuỷu tay), đó là nơi nhàn tịnh gần nhứt. Trừ ở nơi làng mạc, đó gọi là nơi nhàn tịnh. Nếu cư trú lại ở nơi làng mạc, ắt thất bại việc thọ trì ngồi nơi nhàn tịnh.
Thế nào là thọ trì việc ngồi dưới bóng cây?
Lià bỏ các nơi có che phủ bên trên, chẳng chứa súc vật, để đối trị sự tham ái mong cầu. Biết được như thế, thấy được công đức ngồi dưới bóng cây, nên tự nguyện, kể từ ngày hôm nay, tôi lià bỏ những nơi được che phủ bên trên, để thọ trì việc ngồi dưới bóng cây.
Thế nào là công đức của việc ngồi dưới bóng cây? Nương nơi cây mình thích, chẳng giao thiệp với đời, vui rời mọi công việc, cùng ở với bực Trời, dứt được sự ganh tị về nơi cư trú, lìa được sự trìu mến ràng buộc. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.
Hỏi: Cây nào trú được? Cây nào nên lìa xa? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại?
Đáp: Vào ban ngày, khoảng có bóng cây rọi xuống; vào khi chẳng gió, khoảng có lá rơi xuống; đó là những nơi có thể trú, trừ cây quá già cỗi nguy hiểm, cây to có lỗ hổng, cây có qủi thần ở. Lià những nơi có che phủ bên trên là thọ trì việc ngồi dưới bóng cây. Nếu đến ở những nơi được lợp che, ắt thất bại việc thọ trì.
Thế nào là thọ trì việc ở chỗ trống chẳng che?
Chẳng thích ở những nơi có lợp che bên trên và các cây cối có buộc giữ súc vật; biết được các lỗi lầm đó, thấy được công đức của việc ở chỗ trống chẳng che, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi lià bỏ sự vui thích được ở những nơi có che phủ bên trên.
Thế nào là công đức của việc ngồi ở chổ trống chẳng che? Chẳng lai vãng đến các nơi chẳng vui, đoạn trừ được sự lười nhác, buồn ngủ; cũng tựa như con nai rừng mặc ý đi tới đi lui, nào có gì đâu để luyến nhớ. Người lành theo hạnh nguyện nầy được sự chẳng nghi nan.
Thế nào là thọ? Thế nào là thất? Lià bỏ các nơi có che phủ bên trên và nơi dưới bóng cây, đó là ngồi ở chỗ trống chẳng che. Nếu trú tại nơi có che lợp và dưới lùm cây, ắt thất bại trong việc thọ trì ngồi ở chỗ trống chẳng che.
Thế nào là ở nơi mồ mả?
Nếu ở tại các nơi khác, thường sanh lười nhác, chẳng khởi lên sự lo sợ điều ác. Biết được các lỗi lầm đó, thấy được công đức của việc ở nơi mồ mả, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi lià bỏ các nơi khác, để thọ trì việc ở nơi mồ mả.
Thế nào là công đức của việc ở nơi mồ mả? Đắc được niệm về sự chết, thấy được tướng bất tịnh (= chẳng sạch), được các phi nhơn (= bực chẳng phải người, tức là các bực thần linh khác) kính trọng, chẳng khởi lười nhác, đè nén được các đam mê ô nhiễm, nhàm chán nhiều về các lo lắng ràng buộc, chẳng sợ hãi các điều đáng sợ, quán chiếu thân tâm rỗng rang, đoạn trừ tư tưởng về thường hằng. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.
Hỏi: Thế nào là công đức của việc ở nơi mồ mả? Chỗ nào ở được, đi được? Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại?
Đáp: Nếu nơi dự định đến ở chỗ có người đang khóc than, hoặc có khói lửa, nên quan sát trước chỗ ở khác tiện hơn. Khi đến ở nơi mồ mả, Tỳ-kheo chẳng nên che phòng, kê giường, nên ngồi xây lưng vào gió để cho mặt chẳng hứng gió. Trong thời gian nằm ngồi, chẳng nên ăn cá, chẳng uống sửa bơ, chẳng ăn mè, chẳng chạm thịt thú, chẳng ở trong nhà, chẳng dùng chén diã. Lúc ra đi cầm theo gối ngồi, áo quần, đến khi tới ở nơi mồ mả, thì coi như đã vất bỏ tất cả vật sở hữu của mình. Bình minh vừa lố dạng, liền thu thập gối áo trở về chùa, chẳng ghé nơi nào khác. Nếu đi đến chỗ khác nữa, ắt thất bại việc thọ trì.
Thế nào là thọ trì việc ở tùy chỗ gặp được?
Chẳng thích ở chỗ mà mọi người ham muốn được ở, chẳng buồn phiền khi phải rời khỏi chỗ mà kẻ khác muốn mình phải nhường; biết được chỗ lỗi lầm đòi ở chỗ tốt đó, thấy được công đức của việc cứ ở tuỳ chỗ nào gặp được, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi bỏ sự tham muốn được ở chỗ tốt, và thọ trì việc ở tuỳ chỗ gặp được. (= gặp đâu ở đó mà chẳng khen chê).
Thế nào là công đức của việc ở tùy chỗ gặp được? Tìm nơi biết đủ, mến sự tịch tịnh (= thanh vắng), lià bỏ mọi tiện nghi ưa thích, được người đời kính trọng, an trú trong tâm từ bi. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.
Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại? Dứt trừ sự tham muốn về nơi chốn an nghỉ, đó là y theo chỗ vừa gặp được. Nếu đến nơi nào khác vui thích hơn, thì gọi là thất bại.
Thế nào là thọ trì việc thường ngồi chẳng nằm?
Nơi chỗ cư trú, thường hay ngủ nghỉ, lười nhác; biết được lỗi lầm đó, thấy được công đức của việc thường ngồi chẳng nằm, nên tự nguyện, kể từ hôm nay, tôi dứt bỏ việc nằm ngủ mê, thọ trì việc thường ngồi chẳng nằm.
Thế nào là công đức của việc thường ngồi chẳng nằm? Dứt trừ sự lười nhác khiến thân dễ bị bịnh tật, tránh được các thú vui ô nhiễm đến cảm xúc, bớt được sự lừ đừ buồn ngủ, thường trầm lặng nhiều, kham tu thiền cao. Người lành theo hạnh nghiệp nầy được sự chẳng nghi nan.
Thế nào là thọ trì? Thế nào là thất bại? Biết thọ trì thì cắt đứt được việc nằm dài ngủ mê. Nếu lăn ra ngủ say thì thất bại.
Thế nào là châm chước thọ trì về y phấn tảo?
Nếu được cư sĩ cúng thí áo sô, áo gai, áo vải, áo nỉ các loại, với sự châm chước (ở đây, có nghiã là linh động giảm bớt, chế bớt) mà nhận, thì chẳng thất việc thọ trì y phấn tảo.
Thế nào là châm chước việc thọ trì ba y? Nếu phải giữ áo dư lại quá mười ngày, áo vào dịp lễ dâng y, hay các áo tạm kê đầu nằm, phủ giường, băng bó nhọt trên da, khăn tay, khăn tắm, thì chẳng được nhận, nếu đó là của thí bất tịnh (bất tịnh = ý nói, của đã dùng để bố thí chẳng được trong sạch). Nếu châm chước dùng thì chẳng thất việc thọ trì tam y.
Thế nào là châm chước việc thọ trì khất thực? Nhận thực phẩm hiến chung cho Tăng đoàn, thực phẩm thường trú (được cung cấp đều đặn), thực phẩm cấp theo phiếu, thực phẩm cấp hàng nửa tháng, thực phẩm vào dịp lễ Bố tát, thực phẩm chung cho mọi người, thực phẩm hiến cho tu viện, thì có thể châm chước, chẳng thất lỗi trong việc phải đi khất thực. Thấy có chút lỗi gì trong việc nhận thực phẩm, thì chẳng nhận.
Thế nào là châm chước việc khất thực theo thứ lớp? Thấy ngoài cửa có voi ngựa đang đấu cắn nhau (...), nên tránh đi; hoặc thấy chiên-đà-la (= người giai cấp hạ tiện) đang che bát, hoặc Tỳ-kheo theo hoà thượng hay a-xà-lê (= vị giáo thọ), thì cũng châm chước mà vượt qua, chẳng thất lỗi về việc khất thực theo thứ lớp.
Thế nào là châm chước về việc chỉ một lần ngồi ăn? Nếu đang ăn đúng giờ mà thấy có voi, ngựa, rắn, hoặc có hoà thượng, a-xà-lê, khách Tỳ-kheo đến, thì có thể châm chước đứng lên chào kính, xong rồi ngồi ăn tiếp, cũng chẳng thất lỗi về việc chỉ một lần ngồi ăn.
Về hai việc: khéo đo lường bữa ăn, quá giờ chẳng ăn, thì chẳng thể có sự châm chước nào cả.
Thế nào là châm chước về việc ngồi nơi nhàn tịnh? Nếu vì đi dự các lễ thọ giới, sám hối, giảng pháp, bố-tát (= lễ đọc tụng Giới luật), tự tứ (lễ chấm dứt mùa an cư kết hạ), hoặc vì mình bị bịnh, hoặc đi săn sóc người bịnh, giải đáp thắc mắc trong Kinh, và các dịp khác tương tợ, mà phải đi vào làng xóm, thì chẳng thất lỗi về việc ngồi nơi nhàn tịnh.
Thế nào là châm chước về việc ngồi dưới bóng cây? Nếu gặp mưa, thì vào trú nơi có che lợp, trời tạnh thì trở ra lại mà chẳng thất lỗi về việc ngồi dưới bóng cây.
Về các việc: ở chỗ trống chẳng che, ở nơi mồ mả, ở tùy chỗ gặp được, sự châm chước cũng tương tự, có thể tìm nơi có che lợp mà tạm trú.
Về việc thường ngồi chẳng nằm, chẳng có sự châm chước nào. Nhưng có thuyết cho rằng, khi nhểu thuốc vào lỗ mũi, thì có thể châm chước mà chẳng thất lỗi về việc thường ngồi chẳng nằm.
Mười ba hạnh Đầu-đà thành mãn thì qui về tám pháp. Như trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng) có nói đến tám pháp đó: hạnh quá giờ chẳng ăn bao gồm cả hạnh khéo đo lường bữa ăn và hạnh chỉ một lần ngồi ăn; thọ trì hai hạnh nầy thì cả ba hạnh thành chung một loại. Còn hạnh ngồi nơi nhàn tịnh thì thâu nhiếp (= bao gồm vào) cả ba hạnh: ngồi dưới bóng cây, ở chỗ chẳng che và ở nơi mồ mả. Tại sao lại ngồi nơi nhàn tịnh? Nếu mưu tính xây cất nhà cửa, ham thích làm công việc lắm tiền, nhiều nơi chất chứa, tham đắm chỗ ở, tâm chẳng được an vui mà làm như vậy, nên ý liền nghĩ đến việc ngồi dưới bóng cây, ở chỗ chẳng che, nơi mồ mả, là nơi trú ngụ thanh nhàn an tịnh. Do đấy mà thành tám pháp.
Tám hạnh đầu-đà lại qui về ba pháp. Đó là: thứ nhứt, ở nơi nhàn tịnh; thứ hai, y phấn tảo; thứ ba, đi khất thực. Nếu thọ trì ba hạnh đầu-đà nầy được thanh tịnh, thì toàn thể các hạnh đầu-đà đều thành mãn. Như Đức Phật đã quở Tôn giả Nan-đà: "Đến thời nào mới thấy ông thọ trì thành tựu: ngồi nơi nhàn tịnh, thọ y phấn tảo, quá giờ chẳng ăn, trong khi ông vẫn còn lo nâng niu thân mạng, chẳng nhận thấy ra chỗ tham dục (= tham đắm thú vui)?
Hỏi: Thế nào là đầu-đà phần? Đầu-đà có mấy loại pháp? Hạng người nào có thể tu hạnh đầu-đà? Hành hạnh đầu-đà, phải tùy vào thời tiết cách nào?
Đáp: Có mười ba hạnh đầu-đà do Đức Phật thuyết giảng. Đó là những giới luật do Đức Phật chế đặt ra và được gọi là Đầu-đà phần (= các yếu tố tạo nên các hạnh đầu-đà).
Trong ba hạng người thiện, bất thiện (= chẳng lành) và vô ký (= chẳng thiện chẳng ác), chẳng nên giảng hạnh đầu-đà cho người bất thiện. Tại sao? Vì người bất thiện, với sự ham muốn điều dữ ác, và với sự tham lam lợi dưỡng mà khởi lên sự phi pháp, do đó, chẳng giảng hạnh đầu-đà cho kẻ bất thiện.
Đầu-đà có mấy loại pháp? Có hai pháp: bất tham và bất si (bất = chẳng; si = ngu tối, si mê). Như Đức Phật bảo: "Tỳ-kheo nào thọ trì y phấn tảo, thì được ít muốn biết đủ, yên vui chẳng nghi nan, được sự giải thoát, nên được gọi là người thọ trì y phấn tảo." Các hạnh đầu-đà còn lại, cũng như thế, đều là bất tham, bất si. Do sự bất tham đó mà trừ được sự tham dục (= ham muốn) tại mười ba chỗ trong mười ba hạnh đầu-đà. Do sự bất si đó mà trừ được sự vô minh (= chẳng sáng, tức là sự si mê ngu tối) cũng tại mười ba chỗ.
Lại nữa, do sự bất tham đó, như Đức Phật có hứa khả, mà khởi sanh sự nhàm chán, tương tợ như sự chẳng nghi nan, trừ được chỗ nhiễm dơ của dục vọng (= ham muốn) và dối gạt. Do sự bất si đó, cũng giống như thế, trừ được sự mỏi mệt của thân thể, và sự dối gạt. Đấy là hai pháp đầu-đà: bất tham và bất si vậy.
Thế nào là ba hạng người tu hạnh Đầu-đà? Đó là người tham, người sân và người si. Người sân khuể (= hay giận hờn) chẳng thể tu hạnh Đầu-đà. Tại sao vậy? Hạng người tham, si (si mê, ngu tối) có thể tu được; như người tham vì quá luyến ái mà sanh ra lười nhác, nay nếu bỏ được sự lười nhác đi thì có thể trị dứt sự tham cũng như sự ngu tối, trở nên chẳng nghi nan mà theo hạnh đầu-đà, rồi dứt được sự lười nhác. Nếu chẳng lười nhác, ắt khắc phục được sự si mê. Tại sao chỉ có người tham và người si tu được hạnh đầu-đà? Vì người sân chẳng thể thọ trì hạnh đầu-đà được, nếu cố mà thọ trì, cũng chỉ làm tăng thêm điều ác (tức là giận hờn), tựa như người bị bịnh đàm nếu dùng thang thuốc nóng chỉ làm bịnh tăng thêm thôi. Vì lẽ đó, người hay giận hờn chẳng nên tu theo hạnh Đầu-đà.
Lại có thuyết cho rằng, người hay giận hờn cũng có thể thọ trì được hai: hạnh ngồi nơi nhàn tịnh và hạnh ngồi dưới bóng cây; vì lẽ khi ở tại hai nơi nầy, thì ít thấy những nỗi khổ của thế gian.
Về thời tiết khi tu hạnh Đầu-đà, thì ba hạnh ngồi dưới bóng cây, ở chổ trống chẳng che, ở nơi mồ mả, có thể tu tập trong tám tháng. Vào mùa An cư (mùa mưa), Đức Phật cho phép vào trú trong những nơi có che lợp.
Hỏi: Thế nào là Đầu-đà thuyết giảng về hạnh đầu-đà?
Đáp: Có Đầu-đà thuyết giảng về hạnh đầu-đà, cũng có Đầu-đà chẳng thuyết giảng về hạnh đầu-đà, có Phi đầu-đà (Phi = chẳng phải) thuyết giảng về hạnh đầu-đà, có Phi đầu-đà chẳng thuyết giảng về hạnh đầu-đà.
Thế nào là Đầu-đà thuyết giảng về hạnh đầu-đà? Đó là bực A-la-hán đã thành tựu hạnh đầu-đà.
Thế nào là Đầu-đà chẳng thuyết giảng về hạnh đầu-đà? Đó là bực A-la-hán chẳng thành tựu hạnh đầu-đà.
Thế nào là Phi đầu-đà thuyết giảng về hạnh đầu-đà? Đó là bực học nhơn (kẻ còn đang tu học) và phàm phu (người thường) đã thành tựu được các hạnh đầu-đà.
Thế nào là Phi đầu-đà chẳng thuyết giảng về hạnh đầu-đà? Đó là bực học nhơn và phàm phu chẳng thành tựu các hạnh đầu-đà.
Hỏi: Tướng, Vị và Khởi của hạnh đầu-đà là gì?
Đáp: Hình tướng của hạnh đầu-đà là sự ít ham muốn. Đạo vị của hạnh đầu-đà là sự biết đủ. Sự phát khởi của hạnh đầu-đà là sự chẳng nghi nan.
Lại nữa, hình tướng của hạnh đầu-đà còn là sự chẳng bị ràng buộc; đạo vị của hạnh đầu-đà còn là sự tiết độ và sự khởi phát của hạnh đầu-đà còn là sự chẳng lùi sụt.
Thế nào là các giai đoạn của hạnh đầu-đà? Thọ trì là giai đoạn đầu, tu hành là giai đoạn giữa, và niềm vui lành là giai đoạn chót.
Phẩm 4: Phân biệt về Định
Hỏi: Vào thời kia, người ngồi thiền đã giữ giới luật được thanh tịnh, đang an trú trong cảnh giới thiện lành nhứt, cần nên làm thêm điều gì?
Đáp: Là khiến cho định được khởi lên.
Hỏi: Thế nào là định? Hình tướng của định ra sao? Định có công năng (= vị) gì? Khởi lên ra sao? Do đâu (= xứ) mà ra? Người nào thọ nhận thực hành? Thiền, giải thoát, định (-tâm), chỉ (= ý ngưng lại), cảm thọ khác nhau ra sao? Có bao nhiêu nguyên nhân đưa đến định? Điều gì làm định khởi lên, làm định bị trở ngại? Có mấy pháp về định? Công đức của định có những gì? Cần bao nhiêu điều có trước rồi định mới khởi lên? Có mấy loại định? Định khởi lên cách nào?
Đáp: Định có nghiã là tâm thanh tịnh, gom về một hướng, tinh tấn và vắng lặng an trú trong chơn lý chơn chánh, chẳng hề bị loạn động.
Lại nữa, ngọn gió mãnh liệt của phiền não chẳng thể làm nghiêng ngả được tâm tư, cũng tựa như ngọn đèn chẳng lay động treo trong đại sảnh nơi cung điện. Như có nói trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng): "Nếu tâm an trú đúng đắn, chẳng bám vịn vào đâu, cũng chẳng loạn động, yên vắng, chẳng bị ràng buộc, khiến cho định căn (= khả năng đắc được Định) và định lực sức mạnh của Định được đúng đắn; đó gọi là định."
Định: hình tướng, công năng, khởi lên ra sao và từ đâu?
Tâm an trú là hình tướng của định. Điều phục được sự oán hờn là vị của định (hay công năng của Định, tức là nhờ Định mà dẹp bỏ được oán hờn). Yên vắng là sự khởi phát của định. Vào chỗ ô nhiễm chẳng bị nhuốm dơ, tâm được giải thoát, đó gọi là nơi (xứ) mà định được khởi phát lên.
Người đang tập định như thế nào? Tâm, tâm sở (= các tâm trạng), và các phương tiện (= ở đây có nghiã là khả năng), đều quân bình (= ngang nhau), tựa như tay cầm cây cân đòn, như dầu đựng trong chén. Chánh niệm và tinh tấn cùng đi song hành ngang nhau, cũng tựa như bốn con ngựa, sức mạnh đồng nhau, cùng kéo một cổ xe. Các nghĩ suy đứng dừng lại, như người thợ làm tên đang chú tâm vót tên cho thật thẳng. Định cũng như liều thuốc giải được chất độc, vì định làm tiêu nỗi oán hờn.
Như A-tỳ-đàm có nói: "Ý nghiã của Định là sự liễm nhiếp" (liễm = thâu góp lại; nhiếp = thay thế và bao trùm hết lại). Theo ý nghiã nầy của chữ Định là có được một định nghiã hàm súc đầy đủ.
Thiền, là nói tới sơ thiền cho đến tứ thiền.
Giải thoát, là nói đến tám pháp giải thoát, như pháp "có sắc tướng bên trong, quán sắc bên ngoài" và bảy pháp khác.
Định, là nói đến ba pháp định: có giác (= biết, còn gọi là tầm), có quán (= suy tư, còn gọi là tứ) và vân vân.
Chánh thọ nói đến chín cấp bực thiền định.
Thiền là gì? Đó là tư duy (= suy nghĩ) về sự (= đối tượng), suy xét về điều oán hờn, làm cho tâm được sự mừng vui, thoát các chướng ngại, khiến tâm trở nên bình đẳng, có đủ phương tiện để đắc định, được sự tự tại (= tự do, ở đây có nghiã đã thuần thục, chẳng còn ngại gì), chẳng dùng đến hai nghiã (= liễu nghiã, nghiã rốt ráo; bất liễu nghiã, nghiã còn chưa rốt ráo), mà vẫn trú vào chánh thọ, để được giải thoát.
Định đem đến các công đức nào? Thấy có bốn công đức khi định được khởi lên. Bốn công đức nào? Đó là: hiện được an trú trong nguồn vui của Pháp, vui hưởng tất cả sự vật nhờ quán tưởng, chứng được thần thông, vươn lên đến khắp mọi cõi.
Thế nào là "hiện được an trú trong nguồn vui của Pháp"? Người đắc định sanh ra vô lậu (= dứt sạch các phiền não), tâm sảng khoái nếm được niềm vui xuất thế, hiện thấy được và an trú trong nguồn vui của Chánh Pháp. Do đó, Thế Tôn có nói: "Người ấy thân giữ trong sự tĩnh lặng, sanh ra mừng được sự mát mẻ khiến cho từ từ được thành tựu hoàn toàn đầy đủ." Lại nữa, Đức Phật có bảo các Tỳ-kheo rằng: "Trước ta tập hạnh Ni-càn-tử (Nigantha, phái khổ hạnh loã thể), bảy ngày bảy đêm thân chẳng lay động, miệng chẳng mở lời, ngồi im lặng hưởng thọ niềm an lạc." Đó là thấy được Pháp và hiện an trú trong nguồn vui của Thánh Pháp.
Thế nào là "vui hưởng tất cả mọi sự vật nhờ quán tưởng"? Người ngồi thiền được định, tâm chẳng bị năm triền cái bao phủ (triền cái = năm món che đậy), trở nên mềm dịu dễ kham việc quán tưởng các sự vật, phân biệt rõ ràng các ấm (năm uẩn = sắc, thọ, tưởng, hành, thức), các nhập (sáu nhập = mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), các giới (= mười tám giới, từ nhãn giới đến ý thức giới), nên được sự tư tại, an lạc (đối với sự vật và hoàn cảnh). Vì thế, Thế Tôn dạy, chư Tỳ-kheo nên tu hành như thế, dùng định tâm quán sát tất cả để biết muôn sự vật đúng y như thật.
Thế nào là "chứng được thần thông"? Người đã đắc định tâm chứng được năm môn thần thông là như ý túc (biến hiện theo ý muốn), thiên nhĩ (lỗ tai Trời nghe xa), tha tâm (biết ý nghĩ kẻ khác), túc mạng (biết được đời kiếp trước), thiên nhãn (mắt Trời). Vì thế, Thế Tôn có nói, tâm đã đắc định, thì tùy nghi chuyển biến mọi sự như thể theo ý mình muốn.
Thế nào là "vươn lên đến khắp mọi cõi" (nguyên văn: hữu cụ túc; hữu, ở đây, có nghiã là cõi, ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới)? Người đã được định tâm, dầu chưa đến bực vô học (= bực A-la-hán, đã dẹp xong tất cả phiền não, nên chẳng cần học thêm nữa) nhưng rốt ráo cũng được chẳng lùi sụt. Nhờ định mà được báo thân (= thân còn chịu nghiệp báo) sanh vào cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, vươn lên khắp mọi cõi. Như Đức Phật có nói: "Dầu người tu chút ít về sơ thiền cũng được sanh làm quyến thuộc (= bà con thân thích) của Đức Phạm Thiên (trên cõi Trời sắc giới); tất cả mọi chủng loại đều được như thế cả."
Trên đây là bốn công đức khởi lên nơi người đắc định.
Có mấy chướng ngại cho định tâm? Có tám: thú vui (làm thoả mãn các giác quan), giận hờn, lười biếng, mê ngủ, đùa bỡn, nghi hoặc, vô minh (= si mê), chẳng mừng vui. Tất cả các điều dữ ác đều làm trở ngại cho định tâm.
Có mấy nguyên nhân khởi lên Định? Có tám nguyên nhân khiến cho tâm được định: dứt bỏ, chẳng giận, tướng sáng (= sự thông minh, có trí huệ), chẳng xao động, và tất cả các pháp thiện lành khiến tâm mừng vui sanh ra trí huệ.
Các điều nào cần phải có rồi định mới khởi? Có bảy loại: giới, vừa ý biết đủ, che giữ các căn, ăn uống có tiết độ, đầu hôm nửa đêm và hừng sáng chẳng mê ngủ, thường niệm trí huệ, ở nơi vắng lặng.
Định có mấy loại? Định có hai loại: thứ nhứt, thế gian định; thứ hai, xuất thế gian định. Việc đắc được các Thánh quả (= bốn quả vị Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán) thuộc về định xuất thế gian (xuất thế, ở đây, có nghiã là vượt khỏi sự ràng buộc của cuộc đời thế tục). Các thứ Định còn lại đều thuộc về thế gian định. Các thứ định thế gian nầy còn hữu lậu (= còn phiền não), còn kết sử (= điều trói buộc và sai sử), còn ràng buộc, là nước lụt, là ách nặng, là che úp, là cướp giới cuớp chánh kiến, là bám níu, là phiền não. Có đối trị được với các hình tướng của các định thế gian rồi thì mới đáng gọi là định xuất thế.
Lại nữa, định có hai loại: tà định và chánh định. Thế nào là tà định? Chẳng khéo giữ nhứt tâm, đó gọi là tà định. Khéo giữ nhứt tâm gọi là chánh định. Tà định cần được dẹp bỏ; chánh định cần nên tu tập.
Lại nữa, định có hai loại: ngoại định và an định. Phần định mới khởi đầu thì gọi là ngoại định. Trừ được sự gián đoạn ngăn cách rồi mới gọi là an định.
Lại nữa, định có ba loại: định có giác có quán, định chẳng giác ít quán và định chẳng giác chẳng quán. Thế nào là định có giác có quán? Đó là Sơ thiền (= thiền cấp 1) có giác (còn gọi là tầm), có quán (còn gọi là tứ); Nhị thiền (= thiền cấp 2) hết giác mà còn chút ít quán. Các cấp thiền còn lại thì chẳng có giác chẳng có quán.
Lại nữa, định có ba loại: định sanh có mừng sanh, định sanh có vui sanh, định sanh có xả sanh. Nơi Sơ thiền và Nhị thiền, định sanh ra cùng với nỗi mừng (= hỉ). Nơi Tam thiền, định sanh cùng với niềm vui (= lạc). Nơi Tứ thiền, định khởi lên cùng với niệm buông xả (= xả).
Lại nữa, định có ba loại: thiện định, báo định và sự định. Thế nào là thiện định? Người tu học Thánh đạo, cùng với người thường tu sắc định và vô sắc định, đó gọi là thiện định (= định khéo). Còn người tu học Thánh quả cùng với phàm phu được sanh cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, đó gọi là báo định (được định nhờ nghiệp báo). Bực vô học (đã chứng quả vị A-la-hán) được sắc định và vô sắc định, đó gọi là sự định (định có đối tượng thực tại).
Lại nữa, định có bốn loại: dục định, sắc định, vô sắc định, vô sở thọ định. Tất cả các hành động được làm theo đúng chánh thọ, đó là dục định. Bốn cấp thiền là sắc định. Bốn cấp vô sắc định và nghiệp báo lành là vô sắc định. Bốn thánh đạo và bốn thánh quả là vô sở thọ định.
Lại nữa, có bốn cách tu hành về định: độn trí khổ tu, lợi trí khổ tu, độn trí vui tu, lợi trí vui tu. (độn căn, độn trí = có trí chậm chạp; lợi căn, lợi trí = có trí thông minh lanh lợi). Có bốn hạng người nầy: thứ nhứt, có nhiều phiền não sâu dầy; thứ hai, phiền não thưa thớt; thứ ba, căn trí lanh lợi; thứ tư, trí óc cùn nhụt.
Nơi người độn căn còn nhiều phiền não sâu dầy cần tu hành khó nhọc thì độn trí mới đắc định. Nơi người lợi căn mà phiền não còn sâu dầy, cần khổ tu thì lợi trí đắc định. Nơi người độn căn mà phiền não thưa thớt, nếu vui tu thì độn trí đắc định. Nơi người lợi căn mà phiền não thưa thớt, nếu vui tu thì lợi trí đắc định.
Như thế, người phiều não sâu dầy, vì cớ còn phiền não cần phải chiết phục (= dẹp, trừ bỏ), do đó việc tu hành mới khó nhọc. Người độn căn, vì cớ căn cơ chậm chạp, cần hành thiền lâu dài để làm thức dậy trí óc cùn nhụt, do đó trước mới gọi đó là độn trí. Dùng phương tiện đó để phân biệt tất cả.
Lại nữa, định có bốn loại: định nhỏ về sự việc nhỏ, định nhỏ về sự việc vô lượng, định vô lượng về sự việc nhỏ, định vô lượng về sự việc vô lượng.
Thế nào là định nhỏ về sự việc nhỏ? Định chẳng theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc nhỏ, vì ít tinh tấn, đó gọi là định nhỏ về sự việc nhỏ. Thế nào là định nhỏ về sự việc vô lượng? Định chẳng theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc vô lượng, với nhiều tinh tấn, đó gọi là định nhỏ về sự việc vô lượng. Thế nào là định vô lượng về sự việc nhỏ? Định theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc nhỏ, với ít tinh tấn, đó gọi là định vô lượng về sự việc nhỏ. Thế nào là định vô lượng về sự việc vô lượng? Định theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc vô lượng, với nhiều tinh tấn, đó gọi là định vô lượng về sự việc vô lương.
Lại nữa, định có bốn loại: dục định, tinh tấn định, tâm định, huệ định. Dục định là y theo ý muốn mà tu đắc định. Y theo sự tinh tấn mà tu đắc định gọi là tinh tấn định. Y theo tâm mà tu đắc định gọi là tâm định.Y theo trí huệ mà tu đắc định,gọi là huệ định.
Lại nữa, định có bốn loại: định Phật đắc Thanh văn chẳng đắc được, định Thanh văn đắc mà chẳng phải chỗ Phật đắc, định Phật đắc, Thanh văn cũng đắc, định chẳng phải chỗ đắc của Phật và của Thanh văn. Định đại bi, định song biến là chỗ đắc của riêng Phật, hàng Thanh văn chẳng đắc được. Định về quả vị hữu học (= ba quả đầu tiên của Thanh văn) là chỗ đắc của hàng Thanh văn, chẳng phải của Phật. Định cửu thứ đệ (chín cấp từ sơ thiền đến diệt tận định) và định về quả vị vô học (= cấp A-la-hán trở lên) là chỗ đắc của Phật và Thanh văn. Vô tưởng định chẳng phải là chỗ đắc của Phật và Thanh văn.
Lại nữa, định có bốn loại: (1) định duyên khởi duyên diệt, (2) định duyên diệt chẳng duyên khởi, (3) định duyên khởi chẳng duyên diệt, (4) định chẳng duyên khởi chẳng duyên diệt.
Hỏi: Thế nào là duyên khởi chẳng duyên diệt?
Đáp: Nơi cõi dục giới, định khéo và định chẳng khéo là định duyên khởi chẳng duyên diệt. (Duyên khởi = làm nhơn duyên cho sự khởi sanh ra; duyên diệt = làm nhơn duyên gây ra sự tiêu diệt). Định về về bốn Thánh đạo là định duyên diệt chẳng duyên khởi. Định khéo của bực hữu học và của phàm phu về cõi sắc giới và cõi vô sắc giới là định vừa duyên khởi vừa duyên diệt. Tất cả các định về quả vị và sự định đều là định chẳng duyên khởi chẳng duyên diệt.
Lại nữa, định có bốn loại: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Lià được năm triền cái và thành tựu được giác (= tầm), quán (= tứ), hỉ (= mừng), lạc (= vui), nhứt tâm (= tâm an trú), đó là Sơ thiền. Lià được giác, quán và thành tựu được ba thiền chi (= gồm có hỉ, lạc và nhứt tâm) là Nhị thiền. Lià thêm được hỉ và thành tựu hai thiền chi (gồm có lạc và nhứt tâm) là Tam thiền). Lià được lạc và thành tựu được xả và nhứt tâm thì được Tứ thiền.
Lại nữa, định có năm loại: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và ngũ thiền. Ngũ thiền tức là năm thiền chi: giác, quán, hỉ, lạc, nhứt tâm. Lià được năm triền cái, thành tựu được năm thiền chi, đó gọi là Sơ thiền. Lià giác, thành tựu bốn thiền chi, đó gọi là Nhị thiền. Lìa hỉ và thành tựu hai thiền chi, đó gọi là Tam thiền. Lià thêm lạc và thành tựu hai chi còn lại, tức là xả và nhứt tâm, thì đắc Tứ thiền.
Hỏi: Tại sao lại nói tứ thiền cùng với ngũ thiền?
Đáp: Vì tùy theo hai hạng người khác nhau mà Nhị thiền có tới hai loại: loại (1) chẳng giác chẳng quán, và loại (2) chẳng giác mà còn chút ít quán. Vì thế, nên có ngũ thiền.
Hỏi: Bằng cách nào người ngồi thiền chuyển từ Sơ thiền sang Nhị thiền?
Đáp: Nơi giác và quán còn thô, người ngồi thiền thâu nhiếp niệm tư duy lại, rồi thấy các sự bất lợi của giác và của quán, liền khởi lên sự chấm dứt giác, quán, nơi Nhị thiền. Bằng cách đó, người ấy tuần tự tu tiếp cho đến Tứ thiền.
Lại có người khác cũng từ Sơ thiền chuyển khởi sang Nhị thiền. Người ấy từ giác còn thô, thâu nhiếp sự tư duy lại, nhận được sự bất lợi của giác, đồng thời thấy ra mất giác còn chút ít quán, nên khởi lên được Nhị thiền. Do theo đấy, người ấy tuần tự tu cho đến Ngũ thiền. Vì lẽ đó mà có nói đến Ngũ thiền.
Lại nữa, có năm loại định được gọl là năm phần của chánh thọ: hỉ mãn, lạc mãn, tâm mãn, quang mãn và quán tưởng. Nơi Sơ thiền và Nhị thiền, tràn đầy nỗi mừng (hỉ mãn = mừng tràn đầy). Nơi Tam thiền, niềm vui tràn đầy (lạc mãn = vui tràn đầy). Biết được tâm của kẻ khác, đó gọi là tâm mãn (= tâm mở rộng ra khắp). Có được thiên nhãn thông (= mắt Trời thấy xa), đó gọi là quang mãn (quang = ánh sáng; mãn = tràn đầy). Theo dõi được mọi tư tưởng, định khởi lên quán sát trí, đó gọi là quán tưởng.
Lại nữa, định có năm loại gọi là năm trí chánh định. Định đó do từ niềm vui trong hiện tại và vị lai, theo thân trí mà khởi lên. Định đó được bực Thánh thực hành, chẳng còn phiền não. Định đó được bực trí huệ tu tập. Định đó yên vắng, khoái lạc, nhưng dầu chỗ đắc là vô song nhưng vẫn còn chưa khuất phục được việc sanh tử. Định đó an vui cao nhứt, theo tánh của chỗ sở đắc vẫn chẳng khuất phục được sanh tử và ngã kiến. Định đó, niệm nhập (nhập = vào), niệm khởi đều y vào thân trí mà khởi lên.
Lại nữa, đã phân biệt phạm vi của định, sự tu hành với các giai đoạn đầu, giữa và chót, đã biết định có nhiều loại, nhưng cũng nên hiểu rằng tất cả định đều qui về bốn loại thôi.
Phẩm 5: Tìm gặp Thiện tri thức
Hỏi: Vào thời đó, làm sao khởi lên định?
Đáp: Người mới tập ngồi thiền, nếu muốn thiền định khởi lên, cần nên tìm gặp bực thiện tri thức. Tại sao? Người mới tập thiền muốn đắc được định thật cao mà xa lìa bực thiện tri thức thì chẳng đạt được sự ổn định, như trong Kinh có nói: "Có Tỳ-kheo Vân (= Meghiya) kia gặp phải sự thoái sụt"; như người lữ khách đơn độc, chẳng bạn đồng hành chỉ dẫn, tự ý mình đi đến một nước xa xôi; như voi chẳng có câu liêm kềm thúc (câu liêm = gậy dài đầu bằng sắt hình móc câu, để thúc đuổi voi). Nếu người tu hành ngồi thiền gặp được thiện tri thức giảng dạy cho giáo pháp, biết thọ trì và tránh được các lỗi lầm, theo đúng đường lành, tinh cần tu tập, sẽ đắc được định cao nhứt. Bực thiện tri thức cũng như người buôn bán giàu có được mọi người kính trọng, như một người thân thiện, như cha mẹ mình, như dây buộc voi chẳng cho động đậy, như người cầm cương muốn xe chạy tới hay ngừng lại tùy ý mình, như kẻ lái thuyền biết chọn đúng đường, như vị y sĩ trị bịnh cho thuốc thang để tiêu trừ khổ sở, như trận mưa rào tưới nhuần muôn vật, như cha mẹ nuôi con khuyên con, tránh cho con các điều nguy hiểm, như bạn hiền đến giúp ích đỡ đần, như bực thầy răn dạy. Tất cả các pháp lành theo đó mà được thành mãn.
Bởi thế nên Thế Tôn có dạy Tôn giả Nan-đà rằng: "Tất cả Phạm hạnh đều do thiện tri thức." Vì vậy, cần phải tìm gặp cho được bực người chí thiện mà kết tình bằng hữu.
Thế nào là thiện tri thức cao nhứt? Đó là hạng người đã thành tựu được sự thông hiểu thấu đáo: một mặt, thông đạt Kinh Tạng, Luận Tạng và Luật Tạng và mặt khác, hiểu rõ về nghiệp chủng (= các nhân duyên tạo nghiệp), về Tứ Đế (= bốn Chơn lý nhiệm mầu: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế) ), và đắc các pháp lành về thần thông. Hạng người nào đã thành tựu hai loại công đức đó, chính là những bực thiện tri thức cần phải tìm gặp.
Nếu chẳng gặp người đã thành tựu được như trên, thì nên tìm gặp những bực có đủ bảy đức tánh tốt, kể ra sau đây.
Thế nào là bảy đức tánh tốt? Các đức tánh đó là: khả kính ái, đáng trọng, đáng qúi, khéo giảng, nhẫn nhục, lời cao thâm, chẳng ở nơi chẳng phải chỗ.
Thế nào là khả kính ái? Đó là người biết thực hành y theo hai điều thường khéo giảng: tâm vui chung sống, hoà giải chẳng gây khó khăn. Đáng trọng là giới hạnh thanh tịnh, giữ tròn chánh niệm, chẳng ham nói nhiều. Đáng qúi là thành tựu việc tu huệ, biết trọng việc ngồi thiền. Khéo giảng là lời nói khả ái, đáng qúi trọng và có hiệu quả; sự suy nghĩ theo đúng chơn lý, có lợi ích cho mọi người; sự tôn trọng pháp, biết khắc phục các điều chẳng nên làm, tuân hành cho đến cuối chẳng bỏ sót. Nhẫn nhục là như bực hiền thánh hiểu rõ ngay, chẳng chút ngập ngừng, các lời nói nịnh hót, lời nói bao quát (...). Lời cao thâm là thông đạt nghiệp quả, phân biệt rõ về tưởng niệm, tác ý, chấp trước đều do sự chấp tướng mà ra; khéo giảng các điều đúng pháp, còn điều chẳng đúng pháp, phiền não, chấp tướng, thì khuyên nên diệt bỏ hết. Chẳng ở nơi chẳng phải chỗ là nơi quê cha đất tổ, nơi hành nghề mà nếu có sự tán tụng ràng buộc thì chẳng nên ở; còn nơi sở làm được an ổn thì nên ở.
Người nào đã hội đủ bảy đức tánh tốt vừa nói, là bực thiện tri thức mà ta phải cần tìm gặp.
Hỏi: Tìm gặp thiện tri thức cách nào?
Đáp: Nếu biết xóm ấp nào, nơi trú ngụ nào có vị thiền sư đầy đủ các đức tánh khả kính, thì nên tìm đến. Nếu mình chẳng biết được mà các bạn đồng tu ở nơi khác biết được, thì nên đi đến đó hỏi han. Gặp lúc hợp thời, theo đúng pháp, còn chưa nói thẳng ra ý định của mình, nên đến đấy, sau khi cung kính thăm hỏi, mới mở lời thưa: "Ở xứ nào, ở vùng nào, có thiền đường nào, có vị thiền sư nào, công đức được mọi người qúi mến?"Nên thưa hỏi như thế. Vị đồng tu đáp: "Ở xứ đó, ở vùng đó, có thiền đường đó, có vị thiền sư đó, được mọi người kính ái."
Nghe được như thế, lòng vui nghĩ sâu xa đến điều đó, liền lên đường đi đến nơi đã chỉ, để được gần gũi bên thiền sư mà tu hành. Y phục chỉnh tề, đi đến bên Hoà thượng, tự nói lên ý vui mừng được gặp Hoà thượng: "Bạch Hoà thượng, xin Ngài nghe con nói, con nay đến hầu Hoà thượng, để được tu tập gần bên một vị thiền sư." Hoà thượng liền đáp: "Lành thay! Ta cũng rất hoan hỉ. Việc nầy là việc làm của người lành, nơi sống chung của người lành, nơi học tập của người lành, nơi tu hành đúng pháp của người lành. Nghe thấy như thế đã có lợi ích lớn, huống hồ là được cùng ở chung. Ông nên đến đấy, ông đã tới đây rồi, thì đừng bao giờ sanh lười biếng nhé."
Người thiện nhơn chuyên cần tu học, chẳng những trong nhứt thời mà luôn luôn ở mọi thời, gia tăng lòng kính tín nơi bực thầy của mình, giữ gìn lời nói cho khéo, thân miệng cho trang nghiêm,thông hiểu rõ ràng, việc tu hành sớm được thành tựu. Mọi việc đều nương đúng theo thầy, chẳng sanh khinh lờn, vâng làm như cô dâu mới về phụng sự mẹ chồng,có lòng biết thẹn với mình,với kẻ khác, khi nghe lời dạy.
Nếu thấy có người đệ tử nào chẳng đủ y phục, thuốc thang, nên theo đúng như pháp mà liệu cách giúp đỡ. Khi nghe thuyết pháp, cho đến việc giữ gìn tư thế đi, ngồi cho đúng thiện pháp, người thiền sanh phải chỉnh tề y phục, cung kính đi vi nhiễu (= chắp tay kính cẩn đi chầm chậm ba vòng quanh thầy) và lễ lạy dưới chơn thầy. Nếu đi nửa đường, bên ngoài vườn, thấy có bờ nước mà muốn tắm, thì đặt y bát (= quần áo và bát đi khất thực) cùng dép cỏ, gáo múc nước, các thiền cụ (= đệm và gối ngồi thiền) vào chỗ cao ráo, rồi bước xuống nước; chẳng tắm gần bờ và tắm chẳng gây tiếng động. Tắm xong, mặc y phục chỉnh tề, khoác áo uất-đa-la-tăng (= áo giữa), còn y bát, thiền cụ thì mang trên vai phải; áo tăng-già-lê (= áo ngoài) cuốn tròn lại hay để lên vai.
Khi đi vào chùa, hạ cây dù xuống, đi nhiễu quanh tháp. Nếu thấy có Tỳ-kheo đến, liền thưa hỏi: "Nơi đây có người ngồi thiền chăng, có Tỳ-kheo mặc áo phấn tảo (= áo may bằng vải vụn lượm ở hố rác) chăng, có khất sĩ chăng, có luật sư (= vị tăng thông thạo về Luật tạng) chăng; nên theo ngõ đường nào mà đến được, tôi muốn tới viếng. Nếu chẳng có các vị đó, thì có luật sư chăng, tôi muốn đến thăm. Nếu chẳng có luật sư, thì ai là vị thượng toạ ở đây, tôi muốn đến gặp."
Nếu gặp vị thượng toạ đại tăng (thượng toạ = vị tăng cao cấp), nên cầm giữ lại y bát, đừng trao; nếu gặp các vị khác còn trẻ thì mới trao y bát; còn nếu chẳng có ai, thì đặt y bát vào một chỗ nào đó. Khi gặp thượng toạ, liền lễ lạy dưới chơn,và ngồi xuống bên cạnh. Một Tỳ-kheo cũ trong chùa theo đúng như pháp, trao cho đệm, nước, chỉ nơi tắm rửa, chỗ cất y bát, phòng vệ sinh, cùng các chỉ dẫn khác. Cứ theo thông lệ, vị khách tăng đi xem vòng quanh bên trong chùa, trước khi mặt trời lặn.
Nếu được tiếp chuyện cùng vị luật sư, liền thưa hỏi về các tội phạm giới mình còn nghi ngờ và các tội còn chưa phạm phải. Nếu gặp được vị Luận sư về A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng), nên thưa hỏi về việc tu huệ, sự phân biệt các ấm, giới, nhập, nghiệp. Nếu gặp một vị đầu-đà (= tu khổ hạnh), nên thưa hỏi về công đức của hạnh đầu-đà có liên quan đến tu huệ.
Nếu lưu lại tại chùa, thì mỗi ngày nên đi tham vấn (= thưa hỏi) mọi nơi. Khi muốn ra đi luôn, nên xếp gói đồ nằm lại, đến lễ lạy dưới chơn vị đại tăng, bạch rõ lý do ra đi.
Đấy là những pháp tắc ứng dụng cho vị khách Tỳ-kheo.
Thiền sinh muốn thân cận vị thiền sư nơi tu viện, phải như thế nào? Nếu vị thiền sư đi đến, dầu là người nhỏ tuổi đi nữa, thiền sinh cũng đỡ lấyvà cầm y bát của người. Người dạy những gì cần làm, thì phải làm, những gì chẳng được làm, thì buông bỏ hết, đó là những điều trước tiên cần phải thực hành tu tập.
Nếu muốn để yên cho kẻ khác đến trước mình hành pháp thiền, thiền sinh nên đứng quan sát nơi trú xứ, tìm chỗ đặt y bát xuống. Một chặp sau, biết đã đúng thời để đến gần gũi thiền sư, thiền sinh liền cung kính lễ bái, xong ngồi yên xuống chờ trong giây lát. Nếu thiền sự có hỏi đến, thiền sinh liền thưa trình chỗ mình mong muốn. Nếu chẳng được hỏi, ắt chẳng thưa trình. Kể từ lúc ấy về sau, từ cây tăm cho đến nước tắm giặt, thảy thảy đều y theo chỉ thị của thầy mà thi hành. Đến giờ đi khất thực, nên thưa hỏi vị xà-lê (a-xà-lê = vị giáo thọ dạy kinh, luật) rồi theo đúng pháp mà dùng bữa. Nếu vị xà-lê đi đến, thì rửa chơn cho người, sửa soạn chỗ ngồi, cầm bát của người và hỏi dùng nhiều ít, rồi sớt thực phẩm trong bát mình sang, phần còn dư lại chia xẻ với các người khác. Cứ như thế mà vâng làm, chẳng có khó khăn tranh cãi.
Khi ăn xong, cầm lấy bát của vị xà-lê đem rửa và cất vào đúng chỗ. Biết đã đúng thời đến thân cận bên thầy, thiền sinh cung kính lễ bái, yên lặng ngồi xuống bên cạnh trong giây lát. Nếu vị xà-lê hỏi đến, tùy lời mà thưa chỗ mình mong muốn. Nếu chẳng được hỏi, liền lễ bái xà-lê và thưa, xin nghe mình trình tấm lòng mình mong muốn xưa nay. Ngưỡng mong được người hứa nghe mình thưa trình. Nếu thầy hứa nghe tất cả, liền trình lên hết. Nếu thầy chẳng hỏi, thì lễ bái A-xà-lê.
Khi biết đúng thời, thiền sinh xin thầy hứa nghe mình nói nguyên do nào mình đã đến đây. Nếu xà-lê hứa nghe hết, thiền sinh liền bạch rõ tất cả điều mong muốn. Xà-lê đáp: "Lành thay! Lành thay! Cứ y như pháp đã dạy mà vâng làm."
Do đó, Thế Tôn có nói Kệ rằng:
Gặp thời mà gần gũi,
Khiến tâm chẳng kiêu mạn,
Phạm hạnh theo muôn pháp
Như cây gặp gió ngưng.
Niệm pháp mà tu hành,
Lòng vui trong pháp lạc.
Hiểu pháp nhờ trú pháp,
Giảng pháp đúng như thật.
Chẳng nên hủy báng pháp.
Lời khéo, sầu, cười, bỡn,
Giận hờn, chớ lười biếng,
Thù hận, tham, kiêu, nghi,
Luyến ái, cùng bạo ác,
Tu hành ắt trừ được.
Giữ nghiã chẳng tự cao,
Biết lành, lời thành thật,
Vì định, nghe biết thật.
Người nếu sống buông lung,
Trí huệ chẳng tăng trưởng.
Nếu biết được Chánh pháp
Trời, người đều kính trọng.
Cung kính thành tín tâm,
Nghe nhiều, giữ gìn pháp,
Theo pháp năng tu hành,
Khiến hiểu biết rộng sâu,
Thành tựu người trí huệ.
Gặp bực thầy như thế,
Nên tu chẳng lười nhác.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 12 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự tham dục


Một trăm truyện tích nhân duyên (Trăm bài kinh Phật)


Hạnh phúc khắp quanh ta


Giải thích Kinh Địa Tạng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.16.255.189 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập