Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh [菩薩從兜術天降神母胎說廣普經] »» Bản Việt dịch quyển số 6 »»

Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh [菩薩從兜術天降神母胎說廣普經] »» Bản Việt dịch quyển số 6


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ

Kinh này có 7 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm thứ 20:
Vô minh

Bấy giờ, trong đại hội có Bồ tát tên Trí Thanh Tịnh, phân biệt rõ về không, không sanh già bệnh chết, người dâm nộ si nhiều, người dâm nộ si ít; phân biệt rõ ràng chúng sanh có ba bậc khác nhau, trong hạng người đó có những bệnh nặng gì, bị bệnh nặng đó là tà kiến.
Bồ tát Trí Thanh Tịnh đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:
- Như Lai Vô sở trước Đẳng chánh giác không việc gì không biết, không điều gì không thấy, quá khứ đương laihiện tại, từ loài người đến côn trùng, tâm nghĩ pháp gì, miệng nói lời gì, thân làm thiện ác, giới cấm sâu xa, oai nghi giới luật, biết nhiều biết ít, biết nặng biết nhẹ... Những gì con hỏi chẳng phải không, chẳng phải bất không; chẳng phải hữu, chẳng phải bất hữu; chẳng phải hữu không, chẳng phải hữu hữu. Chúng sanh thuộc ba tụ, ai là nhẹ, ai là nặng, ai là hiện báo, ai là sanh báo, ai là hậu báo. Thế nào là tưởng tri diệt, thế nào là Niết-bàn, thế nào là Vô dư?
Phật dạy Bồ tát Trí Thanh Tịnh:
- Lành thay! Lành thay! Ta rất vui khi ông hỏi nghĩa này. Vì thương xót tất cả, được nhiều lợi ích mới ở trước Phật hỏi pháp bình đẳng. Ông hãy về lại chỗ ngồi, Ta sẽ giải nói cho ông về cú nghĩa loại đầu, giữa, cuối. Nếu nghiệp đen thì thọ quả báo đen, nghiệp trắng, nghiệp trắng thọ quả báo trắng. Ta sẽ phân biệt rõ ràng để ông biết.
Bấy giờ Thế tôn nói kệ:
- Như người trồng cây trái
Hạt đắng, quả cũng đắng
Bị tội mắc báo đen
Chịu khổ vô số kiếp
Giống ngọt, được quả ngọt
Trở lại thọ báo ngọt
Hương thơm rất ngon ngọt
Được hưởng báo thanh bạch
Như người ở ao nước
Trong ngoài đều thanh tịnh
Không gió, không bụi dơ
Thơm đẹp được mát mẻ
Có chúng sanh nào thấy
Ưa thích không thể xa
Phật đạo hạnh thanh tịnh
Giống như cỏ khác đậu
Những chúng sanh báo đen
Đọa ba đường ác nạn
Theo dòng nước lên xuống
Nổi trôi chỗ ách nạn
Khi ấy phiền não khổ
Tự chịu không ai thay
Chẻ xương thấu tủy não
Thiêu đốt không thể lường
Đã đến ngục Vô cứu
Ý ngộ cầu giải thoát
Bị vô minh che lấp
Không thấy ánh sáng huệ
Như người đi lạc đường
Về Nam cho là Bắc
Suốt ngày tâm không ngộ
Tuy nghe cũng không tin
Chịu tội khổ não nặng
Đau đớn càng tăng thêm
Lâu sau tội tuy hết
Bị người đời khinh ghét
Thân thể hôi, xấu xí
Như heo nằm vũng phân
Lần lượt vào vạc sôi
Chết rồi sống trở lại
Vốn do ngu si tạo
Thọ báo như bóng hình
Thiện ác đều tương ứng
Phân loại theo chúng sanh
Vô đạo, không bè đảng
Hành cũng có cao thấp
Giữ giới sanh lên trời
Không thí, phước rất ít
Ăn cơm sợ người thấy
Xấu hổ không lộ diện
Tuy có chúng thiên nữ
Âm nhạc không hòa nhã
Luôn luôn đi dạo chơi
Sợ gặp thiên thần đẹp
Nếu giới, thí đầy đủ
Cam lồ, y, thực đến
Kỹ nhạc vây xung quanh
Như trăng sáng trong sao
Luôn luôn đi dạo chơi
Tùy tùng tự trang nghiêm
Nhạc trời tự nhiên trỗi
Đây do ở nhơn gian
Đủ trì giới, bố thí
Phước báo như hình bóng
Chư thiên tuy hưởng phước
Cũng có kiếp số nạn
Khi gần sắp qua đời
Mới biết pháp suy tàn
Niệm thiện chuyển rất ít
Còn phải chịu làm thân
Luân hồi trong năm đường
Trải qua vô số kiếp
Thiện ác chịu quả báo
Không riêng giàu hay hèn
Trong ấy bậc vượt lên
Như Ta, Thích Ca Văn.
Khi Phật nói kệ này rồi, trong đại chúng có chư thiên và người gồm bảy vạn bảy ngàn ức na-do-tha đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn.
Bấy giờ, Thế tôn dạy Bồ tát Trí Thanh Tịnh:
- Đại Bồ tát Nhất sanh bổ xứ dùng quyền phương tiện sanh trong nhà bần tiện, muốn được thị hiện trừ kiết sử vô minh, ở trong thai mười tháng, khi mới sanh hiện không có tay chân, cha mẹ thấy vậy cho là quỷ nên đem quăng nơi đồng hoang, không muốn cho ai thấy. Vì sao? - Vì Bồ tát quyền hóa muốn cho cha mẹ cùng quyến thuộc ngu si thấy được ánh sáng của đạo. Sau đó vài tháng, người mẹ lại mang thai, đủ mười tháng sanh một cậu bé đoan nghiêm tuấn tú, hiếm có trên đời, nhưng vừa mới sanh ban ngày thì tối chết. Cha mẹ kêu khóc đấm ngực, ngước lên trời kêu:
“Thần núi, thần cây sao không thương tôi? Trước đây sanh một đứa con nhưng không có tay chân, đành phải quăng vào đồng hoang. Nay sanh một đứa con đẹp đẽ, tướng mạo không ai bằng, giống như thiên thần, nhưng lại sanh ban ngày thì tối chết. Ruột gan tôi đứt đoạn, phải làm sao bây giờ?! ”.
Qua vài tháng, người mẹ lại mang thai, đủ mười tháng sanh một bé trai nhưng ba đầu tám chân, bốn mắt, tám tay, ai thấy cũng rợn tóc gáy. Cha mẹ quyến thuộc muốn bỏ mà đi, Bồ tát quyền hiện cho họ không đi được. Cha mẹ hỏi:
“Con là trời, là rồng, quỷ thần, A tu la, Càn thác bà, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người hay là phi nhơn?”
Bấy giờ, cậu bé nói với cha mẹ bằng kệ:
- Chẳng trời, quỷ, Dạ xoa
Tu luân, Ca lầu la
Vì trừ ngu cha mẹ
Quyền sanh nhà mẹ cha
Con trước không tay chân
Cũng chính là thân con
Sáng sanh, chiều lại chết
Bậc bát trụ vô thượng
Nay con thọ thân hình
Ba đầu, tám tay chân
Sao lại bỏ con đi?
Đi đến cửa địa ngục
Khổ địa ngục đầy đủ
Mười tám vạc dầu sôi
Mỗi vạc dầu sôi ấy
Có mười sáu vạc nhỏ
Chịu khổ vô lượng kiếp
Muốn ra khỏi rất khó
Cha mẹ người ngu si
Không biết pháp chơn tánh
Tà kiến thờ cúng thần
Cho là thoát khổ nạn
Như ngọn lửa hừng hực
Lại thêm củi, cỏ khô
Thiêu đốt gốc căn lành
Muốn diệt cũng chưa khó
Nay con làm thân lại
Hiện thân đẹp đẽ xưa
Đạo vững tâm kiên cố
Tu tập ba thông huệ
Từ a tăng kỳ kiếp
Thề độ người chưa độ
Giữ giới, nguyện không quên
Thác sanh nhà cha mẹ
Trước sau bỏ thân mạng
Số ấy như vi trần
Trải qua bao nhiêu chỗ
Đều nhờ phước giúp đỡ
Bao nhiêu loài quần sanh
Dấu chân đi khác nhau
Sẽ hoan hỷ độ họ
Cũng độ bằng khủng bố
Tùy theo niệm chúng sanh
Để họ được toại nguyện
Bệnh chúng sanh chẳng một
Cho uống thuốc cam lồ
Cho đi vào đường chánh
Không để vào đường tà
Chư thiên hưởng phước lạc
Cam lồ trừ bệnh: vui
Không trái Thánh giáo: vui
Giải thoát Niết-bàn: vui
Khi Bồ tát nói kệ này, cha mẹ dòng họ và những người trong hội đều phát tâm Vô thượng bình đẳng.
Phẩm thứ 21: Khổ hạnh
Bấy giờ, các chúng hội Bồ tát, trời, rồng, quỷ thần, A tu la, Càn thát bà, Ca lầu la, Ma hầu la già, Khẩn na la, nhơn, phi nhơn, bậc học vô học và bốn bộ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Như Lai quán sát biết tâm niệm của các chúng sanh là muốn thưa thỉnh Như Lai nói sự thành tựu rốt ráo về vô lượng khổ hạnh, làm thế nào để phát tâm được thành Phật đạo. Biết tâm niệm của họ, Phật liền nói cho họ về hạnh khổ cực xưa kia.
Phật dạy các Bồ tát:
- Hãy lắng nghe pháp tướng chân thật của Ta nói, không phải do thế tục mà đắc đạo, cũng không lìa thế tục mà đắc đạo; không theo chơn đạo, cũng không lìa chơn đạo. Vì sao? - Vì trong cái đen có cái đẹp của trắng, vì trong tục có cái đẹp của đạo. Khổ vui cùng có. Vì sao? - Vì xưa kia Ta học đạo rất trực tín, không nghi ngờ, được làm vua mặt trời, mặt trăng. Cung điện mặt trời ngang dọc năm mươi mốt do-ruần. Cung điện mặt trăng ngang dọc bốn mươi chín do-tuần. Mặt trời phóng ánh sáng một ức một ngàn ánh sáng. Mặt trăng tỏa một ức ánh sáng. Ta là thiên tử của mặt trời, mặt trăng nên cho rằng thường trụ, không hư, không hoại, từng đi qua hằng hà sa ức vạn cõi, làm thiên tử mặt trời, làm thiên tử mặt trăng, đến khi mạng hết mới biết chẳng phải thật, chẳng phải chân.
Sau đó thọ mạng giảm dần, làm đại thần mặt trời mặt trăng tên là Hà Già La, cung điện ngang dọc hai mươi lăm do-tuần, kế làm Tỳ Lê Ha Ba Đề (loài rồng), cung điện ngang dọc hai mươi do-tuần.
Lại làm Ương Già La, cung điện ngang dọc mười chín do tuần.
Lại làm Hê Mỗ, cung điện mười chín do tuần.
Lại làm Hàm Mi, cung điện mười lăm do tuần.
Năm đại thần này đứng hai bên mặt trời mặt trăng. Qua vô số trăm ngàn kiếp làm năm vì sao này đoạn tận rồi bị đọa lạc, cũng không chân thật, rồi thọ mạng của họ giảm dần.
Ta từng làm sao Mão cùng với bạn sáu người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Tất với bằng đảng năm người, độ bốn mươi lăm.
Ta từng làm sao Tuy, bè đảng ba mươi người, độ ba mươi.
Ta từng làm sao Sâm, đơn độc một mình độ mười lăm.
Ta từng làm sao Tỉnh, bè đảng hai mươi người, độ bốn mươi lăm.
Ta từng làm sao Quỷ, bè đảng ba mươi người độ bốn mươi.
Ta từng làm sao Liễu, bè đảng bốn mươi người, độ mười lăm.
Bồ tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phía Đông.
Ta từng làm sao Tinh, bè đảng năm người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Trương, bạn bè hai mươi người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Dực, bạn bè hai mươi người độ ba mươi lăm.
Ta từng làm sao Chẩn, bạn bè năm người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Giác, đơn độc một mình độ ba mươi.
Ta từng làm sao Cang, cũng đơn độc một mình độ mười lăm.
Ta từng làm sao Để, bạn bè hai mươi người độ ba mươi lăm.
Bồ tát nên biết, bảy sao này đứng ở phương Nam.
Ta từng làm sao Không, bạn bè bốn người độ ba mươi lăm.
Ta từng làm sao Tâm, bạn bè ba người độ mười lăm.
Ta từng làm sao Vĩ, bạn bè ba người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Ky, bạn bè bốn người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Đấu, bạn bè bốn người độ ba mươi lăm.
Ta từng làm sao Ngưu, bạn bè ba người độ mười sáu.
Ta từng làm sao Nữ, bạn bè ba người độ ba mươi.
Bồ tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phương Tây.
Ta từng làm sao Hư, bạn bè bốn người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Ách, đơn độc một mình độ mười lăm.
Ta từng làm sao Thất, bè đảng hai người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Bích, bạn bè hai người độ ba mươi lăm.
Ta từng làm sao Khuê, bạn bè hai người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Lâu, bạn bè hai người độ ba mươi.
Ta từng làm sao Vị, bạn bè ba người độ ba mươi.
Bồ tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phương Bắc.
Từ vô số kiếp Ta làm vua mặt trời mặt trăng, hoặc làm quan thần qua lại xoay tròn, hình hài khô bại, không phải đạo chân thật. Sau đó đến nhân gian làm vua Chuyển luân Thánh vương, vua nhỏ đủ miền, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ cầu đạo thanh tịnh cho là chân thật. Nhưng tất cả đều là việc làm trống không, không hợp với đạo chân thật.
Xưa kia có một thời Ta vào núi cầu đạo, thấy các tiên học gồm năm người đều nhóm họp ở một chỗ:
Có người co một chân, chấp tay đứng, chuyển thân nhìn theo mặt trời.
Hoặc có người thờ mặt trăng, chấp tay đứng, chuyển thân nhìn theo mặt trăng.
Có người nằm trên gai góc, hoặc nằm trên cát đá.
Có người giữ giới học theo gà, bò, ngựa, nai.
Có người từ trên đỉnh núi gieo mình xuống vực sâu.
Có người ôm đá, tự trầm mình xuống sông sâu.
Có người dùng năm thứ lửa tự đốt thân để cầu được sanh lên trời.
Có người xẻ từng bộ phận của thân để tìm chỗ ở của thần.
Có người mổ đỉnh đầu để lấy tủy não đốt đem cúng dường chư thiên.
Có người quăng mình vào dầu sôi nước nóng.
Có người ở bên phải của dòng sông giết vô lượng chúng sanh.
Có người ở bên trái dòng sông đốt hương để cho những chúng sanh qua đời đó được sanh lên cõi trời.
Có người tự suy nghĩ: “Nay ta độ cha mẹ trước”, nên đem cha mẹ quăng trong lửa, rồi xướng lên: sẽ sanh lên cõi Phạm.
Có người ăn phân bò, có người ăn hạt cỏ.
Có người bảy ngày ăn một lần, hoặc có khi không ăn, hình hài khô gầy.
Có người bện lá cây để làm y phục.
Có người nối xương để làm y phục.
Có người lấy đầu lâu để làm đồ đựng thức ăn.
Có người nằm trên gai, kim nhọn, rồi chích vào tim để giữ tâm trụ.
Có người nhóm họp lại một chỗ, cùng nhau mổ bụng để rửa ruột trừ đi sự dơ bẩn, nói rằng để sanh lên cõi Phạm thiên.
Những sự khổ hạnh xưa kia của Ta không thể lường được, học đạo sáu năm dưới gốc cây thọ vương, mỗi ngày ăn một hạt mè, hạt gạo, chim chóc làm ổ sanh con trên đỉnh đầu của Ta. Loài rắn, trăn quấn lấy thân Ta. Người thợ săn quăng ném gạch đá, có lúc chặt chẻ phá hoại thân thể, có lúc dùng gậy đâm vào bụng cho đến rốn,...chịu trăm ngàn vạn khổ như vậy mà không cho là khổ. Vì sao? - Vì lúc bấy giờ Ta cho là đạo chân thật, thật ra chẳng phải là đạo chân thật.
Ở trên hư không có vị trời chấp tay thưa Bồ tát rằng: “Sức chịu đựng rất to lớn, có thể phá nát các kiết sử, xin Ngài hãy nghĩ đến thành Phật, cẩn thận đừng thối lui!”.
Hằng hà sa chư Phật quá khứ không giống như Bồ tát tuyệt thực để cầu đạo. Điều này làm cho thiên thần cảm động mới sai những cô gái dâng bát sữa. Uống xong, khí lực bình phục, tư duy bảy ngày chiến thắng quân ma. Phạm thiên xuống thỉnh: “Xin hãy thành Phật để xiển dương đại pháp, để nói đạo chân thật, đừng vào Niết-bàn”.
Niết-bàn là không sanh, già, bệnh, chết. Xưa kia Ta đã từng tu khổ hạnh như vậy.
Bấy giờ, trong chúng hội ca ngợi là điều chưa từng có và tất cả đều phát tâm đạo bình đẳng vô thượng.
Phẩm thứ 22: Tứ đạo hòa hợp
Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ tát tên Biến Quang, trí huệ thông đạt, trụ vào địa vị Bất thối chuyển, lòng thệ nguyện rộng lớn không thể nào lường được. Được chư Phật khen ngợi chẳng phải một, chẳng phải hai, có công đức vô lượng với hằng hà sa Phật, chứa nhóm hạnh vô úy, thường dạo đi vô lượng cõi Phật, cùng học với tám vị:
1- Bồ tát Bất Tà Kiến
2- Bồ tát Trực Ý
3- Bồ tát Chúng Tướng
4- Bồ tát Khuất Thân
5- Bồ tát Giải thoát
6- Bồ tát Giải Phược
7- Bồ tát Ấn Khả
8- Bồ tát Thệ Nguyện.
Từ vô số kiếp đã trụ vào Tận địa, đắc bất thối chuyển.
Bấy giờ, Bồ tát Biến Quang thưa Phật:
- Làm thế nào đại Bồ tát nhập vào bốn loại đạo mà không có trước sau, đắc thành đạo Vô thượng Đẳng chánh giác? Bồ tát ngày đêm tư duy thấy dục như lửa, tưởng tri niệm đều tận những hành pháp điên đảo; thấy lợi pháp đầu tiên được quả A-na-hàm, thì ngay ở cung trời ấy thủ đạo minh chứng. Như vậy không bao lâu, có lúc Bồ tát ở địa vị trên quán sát xuống cõi Dục giống như đống bọt nước, đoạn trừ ba kiết sử, xa lìa ba ác đối với hữu, vô hữu. Hoặc có Bồ tát đắc căn đắc lực, lập chí tự tại, phá hữu diệt vô, không còn bốn đẳng tâm, kia đây đều bình đẳng không có tưởng ngã, chẳng quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng có Đẳng chánh giác. Vậy những chúng sanh (?) này đối với đạo Vô thượng có gì sai khác?
Phật dạy:
- Lành thay! Những câu hỏi này Ta sẽ phân biệt rõ ràng đầy đủ cho ông.
Sao gọi là nhân duyên của nhân duyên Bồ tát.
Sao gọi là nhân duyên của nhân duyên? - Sự xúc chạm của vòng xuyến nơi hai tay gọi là nhân duyên của nhân duyên.
Người kia dạy ta tiếp thu nhờ nơi âm thanh tiếng nói giáo hóa, gọi là Thanh văn, không có thầy, không có trí, không nhờ kia đây, nên gọi là Phật Duyên giác.
Lại nữa, đối với đạo này đạo kia, đại Bồ tát học hỏi quyết nghi với nhau, được chứng hay không chứng đều trôi theo năm đường. Đó gọi là Giác, cũng không thấy giác, cũng không thấy không giác, không một, không hai, đó là không hai nhập.
Đại Bồ tát bổn hạnh tu tập hiểu rõ Duyên giác, với hữu dư, vô dư kiết sử đều đoạn hẳn, đó là không hai nhập.
Tất cả tầng lớp chúng sanh hiểu rõ đều là vô thường. Thân chẳng phải của ta, trong ngoài đều là trống không. Đó là không hai nhập.
Ân đức của Phật lan rộng khắp nơi không bờ bến, lấy khổ tập đạo để đạt đến vô vi, đó là không hai nhập.
Tứ đẳng đại bi che trùm hết tất cả, chúng sanh ngu si được đến đạo chân thật, đó là không hai nhập.
Bấy giờ Thế tôn nói kệ:
- Thanh văn, Bích Chi Phật
Là tên mượn để gọi
Như người đại chiến thắng
Thắng giặc là trên hết
Không ai sánh bằng Phật
Một mình vào ba cõi
Điều tâm chiến thắng ma
Sức nhẫn đến Niết-bàn
Luân chuyển khổ sanh tử
Mạng như lửa đá mài
Trải qua ức trăm ngàn
Không biết khi nào thoát
Phật vốn không danh hiệu
Vì do người tôn trọng
La hán, Bích Chi Phật
Chỉ một không có hai
Như Phật Định Quang kia
Thọ ký Ta vô thượng
Sau chín mươi mốt kiếp
Ở trong Hiền kiếp này
Bậc tối thắng thứ tư
Hiệu là Thích Ca Văn
Đời vạc sôi năm trược
Không hiếu thuận cha mẹ
Sát hại A-la-hán
Không vâng lời Phật dạy
Những nơi Ta từng ở
Chẳng một, chẳng hai đường
Trong sáu đường phiền não
Trải qua vô số kiếp
Đầu, giữa, cuối không ngủ
Kinh hành tu đạo đức
Kỉnh tâm tự giác ngộ
Lìa chấp trước ba hữu
Hạnh nguyện xưa của Phật
Không xả thủ diệt độ
Một thân, một thần thức
Giống mình không có khác
Cực khổ trong số kiếp
Tinh thần bị suy sụp
Vì họ, không vì mình
Nên được thành Phật đạo
Ta là Nhất thiết trí
Dạy cho người chưa dạy
Huệ thông không chấp trước
Một tiếng dứt nghi ngờ
Ba đời Tu-đà-hoàn
Đạt đến đạo vô vi
Huống chi người đệ nhất
Theo Phật không còn nghi
Các đệ tử của Ta
Hữu học và vô học
Tứ đẳng cứu vớt khổ
Không khởi, không sanh diệt
Vốn do tư tưởng sanh
Lại do tư tưởng diệt
Phi ngã tư tưởng sanh
Phi ngã tư tưởng diệt
Hành vốn do có căn
Trôi nổi chẳng một mối
Căn đoạn dứt tư tưởng
Không còn niệm căn bản
Khi Thế tôn nói kệ xong, có mười hai na-do-tha chúng sanh đều phát tâm đạo bình đẳng vô thượng.
Phẩm thứ 23: Ý
Bấy giờ trong hội chúng có Bồ tát tên Căn Liên Hoa, huệ thí vô ngại, thực hành bốn tâm bình đẳng kiên cố khó lay động, đi đứng nằm ngồi không mất oai nghi lễ độ. Từ vô số kiếp đến nay luôn tu hành phạm hạnh, thiền định không tán loạn, phân biệt rõ ràng về thiện ác, quán sát chúng sanh có tâm dâm nộ si hay không có tâm dâm nộ si. Dù nhiều hay ít gì cũng đều biết rõ, dạo đi qua các cõi Phật, cúng dường phụng thờ chư Phật Thế tôn. Khéo dùng phương tiện thị hiện vô thường, vô ngã, vô thân, vô thọ mạng, vô nhân; đi biết đi, đứng biết đứng, có lòng từ bi thương xót hết thảy mọi loài.
Khi ấy Bồ tát Căn Liên Hoa đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:
- Lành thay, bạch Thế tôn! Ý của bốn đạo ở chỗ nào?
Ý hữu vi hay ý vô vi?
Ý là quả hay ý là phi quả?
Ý là hữu đối hay vô đối?
Ý có thể thấy hay không thể thấy?
Ý là quá khứ, vị lai, hiện tại hay chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại?
Ý là pháp của tiên nhơn, hay chẳng phải pháp của tiên nhơn?
Ý là pháp hữu vi hay là pháp vô vi?
Ý là pháp hữu lậu hay là pháp vô lậu?
Đối với quả báo ba pháp thì ý ở đâu?
Ý ở trong đen hay quả báo đen?
Ý ở trong trắng hay quả báo trắng?
Ý ở trong không đen không trắng, hay trong quả báo không đen không trắng?
Ý ở hành pháp thô, hay hành pháp tế?
Thế tôn dạy Bồ tát Căn Liên Hoa:
- Lành thay! Lành thay! Này Bồ tát Căn Liên Hoa! Nghĩa mà ông hỏi là thương xót tất cả, khai hóa pháp tâm ý thức cho chúng sanh, thị hiện ánh sáng cho người mù tối. Nay ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ.
Bấy giờ Thế tôn nói kệ:
- Tối thắng không ai bằng
Thanh tịnh không vết dơ
Mặt đẹp như hoa sen
Không bị bụi làm dơ
Sống ở đời hữu vi
Bị khổ nạn ba cõi
Ta không, kia cũng không
Ý tịch không tâm thức
Như nước trong đồ đựng
Tùy theo tướng của vật
Quá khứ vốn chẳng có
Hiện tại hành thiện ác
Vị lai pháp sẽ hoại
Ý này vốn chẳng phải
Bồ tát hành đại bi
Cũng hiện đối - vô đối
Rửa trừ bệnh dơ nhớp
An ổn đạo cứu cánh
Người bị năm cái che
Khiến tâm bị chướng ngại
Như trời chiếu thiên hạ
Thường bị năm việc che
Khói bụi trần Tu-luân
Bít lấp pháp căn môn
Ý vốn không thiện ác
Theo hành động đã tạo
Tịch diệt, không, vô pháp
Như nhánh nhiều trái,gãy
Ví như cây chuối ấy
Lột mãi không có lõi
Thân người do bốn đại
Tìm ý không ý căn
Ý ở trong ba đời
Ba đời không có ý
Phân biệt thức tâm pháp
Tìm cầu không thật có
Ý pháp không hình tướng
Không thể nói ý ấy
Tâm nghĩ rất nhiều điều
Sanh diệt không đứt đoạn
Quá khứ nghĩ thiện ác
Vị lai sẽ thọ báo
Hiện tại hành đã đủ
Ý tạo chẳng phải ai
Một niệm chín mươi ức
Nghiệp có thiện có ác
Chỉ một niệm tạo ra
Diệt trừ không thể hết
Huống chi ngày tháng kiếp
Nghiệp thiện ác đã tạo
Người trí sẽ hộ thân
Kiên cố không lay động
Như kẻ phạm tội kia
Bưng bát dầu đầy tràn
Nếu rớt một giọt dầu
Càng thêm bị tội lớn
Hai bên trỗi âm nhạc
Sợ chết không dám nhìn
Bồ tát tu tịnh quán
Giữ ý như kim cang
Chê khen và não loạn
Tâm ý không lay động
Hiểu không xưa nay tịnh
Không kia, đây, chặng giữa
Pháp chơn như bốn đế
Hướng đến cửa Niết-bàn
Những việc xưa Ta tạo
Kết nối gốc thân căn
Chẳng tính thầy, đệ tử
Có thể tính đếm được
Vô số ức ngàn kiếp
Đem thân đền nợ tội
Thân voi ngựa lục súc
Không được sanh làm người
Dù được làm thân người
Bị điếc, đui, câm, ngọng
Phật hiện chiếu thế gian
Biên địa không thấy Phật
Khổ năm vạc nước sôi
Thuần ác không nghe thiện
Điên đảo theo tà pháp
Trong chơn tánh đạo suy
Ta từ vô số kiếp
Giữ hạnh như bát dầu
Yêu thân tự giữ gìn
Đưa đến chỗ vô úy
Chín mươi sáu loại đạo
Như đom đóm trong đêm
Phật nhật chiếu thế gian
Trừ bỏ các tối tăm
Có Phật người đời vui
Có thuốc người bệnh vui
Có bảo người nghèo vui
Thành Phật Niết-bàn vui
Khổ hạnh nhẫn nhục vui
Ta không chấp sắc vui
Xan tham bố thí vui
Giữ giới không phạm vui
Được nghe Phật dạy vui
Tư duy thiền định vui
Hữu - vô bình đẳng vui
Khó gặp được gặp vui
Địa ngục bát nạn khổ
Vô cứu đệ nhất khổ
Hạt giống mục nát khổ
Gieo mạ không lên khổ
Sanh thiên rồi đọa khổ
Chánh kiến đảo điên khổ
Rồng Nan, bạt nan khổ
Quấn núi Tu Di khổ
Kiếp thiêu lửa cháy khổ
Trạo hối cầu Phật khổ
Nhất hạnh hướng nhất đạo
Nhất tâm không thối lui
Một thân tu đạo đức
Cuối cùng thành nhất thật
Tu nhất, không lìa nhất
Đoan nghiêm nhất biết nhất
Giữ nhất, không lìa nhất
Nên nói đi một mình.
Khi Thế tôn nói kệ này, có mười sáu na-do-tha chúng sanh đạt được dấu đạo ban đầu, trừ bỏ trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh, với Vô sở trước nhập vào định tam muội.

Phẩm thứ 24: Định ý
Bấy giờ trong hội chúng có Bồ tát tên Trì Không, đầy đủ tướng tốt, nhập vào bốn pháp môn, biện tài số một, tu trì cõi Phật, mỗi cõi Phật đều lưu thân lại để giáo hóa, thị hiện sanh diệt tùy theo căn cơ cao thấp của con người, âm thanh nói năng có khi ngọt có khi đắng, nói rõ ràng về quá khứ, vị lai, hiện tại. Ở trước mặt người hỏi thì một khi trả lời bằng vạn ý, ý nghĩa thâm thúy khó có thể lường được.
Bấy giờ, Bồ tát Trì Không đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, thưa trước Thế tôn:
- Bồ tát làm thế nào để độ chúng sanh khổ đau?
Phật dạy Bồ tát Trì Không:
- Bồ tát làm thế nào để chúng sanh nghe tiếng khổ, hạnh khổ thì khổ đoạn, khổ diệt, không còn thấy nguồn gốc của khổ nữa. Con đường đưa đến khổ là do ân ái sanh ra, những sợi dây ân ái làm trói buộc tâm người. Lấy hai mươi pháp hạnh làm thuốc trị liệu, không còn theo gốc khổ, chất chứa hành nghiệp nhiều kiếp, diệt rồi sanh trở lại. Chúng sanh tà kiến cho là đạo chân thật, chuyển nhập định ý tam muội thanh tịnh. Thanh tịnh không vết dơ, không kia không đây. Tâm thức khai ngộ, dần dần được định ý. Lành thay sự lợi ích của Ta, an ổn khoái lạc không gì bằng. Tâm ý thức bị trói buộc lần lần mở ra, gọi đó là đạo chân thật, còn đây chẳng phải đạo chân thật. Vì sao? - Vì pháp hư ngụy lừa dối chẳng phải bổn hạnh của Phật. Những gì xưa kia chư Phật hành là chân thật. Ngoài Ta ra, không có pháp chân thật nào hơn những pháp mà Phật đã hành, đó là bốn bất tư nghì. Bốn bất tư nghì là gì?
- Bồ tát giữ ý có thể làm cho ba ngàn đại thiên thế giới cõi Phật đều bằng bảy báu, rồi làm trở lại như cũ. Đó là bất tư nghì thứ nhất.
- Như Ta ngày nay ở trong bào thai mẹ dẫn dắt cho vô lượng a tăng kỳ chúng sanh, người chưa độ được độ, người chưa đến được đến, trừ bỏ đi những dơ bẩn để đạt đến vô cấu. Đó là bất tư nghì thứ hai.
- Xưa kia Ta thệ nguyện cốt yếu là độ người đau khổ để đến nơi không còn khổ. Một người khổ, chưa độ được thì Ta không bao giờ vào Niết-bàn. Đó là bất tư nghì thứ ba.
- Thân Phật vô lượng, Đông - Tây - Nam - Bắc có thể dung chứa hết. Một mình không có bạn bè, tự tánh pháp không, quán chúng sanh rồi tự quán tánh của mình, đây đẹp kia xấu, đây tịnh kia bất tịnh, đây là địa thủy hỏa phong, đây là của ta, kia chẳng phải là của ta, đây khổ kia không khổ, đây vui kia không vui, đây thường kia vô thường, đây là đời này kia là đời sau, làm phước được phước, tạo tội chịu tội.
Khi ấy Thế tôn nói kệ:
- Thân như tro, đất, phân
Do bốn đại tạo thành
Không phong thủy trang nghiêm
Thì địa thủy ly tan
Hỏa diệt trong chốc lát
Thì thức không chỗ trụ
Tội nhiều chứa gốc khổ
Đây do thức tạo nên
Nay Ta biết bổn thức
Bỏ ngươi, ngươi không thật
Vải năm màu rực rỡ
Làm hư hoại tâm người
Như người thở ra vào
Hành pháp không dừng lâu
Hiểu biết vô thường, khổ
Không đây, kia, chặng giữa
Một tiếng ứng vạn ức
Hiển bày giáo đệ nhất
Thân vô thường,khổ,không
Hiểu rõ các pháp tướng
Trở về trụ lục tịnh
Hiểu không,vô tướng, nguyện
Thân chẳng phải của ta
Như Phật dạy chúng sanh
Thân còn tâm thức lìa
Nếu Phật không như vậy
Làm sao phân thân dạy
Báo tội phước theo trước
Nguyện đều được thỏa mãn
Nay thọ, sau không thọ
Hiện tại cũng như vậy
Tội giết hại cha mẹ
Cũng hiện, cũng không hiện
Giống như việc đánh cầu
Thần thức bị ô nhiễm
Hoặc nghịch hoặc hối hận
Một lòng hướng Niết-bàn
Bậc đại sư vô vi
Xả thân bỏ tục lụy
Pháp vốn không nhân duyên
Quả báo như hình bóng
Như có cũng không có
Tà kiến nói chân thật
Bị lưới si quấn trói
Từ đen vào lại đen
Không phân biệt pháp trắng
Giới nhẫn có năm hạnh
Không sợ, không bị sợ
Định lực chấn đại thiên
Thắng ma như điều binh
Người cầu đạo vô thượng
Có người thối, người tiến
Như sông chảy về biển
Đến nhiều, đạt thì ít
Gặp được duyên đại bi
Thiện quyền vượt bờ kia
Phật là Nhất thiết trí
Không nhiễm, không chấp trước
Ta vốn hành nghiệp khổ
Bỏ nước, thành, vợ con
Quên cha mẹ, sư trưởng
Không tiếc thân mạng mình
Như người giữa đồng hoang
Khao khát cần nước uống
Gặp sông, suối, ao, giếng
Lấy uống không còn khát
Người thọ thân tứ đại
Có định không định xứ
Huống thức không thiện ác
Thức thọ báo rõ ràng
Nhà bảy báu trì giới
Có trăm vạn thiên nữ
Nhạc trỗi để vui chơi
Không bao giờ sầu ưu
Lực Phật Nhất thiết trí
Thấm nhuần khắp mọi người
Trước đạt năm thần thông
Nhuần gội pháp cam lồ
Xưng dương bốn cú nghĩa
Không trước,sau,chính giữa
Pháp này nối pháp khác
Thông pháp tánh trong ngoài
Những gì Ta đã tạo
Bị ác sử trói buộc
Luân hồi trong năm đường
Mà cho là nhà cửa
Cảnh trời như lửa xẹt
Tìm kiếm không có thật
Rùa mù tìm bọng cây
Có lúc còn được gặp
Một khi ta mất mạng
Ức kiếp khó lại được
Biển rộng lớn sâu thẳm
Ba trăm ba mươi sáu
Nếu quăng kim vào biển
Tìm kiếm còn khi được
Một khi ta mất thân
Khó được hơn đó nữa
Người giữ luật, trì giới
Ở đời khó gặp được
Trong ức ngàn vạn kiếp
Phật như hoa Ưu-đàm
Những chúng sanh hữu duyên
Được Phật giáo hóa đạo
Đoạn trừ các kiết sử
Vĩnh viễn không bị vướng.
Khi Phật nói kệ này xong, có hai mươi na do tha chúng sanh lập tín căn kiên cố, không còn nghi ngờ và đều phát tâm đạo chân chánh vô thượng.
Phẩm thứ 25: Quang ảnh
Khi ấy ở trong thai, đức Thế tôn giảng rộng về đại thừa bất khả tư nghì. Vì sắp diệt độ nên Ngài thị hiện đức bóng ánh sáng, làm cho chúng hội đều cùng một màu, giống như màu vàng ròng của Phật không khác. Chư thiên, rồng, thần, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu La Già, nhơn, phi nhơn và bốn bộ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di có người hướng đến quả, có người đã đắc quả cũng đều một màu. Ai nấy đều muốn nghe Như Lai nói về bóng ánh sáng nên định ý gây dựng công đức, giải thoát vô ngại, có bốn biện tài, ứng đối rất mau lẹ, tưởng tri đều diệt tận, cứu giúp và gánh nặng cho mọi người, đi đứng nằm ngồi không mất oai nghi. Theo pháp chư Phật thường giảng nói về khổ - tập - diệt - đạo, dìu dắt chúng sanh vào bốn ý chỉ (tứ niệm xứ), thành tựu đoạn ý, giác lực, sư tử vô úy, tám con đường của bậc Thánh, không - vô tướng - vô nguyện.
Bấy giờ, trong hội chúng có Bồ tát tên Hiền Quang, đứng dậy trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:
- Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn phóng ánh sáng này chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới; ánh sáng được hóa này, có giống như Phật hóa không? Công đức của sức Phật chẳng phải một, chẳng phải hai, ánh sáng này tiếp xúc không thể cùng tận. Hai đức hạnh này có khác nhau không? Cúi xin đức Thế tôn giải thích những mối nghi ngờ để cho người chưa tin dứt hẳn hồ nghi.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy Bồ tát Hiền Quang:
- Những điều ông hỏi đều là do thần lực của Như Lai. Vì sao? - Vì ánh sáng thần diệu của Như Lai là để cứu độ chúng sanh nên không bị chướng ngại. Từ cõi Diêm Phù Đề lên đến trời Quả Thật, ánh sáng chiếu xa, giảng nói sáu độ vô cực: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Đúng như thần lực của Phật độ thoát chúng sanh, không còn kia, không còn đây. Vô số a tăng kỳ chúng sanh được cứu độ đều là nhờ ánh sáng mát dịu của đức Phật che chở.
Khi ấy, ánh sáng tự nhiên vang tiếng nói kệ:
- Quá khứ vô số Phật
Đều phóng ánh sáng này
Mỗi mỗi vầng ánh sáng
Nói sáu độ vô cực
Giới, nhẫn, giải thoát môn
Thích pháp để tự vui
Trước nói ba không định
Kế tiếp thành tựu đạo
Những người bị ba độc
Không trói, không bị trói
Bốn mươi tám kiết sử
Không cứu, không được cứu
Chẳng thật người hành đạo
Những nơi đã trải qua
Sống an vui ba chỗ
Dấu chân thần rất quý
Đi qua rất cao thượng
Đạt đến bờ vô vi
Lập hạnh không thối chuyển
Vô úy sức oai thần
Được thần quang tiếp độ
Hơn trăm ức vạn lần
Như mỗi ánh sáng kia
Phân làm số bụi trần
Một bụi là các cõi
Vô số không thể lường
Sức Phật không cùng tận
Chẳng có cũng chẳng không
Ánh sáng giảng nói pháp
Độ thoát a tăng kỳ
Pháp thân tự nhiên không
Trong ngoài hạnh thanh tịnh
Tám vạn tư phiền não
Định tâm không tán loạn
Xưa Ta chín mươi hai
Kiếp số khó thể lường
Ngồi thẳng dưới gốc cây
Hành đạo không thối lui
Trời, người, tu luân, quỷ
Năn nỉ hỏi nghĩa Ta
Ánh sáng lại tiếp độ
Độ thoát vô ương số
Quá khứ Phật Thức Khí
Phóng ánh sáng dạy sau
Ai vào ánh sáng ấy
Tiêu diệt khổ ba độc
Tiếp Phật Duy Vệ Tôn
Thần đức không thể lường
Cũng lại phóng ánh sáng
Cứu vớt người khổ não
Câu Na Hàm Mâu Ni
Đấng ra khỏi ba cõi
Hiện ở núi Tiên nhơn
Ánh sáng luôn rực rỡ
Câu Lưu: trời trong trời
Không vướng, không bị nhiễm
Tịch diệt nhập Niết-bàn
Phóng quang sau giáo hóa
Ca Diếp Bổn Vô Tôn
Độ người không thể lường
Cũng lấy đức ánh sáng
Độ người chưa được độ
Ta, Thích Ca Mâu Ni
Nói pháp ở trong thai
Thân đây, ánh sáng kia
Biến khắp các cõi Phật
Đối với người tiểu tiết
Không thể nào lường nổi
Chỉ Phật lường được Phật
Công đức không khác nhau
Chư Phật ở vị lai
Đều hiện phóng ánh sáng
Hiện để độ chúng sanh
Ánh sáng trước, pháp sau.
Khi Thế tôn nói kệ này xong, có bảy trăm bảy mươi ức chúng sanh nghe Phật nói thần đức quang minh này, ngay tại chỗ ngồi đều phát tâm Vô thượng bình đẳng.
BỒ TÁT XỬ THAI
Hết quyển 6

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 7 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.220.140.5 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập