Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh [添品妙法蓮華經] »» Bản Việt dịch quyển số 6 »»

Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh [添品妙法蓮華經] »» Bản Việt dịch quyển số 6


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.83 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.99 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa

Kinh này có 7 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm 17: TÙY HỶ CÔNG ĐỨC
Bấy giờ Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ thì được bao nhiêu công đức?
Rồi nói kệ rằng:
Sau khi Phật diệt độ
Người nào nghe kinh này
Nếu sinh tâm tùy hỷ
Được bao nhiêu công đức?
Khi ấy, Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:
- Này A-dật-đa! Sau khi Như Lai diệt độ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào và những người có trí khác, hoặc lớn tuổi, trẻ tuổi khi nghe kinh này mà tùy hỷ, từ đạo tràng đi đến nơi khác, hoặc nơi nhà Tăng, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường sá, xóm làng, ruộng vườn như điều đã nghe tùy theo khả năng mà nói cho cha mẹ, bà con thân thuộc và bạn bè. Những người này nghe xong mà tùy hỷ nói lại cho người khác, người khác nghe xong tùy hỷ nói lại cho người khá c nữa, tuần tự như thế đến người thứ năm mươi.
- Này A-dật-đa! Công đức tùy hỷ của người thứ năm mươi, ta nói ông hãy lắng nghe! Nếu bốn trăm vạn ức a-tăng-kỳ thế giới, có sáu đường chúng sinh trong bốn loài: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hoặc có thân hình, không có thân hình, có tưởng, không có tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, có loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có vô số chúng sinh như vậy, nếu có người nào cầu phước tùy theo sự mong muốn đem những vật ưa thích mà cung cấp đến mỗi chúng sinh như vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, các thứ ngọc quý và voi, ngựa, xe cộ, lầu đài, cung điện bằng bảy báu đầy cả cõi Diêm-phù-đề. Vị đại thí chủ bố thí như vậy suốt tám mươi năm và suy nghĩ: “Ta đã cho chúng sinh những thứ họ ưa thích, tùy theo ý muốn, nhưng chúng sinh này đều đã già yếu, tuổi quá tám mươi, tóc bạc da nhăn, mạng sống còn không lâu. Ta nên đem chánh pháp của Phật mà dạy bảo họ.” Vị ấy liền tập hợp chúng sinh này lại để diễn thuyết chánh pháp, chỉ dạy làm cho lợi ích, vui mừng, đồng thời mọi người đều được đạo quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, dứt trừ tất cả các lậu hoặc, đối với các thiền định sâu xa đều được tự tại, đủ tám giải thoát. Ý ông nghĩ sao? Công đức của đại thí chủ đó có nhiều không?
Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Công đức của đại thí chủ ấy có nhiều vô lượng, vô biên, nếu vị thí chủ kia chỉ bố thí cho tất cả chúng sinh những vật ưa thích thì công đức vô lượng huống chi làm cho họ chứng quả A-la-hán.
Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:
- Ta nói rõ cho ông. Như có người đem tất cả những vật ưa thích bố thí cho chúng sinh ở trong sáu nẻo nhiều đến bốn trăm vạn ức a-tăng-kỳ thế giới khiến cho họ được quả A-la-hán thì công đức của người đó không bằng công đức tùy hỷ của người thứ năm mươi chỉ nghe một bài kệ trong kinh Pháp Hoa, không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức cho đến dùng tính toán ví dụ không thể biết được.
Này A-dật-đa! Công đức do tùy hỷ tuần tự đến người thứ năm mươi nghe kinh Pháp Hoa đã vô lượng, vô biên, vô số như vậy, huống chi là người đầu tiên trong hội chúng mà tùy hỷ thì phước ấy còn hơn vô lượng, vô biên, vô số, không thể so sánh được.
Này A-dật-đa! Người nào vì kinh này mà đến Tăng phường hoặc ngồi, đứng, nghe và lãnh hội chỉ trong chốc lát, nhờ công đức này sinh vào nơi khác, được voi, ngựa, xe cộ, kiệu, cáng, châu báu rất hảo hạng và ở cung trời.
Người nào ngồi ở trong chỗ giảng pháp sau có người đến lại khuyến khích họ ngồi nghe hoặc chia chỗ ngồi cho họ thì công đức của người đó thân sau được ngồi chỗ trời Đế Thích hoặc ở chỗ Phạm vương hoặc chỗ Chuyển luân thánh vương.
Này A-dật-đa! Người nào nói với người khác: “Có kinh Pháp Hoa nên cùng nhau đến nghe.” Nghe lời nói họ đến nghe trong chốc lát. Công đức của người đó qua thân sau cùng được sinh một chỗ với Bồ-tát Đà-la-ni, có trí tuệ thông minh, trăm ngàn vạn kiếp đều không bị câm ngọng, hơi miệng không hôi, lưỡi không bệnh hoạn, miệng không bị bệnh, răng không đen, không vàng, không thưa, không thiếu rụng, không lệch, không cong, môi không thừa ra, không ngắn vào, không thô rít, không mụt ghẻ, không khiếm khuyết, không cong vẹo, không dày, không lớn, không thâm đen, không có những tướng xấu. Mũi chẳng bị xẹp, chẳng bị cong gãy, sắc mặt chẳng đen, chẳng ốm dài, chẳng gãy, không có tất cả các tướng xấu, môi, lưỡi, răng, nướu tất cả đều đẹp đẽ, mũi thon cao thẳng, khuôn mặt tròn trịa, lông mày dài, cong, trán rộng bằng phẳng, tướng người đầy đủ, đời đời sinh ở đâu đều được gặp Phật, nghe phá p tin nhận lời dạy.
Này A-dật-đa! Ông hãy xem khuyên một người đến nghe kinh mà công đức lớn như vậy huống chi là nhất tâm lắng nghe, nói, đọc tụng ở trong đại chúng vì người phân biệt đúng như lời dạy mà tu hành.
Khi đó, để nói lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ:
Có người trong chúng hội
Nghe được kinh điển này,
Dầu chỉ một bài kệ
Tùy hỷ dạy người khác,
Tuần tự dạy cho nhau
Đến người thứ năm mươi,
Người cuối cùng được phước
Ta sẽ nói rõ ra.
Như có đại thí chủ
Cung cấp vô lượng chúng,
Trải qua tám mươi năm
Tùy ý muốn người xin,
Thấy tướng họ già nua
Tóc bạc và da nhăn.
Răng rụng, thân khô gầy
Nghĩ họ sống không lâu
Ta nên dạy bảo họ
Khiến được chứng quả đạo.
Liền dùng phương tiện nói
Pháp Niết-bàn chân thật,
Đời sống không bền chắc
Như bọt, bóng, song, nắng.
Các ông đều nên biết
Mau sinh lòng nhàm chán
Những người nghe pháp này
Đều chứng quả La-hán
Đầy đủ sáu thần thông
Ba minh, tám giải thoát,
Người năm mươi cuối cùng
Nghe một kệ tùy hỷ
Phước người này hơn kia
Không thể ví dụ được.
Tuần tự nghe như thế
Phước ấy đã vô lượng
Huống nữa trong phá hội
Người ban đầu nghe pháp,
Nếu khuyên được một người
Nghe được kinh Pháp Hoa,
Nói kinh này nhiệm mầu
Ngàn vạn kiếp khó gặp
Liền vâng lời đến nghe
Dầu chỉ trong chốc lát
Phước báo của người ấy
Ta sẽ nói rõ ra.
Đời đời miệng không bệnh
Răng không thưa, vàng, đen,
Môi không dày, bị khuyết
Không có các tướng xấu,
Lưỡi không khô, đen, ngắn
Mũi cao, thon và thẳng
Trán rộng và bằng phẳng,
Mắt, mặt đều xinh đẹp
Người thấy đều ưa thích
Miệng nói ra không hôi,
Miệng thường tỏa mùi thơm
Hương của hoa Ưu-bát
Nếu đến nơi nhà Tăng
Muốn nghe kinh Pháp hoa
Chốc lát nghe tùy hỷ,
Phước đức của người ấy
Sau sinh trong trời, người
Được voi, ngựa, xe tốt
Kiệu, cáng bằng châu báu
Cùng ở cung điện trời.
Nếu ớ nơi giảng pháp
Khuyên người ngồi nghe kinh,
Nhân vì phước này được
Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân
Huống chi nhất tâm nghe
Giải thích ý nghĩa kính,
Đúng như pháp tu hành
Phước đức không lường được.
Phẩm 18: CÔNG ĐƯC CỦA PHÁP SƯ

Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Thường Tinh Tấn:
- Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh Pháp Hoa hoặc đọc tụng, giảng nói, biên chép thì người ấy sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công đức nơi ý, dùng các công đức này để trang nghiêm, sáu căn đều được thanh tịnh.
Thiện nam, thiện nữ ấy, con mắt do cha mẹ sinh ra được thanh tịnh, thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trong, ngoài, núi rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu đảnh, thấy tất cả chúng sinh ở trong đó, nghiệp, nhân duyên, quả báo, chỗ sinh ra đều thấy biết hết.
Khí ấy, để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:
Người nào trong đại chúng
Bằng tâm không sợ hãi
Nói kinh Pháp Hoa này
Ông nghe công đức đó
Người ấy được tám trăm
Đức thù thắng nơi mắt
Dùng để làm trang nghiêm
Mắt ấy rất thanh tịnh
Mắt cha mẹ sinh ra
Thấy được ba ngàn cõi
Trong, ngoài, núí Di-lâu
Núi Tu-di, Thiết vi
Và các núi rừng khác
Biển lớn nước sông ngòi
Dưới đến ngụ c A-tỳ
Trên đến trời Hữu đảnh
Đều thấy được tất cả
Chúng sinh ở trong đó
Tuy chưa được Thiên nhãn
Nhãn lực thường như thế.
Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, biên chép, giải nói thì được một ngàn hai trăm công đức nơi tai, bằng tai thanh tịnh đó nghe khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến địa ngục A-tỳ , trên đến cõi trời Hữu đảnh, trong ngoài, các thứ lời lẽ, âm thanh như: tiếng voi, ngựa, xe, bò, tiếng khóc lóc, buồn than, tiếng loa, trống, chuông, linh, tiếng cười nói, tiếng nam, nữ, đồng tử, đồng nữ, tiếng pháp, phi pháp, tiếng khổ, vui, tiếng phàm phu, Thánh nhân, tiếng vui thích, không vui thích, tiếng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, tiếng lửa, nước, gió, tiếng địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Phật.
Nói tóm lại, trong tam thiên đại thiên thế giới, trong, ngoài tất cả các tiếng, dầu chưa được Thiên nhĩ chỉ bằng tai thường của cha mẹ sinh ra được thanh tịnh đều nghe biết hết, phân biệt các tiếng như thế mà tai không bị hư.
Khi ấy để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:
Tai cha mẹ sinh ra
Sạch sẽ không cấu bẩn.
Bằng tai thường nghe được
Tiếng của ba ngàn cõi,
Như voi, ngựa, bò, xe
Chuông, linh, loa và trống,
Đàn cầm, đàn không hầu
Ống tiêu và ống địch,
Tiếng hát hay, trong trẻo
Nghe mà không ham mê,
Tiếng của nhiều loại người
Đều nghe hiểu tất cả.
Nghe tiếng các cõi trời
Xướng ca rất mầu nhiệm,
Và nghe riêng nam, nữ
Tiêng bé trai, bé gái,
Trong núi song, hang sâu
Tiếng Ca-lăng-tần-dà
Các loài chim Mạng mạng,
Đều nghe tiếng của nó
Đau khổ nơi địa ngục
Đều nghe rõ tất cả.
Ngạ quỷ bị đói khát
Tiếng tìm cầu ăn uống,
Các loài A-tu-la
Ở ngoài bờ biển lớn,
Lúc cùng nhau nói chuyện
Vang ra âm thanh lớn,
Như vậy người thuyết pháp
Ở trong thế gian này,
Nghe các tiếng rất xa
Mà tai không bị hư
Khắp thế giới mười phương
Cầm thú kêu gọi nhau
Người nói kinh Pháp Hoa
Ở đây đều nghe hết,
Trên các trời, Phạm thiên
Quang âm và Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đảnh
Âm thanh của lời nói
Pháp sư ở nơi đây
Đều được nghe tất cả.
Trong chúng hộí Tỳ-kheo
Và các Tỳ-kheo-ni,
Nếu đọc tụng kinh này
Hãy nói cho người khác
Pháp sư ớ nơi đây
Đều nghe được tất cả.
Lại có các Bồ-tát
Đọc tụng kinh điển này,
Hoặc vì ngườí khác nói
Soạn tập giải nghĩa kinh,
Các thứ tíếng như thế
Đều nghe được tất cả.
Chư Phật, Đấng Đại Thánh
Giáo hóa các chúng sinh
Ở trong các hội lớn
Diễn nói pháp nhiệm mầu,
Người trì Pháp Hoa này
Đều nghe được tất cả.
Cõi tam thiên đại thiên
Các thứ tiếng trong, ngoài,
Dưới đất ngục A-tỳ
Trên đến trời Hữu đảnh,
Đều nghe các tiếng đó
Mà tai không bị hư.
Vì tai ấy rất tốt
Biết phân biệt tất cả.
Người trì kinh Pháp Hoa
Dầu chưa được Thiên nhĩ,
Dùng tai cha mẹ sinh
Công đức đã như thế.
Lại nữa, này Thường Tình Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, giải nói, biên chép thì được tám trăm công đức nơi mũi, đều nhờ bằng mũi thanh tịnh này, nghe được các mùi hương trên, dưới, trong, ngoài, khắp cả ba ngàn cõi đại thiên thế giới, như hương của hoa Tu-mạn-na, Xà-đề, Mạt-lợi, Chiêm-bặc, Ba-la-la, Sen đỏ, xanh, trắng, mùi hương cây có hoa, có trái, mùi hương thơm Chiên-đàn, Trầm thủy, Đa-ma-la-bạt, Đa-dà-la và trăm ngàn mùi hương hòa lẫn nhau hoặc là bột viên, hương xoa, người trì kinh ở tại đây, vẫn phân biệt tất cả.
Lại còn biết rõ các mùi của chúng sinh như voi, ngựa, dê, bò ..., mùi trai, gái, đồng tử, đồng nữ và mùi cỏ cây rừng rậm hoặc gần, xa, có bao nhiêu thứ mùi đều nghe được cả, phân biệt không nhầm. Người trì kinh này tuy ở tại chỗ nhưng nghe được mùi trên các cõi trời, mùi cây Ba-lợi-chất-đa-la, Câu-bệ-đà-la, mùi bông Mạn-đà-la, Đại Mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Đại Mạn-thù-sa, Chiên-đàn, trầm thủy, các thứ hương bột, hương các loài hoa, mùi hương tổng hợp các loại hương ở trên trời đều nghe rõ cả.
Lại nghe mùi thơm nơi thân của các vị trời, Thích Đề-hoàn Nhân ở trên thắng điện, vui chơi trong năm dục hoặc mùi ở trên Diệu pháp đường vì các vị trời Đao-lợi nói pháp, lúc dạo chơi trong vườn và nơi thân của các vị trời nam, nữ khác, tất cả đều nghe đến tuần tự như thế cho đến trời Phạm thiên, cho đến mùi nơi thân của trời Hữu đảnh cũng đều nghe biết.
Và nghe mùi hương do các vị trời đốt lên và mùi hương của Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và chư Phật đều được nghe đến và biết họ ở đâu. Tuy nghe biết những mùi hương ấy, nhưng nơi mũi không bị hư, không nhầm lẫn, nếu muốn phân biệt nói cho người khác thì nhớ lại không lầm.
Khi ấy, để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:
Người này mũi thanh tịnh
Ở trong thế giới này,
Dù vật thơm hay hôi
Đều nghe biết rõ cả.
Tu-mạn-na, Xà-đề
Đa-ma-la, Chiên-đàn
Trầm thủy và mùi quế
Mùi các thứ hoa trái,
Và biết mùi chúng sinh
Nam tử và nữ nhân,
Người nói pháp ở xa
Nghe mùi biết ở đâu.
Đại lực Chuyển luân vương,
Tiểu Chuyển luân và con
Quần thần, các cung nhân
Nghe mùi biết ở đâu.
Châu báu mang nơi thân
Và kho báu trong đất.
Báu nĩr của Luân vương
Nghe mùi biết ở đâu.
Đồ trang sức trên người
Y phục và chuỗi ngọc
Các loại hương xoa thân
Nghe mùi biết thân ấy.
Các trời đi hay ngồi
Dạo chơi hay biến hóa
Người trì kinh Pháp Hoa
Nghe mùi đều biết hết.
Các cây hoa, trái, hột
Và mùi thơm dầu bơ
Người trì kinh Pháp Hoa
Đều biết ở chỗ nào.
Trong núi sâu nơi vắng
Cây Chiên-đàn nở hoa,
Chúng sinh ở trong đó
Nghe mùi đều biết hết.
Núi Thiết vi, biển lớn
Các chúng sinh trong đất,
Người trì kinh nghe mùi
Đều biết họ ở đâu.
Trai, gái A-tu-la
Và quyến thuộc của chúng,
Khi đấu tranh, dạo chơi
Nghe mùi biết ở đâu.
Đồng hoang, chỗ nguy hiểm
Sư tử voi, hùm, sói,
Bò rừng các loại trâu
Nghe mùi đều biết hết.
Nếu có người mang thai
Chưa rõ trai hay gái,
Không căn chẳng phải người
Nghe mùi đều biết rõ.
Nhờ được sức nghe mùi
Biết người mới mang thai,
Được thành hay chẳng thành
An vui sinh con phước.
Do vì sức nghe mùi
Biết tâm niệm gái, trai
Tâm nhiễm dục sân si,
Cũng biết ngườí tu thiện
Và các loại trong đất
Vàng, bạc, các châu báu
Chứa đầy trong bình đồng
Nghe mùi đều biết được.
Các loại chuỗi ngọc báu
Không thể biết giá cả
Nghe mùi biết mắc rẻ
Biết rõ nơi sản xuất.
Các thứ hoa trên trời
Mạn-đà, Mạn-thù-sa
Cây Ba-lợi-chất-đa
Nghe mùi đều biết được.
Các cung điện trên trời
Thượng, trung, hạ khác nhau,
Các hoa báu trang nghiêm
Nghe mùi đều biết được.
Thắng điện, vườn, rừng, trời
Lầu đại Diệu pháp đường,
Vui chơi ở trong đó
Nghe mùi đều biết được.
Chư Thiên hoặc nghe pháp
Hay lúc hưởng năm dục,
Qua lại, đi, ngồi, nằm
Nghe mùi đều biết được.
Y phục Thiên nữ mặc
Trang sức hương hoa đẹp,
Lúc dạo chơi đùa giỡn
Nghe mùi đều biết được.
Tuần tự lên như thế
Cho đến trời Phạm thiên,
Người nhập thiền, xuất thiền
Nghe mùi đều biết được.
Trời Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đảnh
Mới sinh hay bỏ thân
Nghe mùi đều biết được.
Tất cả các Tỳ-kheo
Đối pháp thường tinh tấn,
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Và đọc tụng kinh điển,
Hoặc ở dưới rừng cây
Ngồi thiền suốt không nghỉ,
Người trì kinh nghe mùi
Đều biết họ ở đâu.
Bồ-tát chí bền chắc
Ngồi thiền hoặc đọc tụng,
Hoặc vì người nói pháp
Nghe mùi đều biết rõ.
Thế Tôn ở các phương
Được mọi người cung kính,
Thương chúng mà nói pháp
Nghe mùi đều biết rõ.
Chúng sinh ở trước Phật
Nghe kinh đều vui mừng,
Tu hành đúng như pháp
Nghe mùi đều biết rõ.
Chưa được mũi pháp sinh
Vô lậu của Bồ-tát,
Nhưng nhờ trì kinh này
Trước được tướng mũi ấy.
Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, giải nói, biên chép thì được một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi.
Những thứ tốt, xấu, ngon, dở và các vật đắng chát ở trên lưỡi của người đó đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, đối với họ món gì cũng ngon.
Nếu dùng lưỡi ở trong đại chúng nói pháp, diễn ra tiếng nhiệm mầu có thể vào tâm họ, đều làm cho họ được hoan hỷ, an lạc.
Lại nữa các vị Thiên tử, Thiên nữ cõi trời Thích, Phạm nghe âm thanh vi diệu này những lời diễn thuyết theo trình tự của ngôn ngữ nên đều đến nghe. Và các loại Rồng, Rồng nữ, Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-bà nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lâu-la, Ca-lâu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, Ma-hầu-la-dà nữ, vì để nghe pháp đều đến gần gũi cung kính cúng dường.
Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà -tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển luân vương, bảy báu, ngàn người con và quyến thuộc trong, ngoài, cõi cung điện cũng đến nghe pháp.
Vì Bồ-tát này thuyết pháp rất hay nên các Bà-la-môn, cư sĩ, nhân dân trong nước theo hầu cúng dường suốt đời.
Lại nữa, hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, chư Phật thường thích gặp người ấy, họ ở hướng nào chư Phật đều hướng về nơi ấy để thuyết pháp và người ấy thọ trì tất cả Phật pháp, lại còn có thể nói ra tiếng pháp nhiệm mầu vi diệu.
Khi đó để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:
Người đó lưỡi thanh tịnh
Không bị nếm vị dở,
Ăn bất cứ món gì
Cũng đều thành cam lồ.
Bằng tiếng hay thanh tịnh
Nói pháp giữa đại chúng,
Dùng thí dụ nhân duyên
Dẫn dắt tâm chúng sinh,
Người nghe đều hoan hỷ
Sắm đồ cúng thượng hạng,
Các Trời, Rồng, Dạ-xoa
Và loài A-tu-la
Đều một lòng cung kính
Cùng nhau đến nghe pháp.
Người nói kinh pháp đó
Muốn dùng tiếng nhiệm mầu
Đến khắp ba ngàn cõi
Tùy ý liền đưa đến.
Vua, Đạí, Tiểu Chuyển luân
Và ngàn con, quyến thuộc,
Chắp tay lòng cung kính
Thường đến nghe nhận pháp
Hàng trời, Rồng, Dạ-xoa
La-sát, Tỳ-xá-xà
Cũng đều rất vui mừng
Thường ưa đến cúng dường.
Phạm thiên vương, Ma vương
Tự tại, Đại tự tại
Các chúng Trời như thế
Thường đến chỗ người ấy.
Chư Phật và đệ tử
Nghe người ấy nói pháp,
Thường ghi nhớ giữ gìn
Hoặc hiện thân trước họ.
Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì hoặc đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này thì được tám trăm công đức nơi than. Được thân thanh tịnh như lưu ly trong suốt, mọi người đều thích nhìn. Vì thân người ấy thanh tịnh nên chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, khi sinh, lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sinh vào cõi lành, cõi ác..., đều hiện trong đó, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Di-lâu, núi Đại di-lâu và các chúng sinh ở các núi ấy cũng đều hiện trong đó, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu đảnh có những cảnh vật và chúng sinh gì đều hiện trong thân người ấy, nếu có hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và chư Phật nói pháp cũng đều hiện hình tượng trong thân người ấy.
Bấy giờ, để lặp lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:
Người nào trì Pháp Hoa
Thân họ rất thanh tịnh,
Như lưu ly trong suốt
Chúng sinh đều thích nhìn.
Lại như gương sáng sạch
Đều thấy các hình ảnh,
Thân Bồ-tát thanh tịnh
Thấy hết vật trong đời.
Chỉ riêng mình biết rõ
Người khác không thấy được,
Tất cả các chúng sinh
Trong thế giới ba ngàn.
Trời, người, A-tu-la
Địa ngục, quỷ. súc sinh,
Các hình ảnh như thế
Đều hiện rõ trong thân.
Các cung điện cõi trời
Cho đến trời Hữu đảnh
Núi Thiết vi, Di-lâu
Và núi Đại di-lâu
Tất cả các biển lớn
Đều hiện ở trong thân.
Chư Phật và Thanh văn
Đệ tử Phật Bồ-tát,
Hoặc một mình giữa chúng
Nói pháp đều hiện rõ.
Tuy chưa dược diệu thân
Pháp tánh sạch lậu hoặc,
Dùng thân thường thanh tịnh
Hiện tất cả trong đó.
Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Sau khi Như Lai diệt độ, thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này thì được một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Bằng ý căn thanh tịnh này, chỉ nghe một bài kệ, một câu kinh mà thấu rõ được vô lượng, vô biên nghĩa lý. Hiểu nghĩa ấy rồi, có thể diễn nói một câu, một bài kệ đến một tháng, bốn tháng hoặc một năm. Các pháp nói ra tùy theo ý nghĩa trên đều không trái với thật tướng. Nếu nói sách vở thế gian, lời lẽ giúp đời, nghề nghiệp sinh sống đều thuận theo chánh pháp. Sự suy nghĩ, sự tạo tác và lý luận của tâm chúng sinh trong sáu đường, khắp tam thiên đại thiên thế giới đều biết rõ hết. Tuy chưa đạt được trí tuệ vô lậu nhưng nhờ ý căn thanh tịnh như vậy nên sự tư duy, tính toán và nói năng của người ấy đều là Phật pháp, đều là chân thật, cũng là lời trong kinh chư Phật thuở trước đã nói.
Lúc ấy, để lập lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:
Ý người đó thanh tịnh
Sáng suốt không nhơ đục,
Bằng ý vi diệu này
Biết pháp thượng, trung, hạ.
Chỉ nghe một bài kệ
Thông đạt vô số nghĩa,
Tuần tự nói như pháp
Tháng, bốn tháng, cả năm.
Tất cả các chúng sinh
Trong ngoài thế giới này
Hoặc Trời, Rồng và Người
Các Dạ-xoa, quỷ thần,
Sống ở trong sáu cõi
Suy nghĩ của các loài,
Phước báo trì Pháp Hoa
Một lúc đều biết hết.
Vô số Phật mười phương
Tướng trăm phước trang nghiêm,
Nói pháp cho chúng sinh
Đều nghe được thọ trì.
Tư duy vô số nghĩa
Nói pháp cũng vô lượng,
Trước sau không quên nhầm
Nhờ trì kinh Pháp Hoa
Nên biết tướng các pháp
Theo nghĩa biết thứ tự,
Rõ danh tự, ngôn ngữ
Diễn nói theo hiểu biết.
Người này nói điều gì
Đều là pháp chư Phật.
Nhờ nói kinh pháp này
Ở trong chúng không sợ.
Người trì kinh Pháp Hoa
Ý thanh tịnh như thế,
Chưa đạt ý vô lậu
Nhưng có tướng như thế.
Người ấy trì kinh này
Trú quả vị hiếm có.
Được tất cả chúng sinh
Vui mừng và kính mến.
Hay dùng ngàn vạn loại
Lời lẽ rất tuyệt diệu,
Phân biệt mà nói pháp
Nhờ trì kinh Pháp Hoa.
Phẩm 19: BỒ TÁT THƯỜNG BẤT KHINH

Bấy giờ Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Đắc Đại Thế:
- Ông nên biết Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào trì kinh Pháp Hoa được công đức nơi mắt, tai, mũi, lưới, thân và ý thanh tịnh như trước đã nói, nếu có người nào dùng lời ác mắng nhiếc, chê bai thì bị tội báo lớn cũng như trước đã nói.
Này Đắc Đại Thế! Cách dây vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn vô số kiếp về trước, có Đức Phật hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, kiếp tên Ly suy, nước tên Đại thành. Đức Phật Oai Âm Vương trong đời ấy nói pháp cho hàng Trời, Người, A-tu-la, vì người cầu đạo quả Thanh văn mà nói pháp bốn Đế thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, hoàn toàn đạt tới Niết-bàn; vì người cầu quả Bích-chi-phật mà nói pháp mười hai nhân duyên; vì hàng Bồ-tát nương nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho hoàn toàn đạt trí tuệ Phật.
Này Đắc Đại Thế! Phật Oai Âm Vương thọ bốn trăm ngàn ức na-do-tha hằng hà sa kiếp, chánh pháp tồn tại ở đời số kiếp nhiều như vi trần trong cõi Diêm-phù-đề, tượng pháp tồn tại ở đời số kiếp nhiều như vi trần trong bốn châu thiên hạ. Sau khi làm lợi ích cho chúng sinh, Đức Phật ấy vào Níết-bàn. Sau khi chánh pháp, tượng pháp diệt rồi, trong nước ấy lại có Phật ra đời cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Lần lượt có đến hai vạn ức Phật đều cùng một hiệu.
Sau khi Đức Như Lai Oai Âm Vương đầu tiên vào Níết bàn, khi chánh pháp diệt hết, trong đời tượng pháp các Tỳ-kheo tăng thượng mạn có nhiều thế lực. Bấy giờ, có một vị Tỳ-kheo Bồ-tát tên Thường Bất Khinh.
Này Đắc Đại Thế! Vì sao gọi là Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ-kheo này hễ gặp bất cứ người nào dù là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc hay Ưu-bà-di, vị ấy đều lễ bái khen ngợi và nói: “Tôi rất cung kính chẳng dám khinh thường các vị. Vì sao? Vì các vị ai cũng thực hành đạo Bồ-tát sẽ được thành Phậ t.”
Nhưng Tỳ-kheo ấy chẳng siêng năng đọc tụng kinh điển mà chỉ toàn đi lễ lạy thậm chí khi nhìn thấy bốn chúng từ xa, vị ấy cũng cố đến để lễ lạy khen ngợi cho bằng được, nói: “Tôi không dám khinh thường các vị, các vị đều sẽ thành Phật.” Trong bốn chúng có người rất bực bội, nói lời ác mắng nhiếc vị ấy: “Ông Tỳ-kheo mất trí này từ đâu đến mà nói tôi không dám khinh các vị, rồi thọ ký cho chúng ta sẽ thành Phật, chúng ta đừng nghe lời thọ ký tùy tiện như thế!”
Trải qua nhiều năm như vậy, tuy thường bị mắng nhiếc nhưng Tỳ-kheo ấy chẳng hề bực tức vẫn cứ nói: “Các vị sẽ thành Phật”. Lúc nói lời đó bị mọi người đánh đập, ném đá, vị ấy chạy ra xa để tránh nhưng vẫn nói to lên: “Tôi không dám khinh thường các vị, các vị sẽ thành Phật.” Vị ấy luôn nói những lời như thế, cho nên các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Tăng thượng mạn đều đặt cho vị ấy tên là Thường Bất Khinh.
Lúc sắp chết, từ nơi hư không, vị Tỳ-kheo ấy nghe đầy đủ hai mươi ngàn vạn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Đức Phật Oai Âm Vương đã nói thuở trước, nghe xong thọ trì liền thanh tịnh được các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý như trên. Được thanh tịnh các căn rồi, vị ấy được tăng thêm hai triệu ức na-do-tha tuổi và nói kinh Pháp Hoa này cho tất cả mọi người.
Bấy giờ bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tăng thượng mạn trước đây khinh khi, gọi Tỳ-kheo ấy là Thường Bất Khinh, nay thấy vị này đạt năng lực thần thông lớn, năng lực biện tài nhạo thuyết, sức tịch tĩnh lớn và nghe vị ấy thuyết pháp, họ đều kính phục và tin theo.
Bồ-tát Thường Bất Khinh lại giáo hóa mười triệu ức chúng sinh đều khiến cho họ trụ vào Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Sau khi qua đời, Bồ-tát Thường Bất Khinh được gặp hai ngàn ức Đức Phật đều có danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, ở trong chánh pháp của các Đức Phật ấy nói kinh Pháp Hoa này. Vì nhân duyên đó, Bồ-tát lại được gặp hai ngàn ức Đức Phật đều có tôn hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương ở trong pháp của chư Phật ấy, thọ trì, đọc tụng, nói kinh điển này cho bốn chúng, đạt được các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đều thanh tịnh, ở giữa đại chúng nói pháp không hề sợ hãi.
Này Đắc Đại Thế! Đại Bồ-tát Thường Bất Khinh cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen ngần ấy Đức Phật như thế, vun trồng các căn lành, sau đó lại gặp mười triệu ức Đức Phật, cũng ở trong pháp chư Phật ấy mà nói kinh điển này, đến khi công đức thành tựu sẽ được thành Phật.
Này Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bồ-tát Thường Bất Khinh lúc ấy chẳng phải ai khác chính là thân ta. Nếu ở đời trước ta không đọc tụng, thọ trì và diễn nói cho người khác kinh điển này thì ta chẳng thể nhanh chóng đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thuở trước, ta ở chỗ chư Phật thọ trì, đọc tụng và diễn nói cho người khác kinh này nên ta mau được thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Đắc Đại Thế! Bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lúc ấy vì giận dữ khinh thường ta nên hai trăm ức kiếp thường chẳng được gặp Phật, nghe pháp, không gặp chúng Tăng, một ngàn kiếp bị đọa địa ngục A-tỳ, chịu nhiều đau khổ. Hết tội này rồi họ mới gặp Bồ-tát Thường Bất Khinh giáo hóa đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lúc ấy thường khinh khi vị Bồ-tát đó chẳng phải ai khác, chính là các ông Bạt-đà-bà-la… năm trăm Bồ-tát, các ông Sư tử Nguyệt… năm trăm Tỳ-kheo, các ông Ni-tư-phật năm trăm Ưu-bà-tắc đang ở trong hội này đều đạt bậc không thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Đắc Đại Thế! Nên biết kinh pháp này vô cùng lợi ích cho các vị Đại Bồ-tát, có thể làm cho các vị đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế sau khi Như Lai diệt độ, các Đại Bồ-tát thường xuyên đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này.
Bấy giờ, để tuyên lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ:
Quá khứ có Phật
Hiệu Oai Âm Vương,
Thần, trí không lường
Dìu dắt tất cả
Trời, Người, Rồng, Thần
Đều cúng dường Phật.
Sau Phật diệt độ
Khi pháp sắp dứt
Có vị Bồ-tát
Tên Thường Bất Khinh.
Bấy giờ bốn chúng
Chấp giữ các pháp.
Bồ-tát Bất Khinh
Đến chỗ của họ.
Nói với họ rằng:
“Tôi chẳng khinh ngài
Các ngài tu hành
Đều sẽ thành Phật.”
Mọi người nghe rồi
Khinh khi, mắng nhiếc,
Bồ-tát Bất Khinh
Đều chịu đựng cả.
Nghiệp tội hết rồi
Đến lúc sắp chết
Ngài nghe kinh này
Sáu căn thanh tịnh,
Nhờ sức thần thông
Tuổi thọ tăng thêm,
Diễn nói kinh này
Cho khắp mọi người.
Những người chấp pháp
Đều nhờ Bồ-tát
Giáo hóa thành tựu
Khiến trụ Phật đạo.
Bất Khinh qua đời
Gặp vô số Phật,
Vì nói kinh này
Được phước không lường.
Dần đủ công đức
Mau thành Phật đạo.
Bất Khinh thuở ấy
Chính là thân ta,
Còn bốn bộ chúng
Những người chấp pháp,
Nghe Bất Khinh nói
Ngài sẽ thành Phật
Vì nhân duyên đó
Gặp vô số Phật.
Chính các Bồ-tát
Chúng năm trăm người
Cùng các Tỳ-kheo
Cận sự nam, nữ,
Đang ở trước ta
Nghe pháp trong hội.
Ta ở đời trước
Khuyên những người ấy
Nghe nhận kinh này
Là pháp bậc nhất.
Mở bày, dạy ngườí
Khiến trụ Niết-bàn,
Đời đời thọ trì
Kinh điển như vậy.
Ức ức vạn kiếp
Đến không thể bàn
Lâu mới được nghe
Kinh Pháp Hoạ này.
Ức ức vạn kiếp
Đến không thể bàn,
Chư Phật Thế Tôn
Mới nói kinh này.
Vì vậy hành giả
Sau Phật diệt độ,
Nghe kinh điển này,
Chớ có nghi ngờ!
Cần phải nhất tâm
Diễn nói kinh này
Đời đời gặp Phật
Mau thành Phật đạo.
Phẩm 20: THẦN LỰC CỦA NHƯ LAI

Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát như số vi trần trong ngàn thế giới từ dưới đất vọt lên, đều chắp tay ở trước Phật nhất tâm chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, và bạch:
- Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ ở các cõi nước nơi mà phân thân của Thế Tôn diệt độ chúng con sẽ diễn nói kinh này. Vì sao? Vì chúng con cũng tự muốn dược pháp lớn này để thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép và cúng dường.
Lúc ấy ở trước ngài Văn-thù-sư-lợi và vô lượng trăm ngàn vạn ức Đại Bồ-tát trụ lâu ở thế giới Ta-bà, cùng tất cả chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân…, Đức Thế Tôn hiện năng lực thần thông lớn, bày tướng lưỡi rộng, dài lên đến trời Phạm thiên, từ tất cả lỗ chân lông đều phóng ra vô số tia sáng đủ màu sắc chiếu soi đến thế giới ở khắp mười phương. Các Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử nơi gốc cây báu cũng đều hiện tướng lưỡi rộng, dài, phóng vô số hào quang như vậy.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và chư Phật dưới cây báu hiện năng lực thần thông, trải qua hàng trăm ngàn năm, sau đó mới thu tướng lưỡi lại đồng thời tằng hắng và khảy móng tay, hai tiếng ấy vang đến thế giới chư Phật ở khắp mười phương, làm cho đất chấn động sáu cách. Nhờ năng lực thần thông của Đức Phật, các chúng sinh Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều nhìn thấy được vô lượng, vô biên trăm ngàn ức Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử dưới cây báu ở thế giới Ta-bà, thấy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Đức Đa Bảo Như Lai ngồi nơi tòa Sư tử ở trong tháp báu và thấy cả vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vị Đại Bồ-tát cùng với bốn chúng cung kính vây quanh Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Thấy như vậy rồi các chúng sinh ấy vô cùng vui mừng, được điều chưa từng có.
Tức thời, các vị trời ở giữa hư không nói lớn:
- Cách đây vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số thế giới, có thế giới tên Ta-bà, trong thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni đang nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm cho hàng Bồ-tát, các ông phải hết lòng tùy hỷ và lễ lạy cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Nghe tiếng nói giữa hư không rồi, các chúng sinh chắp tay hướng về thế giới Ta-bà nói:
- Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật!
Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật!
Họ dùng vô số hoa hương, chuỗi ngọc, phướn lọng, đồ trang sức và các vật quý báu… đều cũng từ xa rải vào thế giới Ta-bà. Những vật được rải vào ấy, từ mười phương giống như mây tụ lại, biến thành màn báu che khắp trên các Đức Phật ở đây.
Lúc này, các cõi nước ở khắp mười phương đều thông suốt không trở ngại giống như một cõi Phật.
Bấy giờ Đức Phật bảo hàng Bồ-tát thượng hạnh:
- Thần lực của chư Phật vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn. Nếu ta dùng thần lực như vậy vì để phú chúc mà nói công đức của kinh này thì nói đến vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số kiếp cũng không thể nói hết.
Nói tóm lại, tất cả các pháp, các năng lực thần thông tự tại, các tạng pháp bí mật, các việc sâu xa của Như Lai đều được tuyên bày, nói rõ trong kinh này. Thế nên, sau khi Như Lai diệt độ, các ông phải nhất tâm thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép theo đúng như lời dạy mà tu hành.
Ở trong cõi nước nơi có quyển kinh hoặc ở trong vườn, trong rừng, dưới cây báu, trong nhà Tăng, nơi nhà cư sĩ hoặc trong cung điện hoặc ở hang núi, đồng hoang… mà có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này theo đúng như lời dạy mà tu hành thì ở trong đó nên dựng tháp để cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là đạo tràng. Ở nơi ấy, chư Phật chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân và vào Niết-bàn.
Bấy giờ để tuyên lại nghĩa này, Đức Thế Tôn nói kệ:
Chư Phật, Đấng cứu đời
Trụ trong thần thông lớn,
Để vui lòng chúng sinh
Hiện vô số thần thông.
Tướng lưỡi đến Phạm thiên
Phóng vô số hào quang,
Vì người cầu Phật đạo
Hiện việc hiểm có này.
Tiếng tằng hắng của Phật
Và tiếng khảy móng tay,
Vang các nước mười phương
Đất chấn động sáu cách.
Sau khi Phật diệt độ
Người thọ trì kinh này.
Chư Phật đều hoan hỷ
Hiện vô lượng thần thông,
Vì phú chúc kinh này.
Nên khen người thọ trì,
Ở trong vô số kiếp
Nói cũng không thể hết.
Công đức của người này
Vô biên không cùng tận.
Như hư không mười phương
Không biết được biên giới.
Người thọ trì kinh này
Tức đã thấy Như Lai,
Cũng thấy Phật Đa Bảo
Các phân thân của Phật.
Lại thấy ta hôm nay
Giáo hóa các Bồ-tát,
Người thọ trì kinh này
Khiến ta, các phân thân
Phật Đa Bảo diệt độ
Tất cả đều hoan hỷ
Được gặp và cúng dường
Mười phương Phật hiện tại,
Quá khứ và vị lai
Khiến các Ngài hoan hỷ.
Chư Phật ngồi đạo tràng
Đã được pháp bí mật,
Người thọ trì kinh này
Chẳng lâu cũng sẽ được.
Vui nói không cùng tận
Danh tự và ngôn từ,
Ý nghĩa của các pháp
Như gió trong hư không
Không có gì trở ngại.
Sau khi Phật diệt độ
Theo nghĩa nói như thật,
Nhân duyên và thứ tự
Kinh chư Phật đã nói.
Như ánh sáng nhật nguyệt
Dứt trừ mọi tối tăm,
Người này ở trong đời
Diệt tối của chúng sinh,
Dạy vô số Bồ-tát
Hoàn toàn trụ Phật thừa.
Vì vậy người có trí
Nghe lợi ích công đức,
Sau khi Phật Niết-bàn
Nên thọ trì kinh này,
Người ấy thành Phật đạo
Chắc chắn không nghi ngờ.
Phẩm 21: ĐÀ-LA-NI

Bấy giờ, Bồ-tát Dược Vương liền từ chỗ ngồi đứng dạy, sửa y phục bày vai bên phải chắp tay bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng thông suốt và biên chép kinh Pháp Hoa thì được bao nhiêu phước đức?
Đức Phật dạy:
- Này Dược Vương, ý ông nghĩ sao? Thiện nam, thiện nữ nào cúng dường tám triệu ức na-do-tha hằng hà sa các Đức Phật thì người ấy được phước đức nhiều không?
- Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Đức Phật dạy:
- Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói dù chỉ một bài kệ, bốn câu kinh Pháp Hoa theo như lời dạy mà tu hành thì người ấy được công đức rất nhiều.
Lúc ấy Bồ-tát Dược Vương bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ cho người nói kinh Pháp Hoa chú Đà-la-ni để hộ vệ đó.
Liền nói chú:
“Đát diệt tha (1) an nhĩ (2) mạn nhĩ (3) mạt nê (4) ma ma nê (5) chất đê (6) chiết rị đê (7) nhiếp mê (8) nhiếp mị đa tỷ (9) xa an đê (10) mục ngật đê (11) mục ngật đê diêm mê tảm mê (12) ưu tỷ phiên mê (13) tảm ma tảm mê (14) xã di (15) khế di (16) át khế di (17) át kỳ nải (l 8) xa a đê nhiếp mị (19) đa la nị (20) a lô ca bà di (21) bát ra để tỳ lợi nị (22) tỷ tỷ lô (23) ưu tiện đa la nễ tỷ sắt xỉ (24) át điên đới ba rị đế (25) úc cứu lê (26) mục cứu Iê (27) át ra đệ (28) bát ra đệ (29) thưa ca y (30) át tảm ma tảm mê (31) bột địa kỷ hô kiết đê (32) đạt ma bát ly khí đê (33) tăng già niết cụ sát nễ (34) bạt da bạt da thâu đạt nê (35) mạn trất rị (36) mạn đát ra khế dạ đê (37) hộ lộ đới kiêu xá rị di (38) ác xoa dạ (39) á xoa bạt nại đa dạ (40) bạt lô ưu mạn nhĩ nại đa dạ (41).”
- Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của sáu mươi hai ức hằng hà sa các Đức Phật nói. Cho nên, người nào làm hại đến vị Pháp sư này tức là đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy.
Lúc này, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi Bồ-tát Dược Vương:
- Lành thay, lành thay! Này Dược Vương! Vì thương nghĩ và để ủng hộ Pháp sư mà ông nói Đà-la-ni này, làm nhiều điều lợi ích cho chúng sinh.
Bấy giờ, Bồ-tát Dũng Thí bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng xin nói Đà-la-ni để ủng hộ người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa. Nếu vị Pháp sư được chú Đà-la-ni này rồi thì Dạ-xoa, La-sát, Phú-đơn-na, Kiết-giá, Cưu-bàn-trà hoặc ngạ quỷ... muốn rình tìm chỗ dở của Pháp sư đều không thấy được.
Bồ-tát liền ở trước Đức Phật, nói thần chú:
“Đát điệt tha (1) thiệp bà lê (2) mạt ha thiệp bà lê (3) úc hùng (4) mục hùng (5) át đệ (6) át đồ bà để (7) niết rị trí di (8) niết trị trí da bạt để (9) nhất chí nhĩ (10) tỷ chí nhĩ (11) chất chí nhĩ (12) niết rị triết nhĩ (13) niết rị tra bạt nhĩ (14).”
Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là cả hằng hà sa Đức Phật đã nói và tùy hỷ, vì vậy người nào làm hại Pháp sư này tức là đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy.
Bấy giờ, vua trời Hộ Thế Tỳ-sa-môn thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì thương nghĩ chúng sinh, con cũng xin nói Đà-la-ni để ủng hộ vị Pháp sư này.
Liền nói thần chú:
“Đát diệt tha (1) át trai (2) nại trai (3) nội nại trai (4) án na trù (5) na trĩ quấn nại trĩ (6).”
- Bạch Thế Tôn! Con dùng thần chú này để ủng hộ Pháp sư và cũng để ủng hộ người thọ trì kinh này, làm cho họ trong khoảng một trăm do-tuần không bị các tai nạn.
Lúc ấy, trong hội chúng có Thiên vương Trì Quốc cùng với ngàn vạn ức na-do-tha Càn-thát-bà cung kính đến trước Đức Phật chắp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng xin nói thần chú Đà-la-ni để ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa.
Liền nói thần chú:
“Đát diệt tha (1) ác dương (2) nễ yết nễ cu rị (3) kiến đà rị (4) bàn đồ rị (5) ma đăng để (6) tỷ yết tứ (7) tăng cú lê (8) bộ lưu tát rị (9).”
Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của bốn mươi hai ức các Đức Phật nói. Vì thế, nếu ai làm hại Pháp sư này tức đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy.
Bấy giờ, có các La-sát nữ, tên là Lam Bà, Tỳ Lam Bà, Khúc Xỉ, Hoa Xỉ, Hắc Xỉ, Đa Phát, Vô Yểm Túc, Từ Anh Lạc, Cao Đế và Đoạt Nhất Thiết Chúng Sinh Tinh Khí, mười La-sát này cùng với con cái, quyến thuộc của họ và mẹ con loài quỷ đều đến chỗ Đức Phật, đồng thanh thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa, trừ các hoạn nạn cho họ, giả sử có người muốn rình tìm chỗ dở của Pháp sư, đều không thấy được.
Họ liền nói thần chú:
“Đát điệt tha, nhất để mê, nhĩ mê hộ lô ê, tát đới ê.”
Thà trèo lên đầu chúng con, chứ đừng làm tổn hại Pháp sư. Hoặc Dạ-xoa, La-sát, Ngạ quỷ, hoặc Phú-đơn-na, Kiết-giá, Tỳ-đà-la, hoặc Kiến-đà, Ô-ma-lặc-đà, A-bạt-ma-la, hoặc Dạ-xoa kiết-giá, Nhân kiết-giá… gây bệnh trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, hoặc bệnh nóng luôn, hoặc hiện ra hình nam, nữ, đồng nam, đồng nữ.... Ngay cả trong mộng cũng không làm tổn hại đến Pháp sư.
Họ liền nói kệ:
Ai không thuận thần chú
Làm hại người thuyết pháp,
Đầu vỡ làm bảy phần
Như nhánh cây A-lê,
Như tội giết cha mẹ
Sẽ bị họa ép dầu
Đong lường dối gạt người
Tội Điều-đạt phá Tăng
Người làm hại Pháp sư
Sẽ bị tội như thế.
Nói kệ xong các La-sát thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ đích thân ủng hộ người thọ trì, đọc tụng, tu hành kinh này, khiến cho họ dược an ổn tránh khỏi các hoạn nạn và tiêu trừ các thuốc độc.
Đức Phật dạy các La-sát:
- Lành thay, lành thay! Các người chỉ ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp Hoa, phước đức đã không thể đo lường, huống là ủng hộ người thọ trì đầy đủ và cúng dường quyển kinh Pháp Hoa bằng hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, phướn lọng, âm nhạc, thắp các loại đèn như: đèn nến, đèn dầu, đèn các loại dầu thơm, đèn dầu hoa Tô-ma-na, hoa Chiêm-bặc, hoa Ba-sư-ca, hoa Ưu-bát-la… cúng dường trăm ngàn loại phẩm vật như thế.
Này Cao Đế! Các người và quyến thuộc nên ủng hộ vị Pháp sư như vậy.
Khi Đức Phật nói phẩm thần chú Đà-la-ni này, sáu vạn tám ngàn người đạt pháp Nhẫn vô sinh.
Phẩm 22: BẢN SỰ CỦA BỒ TÁT DƯỞC VƯƠNG

Bấy giờ, Bồ-tát Tú Vương Hoa bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Dược Vương du hóa ở thế giới Ta-bà như thế nào? Bồ-tát này thực hành bao nhiêu trăm ngàn vạn ức na-do-tha khổ hạnh khó làm?
Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Kính xin giảng giải sơ lược để hàng Trời, Rồng, Thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, hàng Bồ-tát từ nước khác đến và chúng Thanh văn này nghe được đều vui mừng.
Đức Phật dạy:
- Thuở quá khứ cách đây vô lượng hằng hà sa kiếp có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến Tri, Minh hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy có tám mươi ức Đại Bồ-tát, bảy mươi hai hằng hà sa đại Thanh văn.
Phật thọ bốn mươi hai ngàn kiếp, Bồ-tát cũng vậy. Nước đó không có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la và các nạn khổ. Đất bằng lưu ly phẳng như bàn tay, cây báu đẹp đẽ, màn báu che ở trên, phướn, hoa quý rũ xuống, đốt hương trong bình báu xông thơm khắp cả nước, dưới mỗi cây có một đài bảy báu, cây ấy cách đài khoảng một lằn tên. Dưới mỗi cây báu đều có Bồ-tát và Thanh văn an tọa. Trên mỗi đài báu đều có trăm ức chư Thiên trổi nhạc trời khen ngợi cúng dường Đức Phật.
Bấy giờ, Đức Phật ấy đang nói kinh Pháp Hoa cho Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, hàng Bồ-tát và chúng Thanh văn. Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ưa thích tu tập khổ hạnh trong giáo pháp của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, tinh tấn kính hành, dốc lòng cầu quả vị Phật. Trải qua mười hai ngàn năm được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Được tam-muội này rồi, Bồ-tát vô cùng vui mừng, suy nghĩ: “Ta đã được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân đều nhờ năng lực nghe kinh Pháp Hoa.” Ta sẽ cúng dường Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và kinh này. Lập tức Bồ-tát vào Tam-muội, ở giữa hư không, rưới hoa Mạn-đà-la, Đại mạn-đà-la, bột Kiên hắc Chiên-đàn như mây đầy trong hư không và hương Hải thử ngạn Chiên-đàn, sáu thù hương này có giá trị bằng thế giới Ta-bà để cúng dường Đức Phật.
Cúng dường xong, ra khỏi Tam-muội, Bồ-tát lại suy nghĩ: “Tuy ta dùng năng lực thần thông để cúng dường Đức Phật, cũng không bằng đem thân cúng dường.”
Bồ-tát liền uống các loại nước thơm như: Chiên-đàn, Huân lục, Đâu lâu-bà, Tất-lực-ca, Trầm thủy giao, Chiêm-bặc, các loại nước hoa thơm… Trải qua một ngày hai trăm năm, rồi dùng dầu thơm thân, quấn y báu cõi trời, rưới các loại dầu thơm, dùng nguyện lực thần thông đến trước Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức để tự thiêu thân, ánh sáng chiếu khắp tám mươi ức hằng hà sa thế giới chư Phật trong các thế giới ấy đồng thời khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Đây là chân thật tinh tấn, đây gọi là pháp chân thật để cúng dường Như Lai. Nếu có dùng vô số phẩm vật như: hoa, hương, chuỗi ngọc, hương dốt, hương bột, hương xoa, phướn lọng bằng lụa cõi trời và hương Hải thử ngạn chiên-đàn… để cúng dường đều không thể bằng được. Giả sử có đem nước, thành, vợ con để bố thí cũng không thể sánh được.”
Này thiện nam! Đó là pháp bố thí bậc nhất, là tối tôn tối thượng trong các pháp bố thí, vì dùng pháp để cúng dường các Đức Như Lai.
Nói xong, chư Phật đều im lặng. Lửa nơi thân của Bồ-tát cháy, trả i qua hai ngàn một trăm năm mới tắt. Cúng dường pháp như thế xong, sau khi qua đời, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sính Hỷ Kiến lại sinh trong nước của Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Ở trong cung của vua Tịnh Đức, bỗng nhiên Bồ-tát hóa sinh ra trong tư thế ngồi kiết già, liền nói kệ với vua cha:
Xin vua cha biết cho
Con kinh hành nơi ấy,
Liền chứng đắc tất cả
Tam-muội “Hiện các than” ,
Tu tập rất siêng năng
Xả bỏ thân đáng yêu.
Nói kệ xong, thưa:
- Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức vẫn còn ở đời, lúc trước con đã cúng dường Đức Phật xong mới được chứng đắc Đà-la-ni “Hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh”, lại được nghe tám trăm ngàn vạn ức na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà… bài kệ kinh Pháp Hoa. Hôm nay con trở lại cúng dường Đứe Phật ấy.
Thưa xong, liền ngồi nơi tòa bảy báu, bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, đến chỗ Đức Phật, Bồ-tát đảnh lễ dưới chân, chắp tay nói kệ khen Phật:
Dung nhan Phật thù thắng
Ánh sáng chiếu mười phưong,
Con đã từng cúng dường
Nay lại được gần gũi.
Bấy giờ, nói kệ xong, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vẫn còn ở đời ư?
Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, bảo Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến:
- Này thiện nam! Đã đến lúc ta nhập Niết-bàn, đã đến lúc diệt độ, ông nên sửa soạn chỗ nằm, đêm nay ta sẽ vào Niết-bàn.
Đức Phật bảo:
- Này thiện nam! Ta đem Phật pháp dặn dò lại cho ông cùng các hàng Bồ-tát, chúng đại đệ tử và pháp Vô thượng Bồ-đề. Lại đem chư Thiên cung cấp hầu hạ, bảy báu, các cây báu, đài báu trong tam thiên đại thiên thế giới giao phó hết cho ông. Sau khi ta diệt độ, có xá-lợi cũng phó chúc cho ông. Ông nên tạo dựng ngần ấy ngàn tháp để lưu truyền, thiết lập cúng dường. Nói như thế xong vào khoảng cuối đêm Đức Phật nhập Niết-bàn.
Bấy giờ, thấy Đức Như Lai nhập diệt, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rất buồn rầu thương tiếc, liền dùng Hải thử ngạn chiên-đàn để cúng dường trả-tỳ thân Phật. Sau khi lửa tắt, Bồ-tát thu nhặt xá-lợi đựng trong tám mươi bốn ngàn bình báu, tôn trí nơi tám mươi bốn ngàn tháp, cao bằng ba thế giới, trang trí các phướn lọng rũ xuống, treo các linh báu để cúng dường.
Bấy giờ Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến tự nghĩ: “Dù ta đã cúng dường Đức Phật như thế nhưng thấy chưa đủ, hôm nay ta lại cúng dường xá-lợi”, liền bảo hàng Bồ-tát, chúng đại đệ tử cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa… tất cả đại chúng:
- Các ông phải nhất tâm ghi nhớ, hôm nay ta cúng dường xá-lợi Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức .
Nói xong liền ở trước tám mươi bốn ngàn tháp, Bồ-tát đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm suốt bảy vạn hai ngàn năm để cúng dường, làm cho vô số chúng cầu quả Thanh văn và vô số người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều được an trú trong Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân.
Bấy giờ, các hàng Bồ-tát, Trời, Người, A-tu-la… thấy Bồ-tát không còn tay, nên buồn rầu khóc lóc nói: “Bồ-tát này là Thầy giáo hóa chúng ta, nay đã đốt tay làm cho thân không được đầy đủ.”
Lúc ấy, ở trong đại chúng, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến phát nguyện: “Con đã bỏ hai tay chắc chắn sẽ được thân vàng ròng của Phật, nếu sự thật này không sai thì hai tay con trở lại như cũ.”
Phát nguyện xong nhờ phước đức, trí tuệ sâu dày nên hai tay của Bồ-tát tự nhiên trở lại như cũ. Ngay lúc ấy, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, chư Thiên rưới hoa báu, tất cả hang trời, người được điều chưa từng có.
Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa:
- Ý ông nghĩ sao? Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến chẳng phải ai khác, nay chính là Bồ-tát Dược Vương. Bồ-tát ấy đã bỏ thân bố thí trong vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp như thế.
Này Tú Vương Hoa! Có người nào muốn chửng đắc Vô thượng Bồ-đề, dù chỉ đốt một ngón tay cho đến một ngón chân để cúng dường tháp Phật hơn đem nước, thành, vợ con, tất cả núi rừng, sông hồ, vật quý báu trong tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường.
Có người nào dùng bảy báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường Phật và bậc Đại Bồ-tát, Bích-chi-phật, A-la-hán công đức của người đó không bằng người thọ trì một bài kệ của kinh Pháp Hoa vì phước của họ rất nhiều.
Này Tú Vương Hoa! Ví như trong các dòng nước sông ngòi, kênh rạch thì biển là lớn nhất. Cũng vậy trong các kinh chư Như Lai đã nói thì kinh Pháp Hoa này là sâu xa bậc nhất. Như các núi Hắc sơn Tiểu Thiết vi, Đại thiết vi và mười núi báu thì núi Tu-di là lớn nhất.
Cũng vậy trong các kinh thì kinh Pháp Hoa là tối tôn, tối thượng. Như trong các vì sao, mặt trăng là hơn hết. Cũng vậy trong ngàn vạn ức các kinh pháp thì kinh Phá p Hoa là chiếu sáng bậc nhất. Như mặt trời xua tan bóng tối, cũng vậy kinh này phá trừ tất cả sự tối tăm bất thiện. Như trong các vua nhỏ thì vua Chuyển luân là trên hết, cũng vậy trong các kinh đứng đầu, kinh này là tối thượng. Như Đế Thích là vua trong ba mươi ba cõi trời, cũng vậy, kinh này là vua trong các kinh. Như vua trời Đại phạm là cha của tất cả chúng sinh, cũng vậy, kinh này là cha của tất cả Hiền thánh, Hữu học, Vô học và hàng phát tâm Bồ-tát.
Như trong tất cả phàm phu thì bậc Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật là bậc nhất; cũng vậy, trong các kinh, pháp mà tất cả chư Như Lai, hàng Bồ-tát, Thanh văn đã nói thì kinh này là tối thắng; cũng vậy, có người nào thọ trì kinh này thì người ấy cũng là bậc nhất trong tất cả chúng sinh. Trong tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát là bậc nhất; cũng vậy trong tất cả các kinh pháp, kinh này là tối thượng. Như Đức Phật là vua trong các pháp, cũng vậy, kinh này là vua trong các kinh.
Này Tú Vương Hoa! Kinh này cứu giúp tất cả chúng sinh, làm cho họ xa lìa các khổ, được nhiều lợi ích và những mong cầu đều được đầy đủ, như ao nước mát mẻ làm thỏa mãn tất cả những người khát nước; như người lạnh được lửa, như người trần truồng được y phục, người buôn gặp chủ, con gặp mẹ, qua sông gặp thuyền, bệnh được thuốc, tối được đèn, nghèo được của báu, dân gặp vua, như khách buôn gặp biển, như đuốc trừ tối tăm.
Cũng vậy, kinh này làm cho chúng sinh xa lìa tất cả bệnh, khổ, hiểu rõ tất cả sự trói buộc của sinh tử. Có người nào được nghe kinh Pháp Hoa này tự mình hoặc khuyên người khác biên chép thì công đức của người ấy nhiều hay ít cũng không thể biết được giới hạn dù dùng trí tuệ của Phật để tính toán. Nếu chép kinh này rồi dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phướn, lọng, y phục, các thứ đèn như nến, dầu, dầu thơm, Chiêm-bặc, Tu-mạn-na, Ba-la-la, Bà-lợi-sư-ca và Na-bà-na-lợi… để cúng dường cũng được vô lượng công đức như thế.
Này Tú Vương Hoa! Có người nào nghe phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương cũng được công đức vô lượng, vô biên. Có người nữ nào nghe, thọ trì phẩm này thì được vĩnh viễn chấm dứt thân nữ. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, sau năm trăm năm, có người nữ nào nghe kinh này như lời dạy mà tu hành thì người này khi chết được sinh vào thế giới an lạc trụ xứ của Đức Phật A-di-đà, có hàng Đại Bồ-tát vây quanh, từ trong tòa hoa sen báu mà hóa sinh ra, không bị tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, ganh ghét và các phiền não làm hại, chứng đắc thần thông Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Được nhẫn này rồi mắt người ấy thanh tịnh nên thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức na-do-tha, hằng hà sa chư Phật.
Lúc này, từ xa chư Phật đồng thanh khen ngợi:
- Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Trong pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ông nên thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ kinh này vì người khác diễn nói thì được phước đức vô lượng, vô biên, lửa không thể đốt cháy, nước không thể cuốn trôi một ngàn Đức Phật cùng nói công đức của ông cũng không thể hết. Hôm nay, ông đã phá trừ các giặc ma, diệt hết quân sinh tử, xua tan các oán thù khác.
Này thiện nam! Trăm ngàn chư Phật đều dùng thần lực để hộ vệ ông, tất cả trời, người trong thế gian và trí tuệ thiền định của hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Bồ-tát cũng không ai bằng ông, chỉ trừ Đức Như Lai.
Này Tú Vương Hoa! Bồ-tát này thành tựu các năng lực công đức, trí tuệ như vậy. Người nào nghe phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương có thể tùy hỷ khen ngợi thì đời này trong miệng người ấy thường tỏa ra hương thơm hoa sen thơm, trong lỗ chân lông thường tỏa ra hương thơm Ngưu đầu chiên-đàn, được công đức như đã nói ở trên.
Này Tú Vương Hoa! Ta đem phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương này phú chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, sau năm trăm năm ông nên truyền bá khắp cõi Díêm-phù-dề, đừng để chấm dứt và không cho hàng ác ma, dân ma, hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… quấy phá.
Này Tú Vương Hoa! Ông nên dùng năng lực thần thông để giữ gìn kinh này. Vì sao? Vì kinh này là vị thuốc hay cho người bệnh ở cõi Diêm-phù-đề. Có người bệnh nào được nghe kinh này thì được lành bệnh, không già, không chết.
Này Tú Vương Hoa! Nếu thấy có người nào thọ trì kinh này, ông nên dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải trên người ấy, rải xong liền nghĩ: “Không bao lâu nữa, chắc chắn người này sẽ trải cỏ ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, thổi loa pháp, đánh trống pháp lớn, cứu độ tất cả các chúng sinh ra khỏi biển sinh, già, bệnh, chết.” Thế nên người cầu quả Phật, thấy người nào thọ trì kinh điển này thì phải cung kính như thế.
Lúc Đức Phật nói phẩm Bản Sự Của Bồ-tát Dược Vương, có tám vạn bốn ngàn Bồ-tát chứng đắc Đà-la-ni Hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Trong tháp báu Đức Đa Bảo Như Lai khen Bồ-tát Tú Vương Hoa:
- Lành thay, lành thay! Này Tú Vương Hoa! Ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn mới có thể thưa hỏi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni việc như vậy để làm lợi ích vô lượng cho tất cả chúng sinh.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 7 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn


Cảm tạ xứ Đức


Công đức phóng sinh


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 1

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.222.240.21 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập