Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Nhiếp Đại Thừa Luận Thích Luận [攝大乘論釋論] »» Bản Việt dịch quyển số 5 »»

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích Luận [攝大乘論釋論] »» Bản Việt dịch quyển số 5


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.52 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.66 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Nguyên Hồng

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phải biết thắng tướng thắng ngữ 2 – 2
Chương 3 : Phân biệt
Luận nói : Lại nữa, làm sao biết được tính y tha là tính phân biệt ? Tướng hiển hiện mà trụ, nhưng chẳng phải thể của tính phân biệt. Trước khi có tên không có trí, tức mâu thuẫn với thể. Nhiều tên có nhiều thể là mâu thuẫn với đây. Tên không nhất định mâu thuẫn với tạp thể. Ở đây có kệ như sau :
Trước tên không có trí,
Nhiều tên và bất định,
Đồng và nhiều tạp thể,
Thành tựu mâu thuẫn đây.
Pháp không mà thấy được,
Không nhiễm mà có tịnh.
Phải biết như ảo hóa,
Cũng tựa như hư không.
Giải thích : Như trong tính y tha, tuy phân biệt một phần có thể thấy, nhưng không thành tính của nó, hiển thị đây nên trước tên không có trí. Đồng thể mâu thuẫn nhau, nghĩa là nếu phân biệt với y tha là một thể thì lìa tên trong nghĩa trí sinh. Như cái bình lìa tên bình, trong nghĩa bình trí bình không sinh. Nếu tên bình và nghĩa bình là một tướng thì trí phải tự sinh. Vì không phải một tướng nên nếu nói tên và nghĩa đồng một thể tức là mâu thuẫn. Trong đây thành lập tên là y tha, nghĩa tức là phân biệt. Bởi vì sao ? Y tha này do sức của tên nên thành sở phân biệt. Lại nữa một nghĩa có nhiều tên, nếu tên và nghĩa, là một tướng, nếu như tên có nhiều, nghĩa cũng phải nhiều. Nếu vậy nghĩa này tức phải có nhiều thể. Một nghĩa này có nhiều thể, tức là mâu thuẫn. Vì vậy cho nên hai tính một thể tức là mâu thuẫn thứ hai. Lại nữa tên không nhất định là một, như tên “Cù” có thể có 9 nghĩa. Nếu chấp cho là tên và nghĩa là một, tức các nghĩa đồng thể. Cái chấp này là mâu thuẫn thứ ba. Bởi nghĩa của vô lượng biệt tướng đều thành một thể bình đẳng. Cho nên trong kệ cũng có nói nghĩa này. Trong kệ nói thành tựu tức nói rõ y tha và phân biệt không có nghĩa đồng thể. Thành tựu pháp là không mà có thể thấy v.v… một kệ này là dạy các đệ tử. Thí dụ ảo hóa v.v… cho nên đệ tử có 2 thứ mâu thuẫn nghi ngờ hỏi pháp không mà có thể thấy, không nhiễm mà có tịnh. Ở đây có nghi là như ảo hóa nghĩa là ảnh tượng ảo hóa thật không có mà có thể thấy. Nghĩa cũng như vậy, tuy không có mà cũng có thể thấy. Lại nữa như mây trong hư không, không thể nhiễm ô bản tính thanh tịnh. Nhưng những lúc không mây gọi là thanh tịnh. Các pháp cũng vậy bản tính thanh tịnh không có nhiễm ô. Nhưng khi không có khách trần chướng cấu, gọi là thanh tịnh.
Luận nói : Lại nữa, như chỗ hiển hiện đã không có, tính y chỉ này tất cả mọi thứ đều không, vì sao bất thành ? Nếu không y tha, tính thành tựu cũng không. Tất cả vô sở hữu thì nghĩa này bất thành. Nếu tính y tha và tính thành tựu đều không thì không có lỗi nhiễm ô vạ thanh tịnh. Hiện thấy nhiễm ô và thanh tịnh, cho nên không phải tất cả là không. Ở đây có bài kệ như sau :
Nếu không tính y tha,
Tính thành tựu cũng không.
Thì cũng hằng chẳng có,
Nhiễm ô và thanh tịnh.
Giải thích : Tính y tha như chỗ hiển hiện không có như vậy. Nay để hiển thị tất cả mọi thứ đều không là không đúng nên nói y tha này nếu không có thì thành tựu cũng không có. Bởi vì sao ? Do có nhiễm cho nên phải có tịnh. Vì vậy nếu cẩnhi thứ đều không thì tất cả đều không. Nghĩa này không thành. Nay sẽ hiển thị sự chê trách không nhiễm tịnh. Đây là sai lầm. Bởi vì sao ? Vì hiện thấy có nhiễm có tịnh nên y tha và thành tựu 2 pháp hiện thấy là có. Nếu chấp nói không tức thật có nhiễm tịnh mà chê trách nói không.
Luận nói : Trong Kinh Đại Thừa Phương Quảng Phật Thế Tôn đã nói : Phải biết tính phân biệt như thế nào ? Phải biết nếu nói là vô sở hữu. Phải biết tính y tha như thế nào ? Phải biết nếu nói như các thí dụ ảo hóa, sóng nắng, ảnh tượng chiêm bao, tiếng vang, trăng dưới nước. Phải biết tính thành tựu như thế nào ? Phải biết nếu nói 4 pháp thanh tịnh. Bốn pháp thanh tịnh là : Một là bản tính thanh tịnh. Như nói chân như, không, thật tế, vô tướng, đệ nhất nghĩa, pháp giới v.v…Hai là ly cấu thanh tịnh. Nghĩa là xa lìa tất cả chướng cấu. Ba là đắc đạo cùng tột thanh tịnh. Tức tất cả các pháp Bồ-đề phần, Ba-la-mật v.v… Bốn là đạo sinh cảnh giới thanh tịnh. Nghĩa là các chính pháp Đại thừa nói ra là nhân thanh tịnh, chẳng phải tính phân biệt, là lưu xuất từ pháp giới rất thanh tịnh, nên chẳng phải là tính y tha. Trong 4 pháp này thâu nhiếp được tất cả tịnh pháp. Ở đây có kệ như sau :
Ảo hóa …nói là sinh,
Nói không, hiển phân biệt.
Bốn thứ pháp thanh tịnh,
Đây là tính thành tựu.
Thanh tịnh có bản tinh,
Vô cấu, đạo phan duyên.
Tất cả pháp thanh tịnh,
Bốn thứ đây gồm hết.
Giải thích : Bản tính thanh tịnh là tự thể thanh tịnh. Tự thể này tức chân như, tất cả chúng sinh đều có. Vì tướng bình đẳng cho nên do có đây mà nói tất cả pháp là Như Lai tạng. Ly cấu thanh tịnh nghĩa là chân như này đã xa lìa tất cả phiền não trí chướng. Do chân như thanh tịnh này nên được gọi là Phật. Được đạo rất thanh tịnh nghĩa là đạo được kia cũng là thanh tịnh, tức Bô-đề phần, Niệm xứ v.v..các Ba-la-mật. Đạo sinh cảnh giới thanh tịnh nghĩa là các pháp Bồ-đề phần vượt trội được sinh duyên. Sinh duyên này cũng thanh tịnh nên nói là đạo sinh cảnh giới thanh tịnh. Tức là ngôn giáo của 12 bộ Tu-đa-la v.v… Các ngôn giáo này nếu là phân biệt tức thành nhân nhiễm ô, nếu là y tha tức thành hư vọng. Vì lưu xuất từ pháp giới rất thanh tịnh nên chẳng phải hư vọng. Do lìa 2 tính này nên được thành tựu. Lại nữa phải biết 4 tướng này trong Đại thừa tùy nói một thứ. Tức là nói tính thành tựu, trong đó 2 cái đầu là thành tựu không biến đổi, nên gọi là thành tựu. Hai cái sau vì không điên đảo nên gọi là thành tựu. Trong bài kệ sau nói rõ đầy đủ nghĩa này. Ảo hóa v.v… nói với sinh là tính y tha nói là sinh, tùy theo nơi nào mà nói tất cả pháp như huyễn như hóa v.v… Đây nói tính y tha là nói không hiển lộ phân biệt. Nếu nói không có sắc, nói vô sở hữu, cho đến tất cả pháp là vô sở hữu, tức là nói tính phân biệt.
Luận nói : Lại nữa, vì nhân duyên gì như kinh nói tính y tha ví như chuyện ảo hóa v.v… Là vì để loại bỏ mối nghi ngờ hư vọng đối với tính y tha của người. Thế nào là sinh nghi ngờ hư vọng đối với tính y tha ? Người ta nghĩ như thế này : Vì sao thật không có mà thành có cảnh giới ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên ví dụ như ảo hóa. Nếu không thật có, làm sao só tâm và tâm pháp sinh ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói ví như sóng nắng. Nếu không thật có, làm sao có được sự thụ dụng yêu thích và không yêu thích ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói ví như chiêm bao. Nếu không thật có, làm sao sinh được nghiệp thiện bất thiện và quả báo yêu thích không yêu thích ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói thí dụ ảnh trong gương. Nếu không thậ có, làm sao sinh được các thức ? Để trừ nghi ngờ này nên nói ví dụ như bóng nắng. Nếu không thật có, làm sao sinh ra các thứ ngôn thuyết lưu bố ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói ví dụ như tiếng vang. Nếu không thật có, làm sao được thành cảnh giới thật trong Tam-ma-đề ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói ví dụ như trăng dưới nước. Nếu không thật có, làm sao Bồ-tát được tự tại dùng tâm không điên đảo làm việc lợi ích chúng sinh ? Để trừ nghi ngờ này nên nói ví như biến hóa.
Giải thích : Để hiển thị tính y tha nên nói ví dụ ảo hóa. Nói “trong hư vọng nghi ngờ” nghĩa là trong thể hư vọng sinh nghi ngờ, cho nên trong tính y tha lấy ảo hóa v.v…làm thí dụ hiển thị như ảnh tượng ảo hóa không thật có mà thành cảnh giới, các pháp cũng vậy. Để trừ bỏ nghi ngờ kia nên làm thí dụ ảo hóa. Nếu không có thì không có chỗ phan duyên, tâm và tâm sở làm sao sinh được ? Để đối trị nghi ngờ này nên nói thí dụ sóng nắng. Trong đó sóng nắng thí dụ tâm và tâm pháp. Nước dụ cho sóng nắng rung động. Nước như thức sinh, thật không có nước. Tâm và tâm pháp cũng như vậy, do động nên không thật có mà sinh ra nơi thức. Các phàm phu, Tiểu thừa lại có nghi ngờ rằng nếu không có, làm sao được thụ dụng ái phi ái ? Để trừ nghi ngờ này nên thí dụ như chiêm bao. Tính y tha như trong chiêm bao, không thật có mà được thụ dụng ái phi ái. Trong đây được thành thụ dụng cũng vậy. Lại có nghi ngờ rằng nếu không có nghiệp thiện bất thiện, làm sao thành quả báo ái bất ái ? Để trừ nghi ngờ này nên thí dụ ảnh tượng trong gương. Tính y tha như ảnh tượng trong gương, không thật có mà chính mặt mình sinh trí thấy có ảnh tượng, thật sự không có ảnh tượng. Quả báo ái phi ái cũng như vậy không thật có, nhưng có thể thấy. Lại nữa có nghi ngờ rằng nếu không có, làm sao có sinh các thứ thức ? Để đối trị nghi ngờ này nên dùng bóng sáng thí dụ.Tính y tha như người chơi đùa với ảnh. Tùy mỗi tướng mạo có nhiều thứ hiện, nhưng không có ảnh nào là thật có. Thức cũng vậy, thật không có các thứ, nhưng có thể thấy các thứ. Lại có nghi ngờ rằng nếu không có, làm sao có thể sinh vô lượng ngôn thuyết lưu bố ? Để trừ nghi ngờ này nên thí dụ như tiếng vang. Tính y tha như tiếng vang, không thật có, nhưng có thể nghe được. Cũng như vậy, ngôn thuyết lưu bố không thật có, nhưng có thể tiếp nhận được. Lại có nghi ngờ rằng nếu không có, làm sao được định ? Tâm và tâm pháp thấy được là do kinh nói mà người được định tâm thấy biết như thật. Để đối trị nghi ngờ này nên nói thí dụ như trăng dưới nước. Trăng dưới nước không thật có nhưng có thể trông thấy vì nước trong trẻo lặng yên. Định tâm cũng vậy, thật không có cảnh giới mà vẫn trông thấy được vì Tam-ma-đề như thể của nước trong trẻo. Lại có nghi ngờ rằng nếu không thật có chúng sinh, làm sao có được chư Bồ-tát như thật trí v.v…? Trước dùng trí tuệ quán sát là các chúng sinh kia thụ thân nơi các thú. Để đối trị nghi ngờ này nên lấy thí dụ là biến hóa. Tính y tha như biến hóa, không thật có, tùy tâm người biến hóa mà thành có các việc, chẳng phải không do biến hóa mà có thể thấy được. Như vậy tuy thật không thụ thân, nhưng là tất cả chúng sinh nên thụ thân.
Lại nữa vì ý gì Thế Tôn nói 8 thí dụ này ? Nay sẽ nói rõ. Trong đó nói dụ như ảo hóa là đối trị nhãn v.v…6 nội nhập. Do mắt v.v…các ảo ảnh không có thật mà cũng có thể thấy. Thí dụ sóng nắng là ví dụ cho khí thế gian, do thể rộng lớn nên như sóng nắng dao động, thật không có nước mà thấy có nước. Để đối trị sự thụ dụng sắc v.v… nên nói ví như chiêm bao. Trong chiêm bao, sắc v.v… không thật có, nhưng vì đó là nhân của yêu ghét v.v…mà thành có sự thụ dụng. Để đối trị thân nghiệp nên nói ví dụ ảnh trong gương, do thân nghiệp thiện bất thiện làm nhân duyên nên có các sắc sinh ảnh tượng. Để đối trị khẩu nghiệp nên nói ví dụ tiếng vang. Do khẩu nghiệp là nhân nên có quả của khẩu nghiệp, như tiếng vang vậy. Ý nghiệp có 3 thứ : một Dục giới, hai tĩnh địa, ba văn v.v…sinh. Trong đó để đối trị ý nghiệp của Dục giới nên nói ví như bóng sáng. Do quả báo của ý nghiệp giống như bóng sáng vậy. Để đối trị ý nghiệp của tĩnh địa, nên nói ví dụ trăng dưới nước. Do quả của ý nghiệp của tĩnh địa như trăng trong nước, không thật có nhưng trong tĩnh tâm hiển hiện các thứ quả. Để đối trị ý nghiệp của văn v.v… nên nói ví dụ biến hóa. Trong đó nói văn v.v… tức là các văn, tư huân tập, hiển thị sinh ý của văn v.v… này như hóa hiện.
Luận nói : Thế Tôn dựa vào nghĩa gì trong Kinh Phạm Thiên Vấn nói Như Lai không thấy sinh tử không thấy Niết-bàn ? Dựa vào trong tính y tha, về tính phân biệt và tính thành tựu nên không có nghĩa sai biệt về thể của sinh tử Niết-bàn. Trong đó tính y tha này phân biệt thành sinh tử, thành tựu thành Niết-bàn.
Giải thích : Pháp tướng của 3 tính này, như Tu-đa-la nói là tùy thuận tương ưng. Nay sẽ nói rõ. Dựa vào nghĩa gì mà trong Kinh Phạm Thiên Vấn nói Như Lai không thấy sinh tử và Niết-bàn. Vì dựa vào nghĩa sinh tử và Niết-bàn là vô sai biệt. Tính y tha chẳng phải là sinh tử do phần thành tựu tức là Niết-bàn. Cúng chẳng phải Niết-bàn do phần phân biệt thành sinh tử. Vì vậy không thể nói thiên về một phần. Thế Tôn thấy trong y tha không thiên về một tính, do ý này nên trong kinh ấy nói không thấy sinh tử không thấy Niết-bàn.
Luận nói : Như Thế Tôn trong Kinh A-tì-đạt-ma nói có 3 thứ pháp là phần nhiễm ô, phần thanh tịnh và cả hai phần. Dựa vào nghĩa gì mà nói như vậy ? Trong tính y tha, tính phân biệt là phần nhiễm ô, tính thành tựu là phần thanh tịnh. Tức tính y tha này là 2 phần kia. Do nghĩa này mà có thuyết như vậy. Nghĩa này hiển thị bằng thí dụ gì ? Lấy thí dụ vàng ở trong đất. Như vàng ở trong đất có thể thấy được 3 thứ : một là cõi đất, hai là đất, ba là vàng ở trong cõi đất. Đất chẳng phải có mà có thể thấy. Vàng thật có mà không thể thấy. Nếu dùng lửa nung thì đất không hiện mà vàng hiển hiện. Lại nữa ở trong cõi đất khi tướng đất hiện là hiện thể hư vọng, khi thể vàng hiện là hiện thể chân thật. Vì vậy cõi đất có 2 phần. Cũng như vậy, tính của thức này khi chưa bị lửa vô phân biệt trí nung đốt thì trong thức tính, tính hư vọng phân biệt hiển hiện, tính thành tựu không hiển hiện. Thức tính này nếu được lửa vô phân biệt trí nung đốt thì trong thức tính, thật có tính thành tựu hiển hiện, mà tính hư vọng phân biệt không hiển hiện. Vì vậy cái thể của thức hư vọng phân biệt này, tính y tha có 2 phần như cõi đất có vàng chứa trong đất vậy.
Giải thích : Như vậy trong A-tì-đạt-ma Tu-đa-la nói phân biệt là tính nhiễm ô, thành tựu là tính thanh tịnh, y tha là thể của 2 phần kia. Do nghĩa này nói 3 thứ pháp là phần nhiễm ô, phần thanh tịnh và hai phần kia, được hiển thị bằng thí dụ cõi đất có đất chứa vàng. Trong đó vàng là chủng tử vàng, cõi đất là tính cứng, đất là sở tạo sắc. Nơi tướng đất có 3 thứ có thể được. Cõi đất kia có chứa vàng, chỉ thấy tướng đất hiển hiện. Thể vàng kia sau mới biết có. Bởi vì sao ? Nếu dùng lửa nung thì vàng mới hiện. Vì vậy biết rằng vàng là có từ bản lai.
Luận nói : Thế Tôn có chỗ thì nói tất cả pháp là thường, hoặc có chỗ thì nói là vô thường, hoặc có chỗ thì nói phi thường phi vô thường. Vì nghĩa gì nói là thường ? Trong tính y tha, đứng về phần tính thành tựu nên nói là thường, đứng về phần tính phân biệt nên nói là vô thường, đứng về cả 2 phần nên nói là phi thường phi vô thường. Vì nghĩa này nên nói là thường, vô thường, không hai. Khổ vui cũng không hai. Thiện bất thiện cũng không hai. Không phi không, không hai. Ngã vô ngã, không hai. Tịch tĩnh phi tịch tĩnh không hai. Có tự tính, không tự tính, không hai. Sinh, không sinh, không hai. Diệt, không diệt, không hai. Vốn vắng lặng, chẳng phải vốn vắng lặng, không hai. Bản tính Niết-bàn, chẳng phải bản tính Niết-bàn, không hai. Sinh tử, Niết-bàn, không hai. Như vậy các sai biệt, tất cả mật ngữ của chư Phật Thế Tôn đều tùy thuận 3 tính mà nói như thường, vô thường. Ở đây có bài kệ như sau :
Như pháp vô sở hữu,
Mà hiện vô lượng thứ.
Phi pháp, phi phi pháp,
Nên nói không hai nghĩa.
Y một phần hiển thị,
Hoặc hữu hoặc phi hữu.
Y hai phần mà nói,
Phi hữu, phi phi hữu.
Như hiển hiện phi hữu,
Cho nên nói là không.
Do như vậy hiển hiện,
Cho nên nói là có.
Tự hiển vô sở hữu,
Vì tự thể không trụ.
Như thủ đã không có,
Nên thành vô tự tính.
Do vô tính nên thành,
Trước là sau y chỉ.
Vô sinh tịch diệt tĩnh,
Và bản tính Niết-bàn.
Giải thích : Như pháp là vô sở hữu mà hiện ra vô lượng chủng loại, nghĩa là nửa kệ trên theo tuần tự là phi pháp, phi phi pháp. Bởi vì sao ? Vì vô sơ hữu nên gọi là phi pháp. Vì chẳng phải pháp không hiển hiện nên gọi là phi phi pháp. Vì phi pháp phi phi pháp nên nói là nghĩa không hai. Một phần nghĩa là một bên. Hoặc hữu hoặc phi hữu nghĩa là hoặc ở bên hữu hoặc ở bên vô. Hiển thị nghĩa là nói. Dựa vào 2 phần nói là phi hữu phi phi hữu, nghĩa là do tính y tha có đủ 2 thể. Lấy nghĩa này nên nói phi hữu phi phi hữu. Như hiển hiện phi hữu nghĩa là như pháp được trông thấy, nó là chẳng phải có, vì vậy nói nó là không. Vì vậy nói là có, nghĩa là vì theo nghĩa này nên nói là có. Nay sẽ nói về ý vô tự tính. Tự chẳng có là do tất cả pháp không có. Lìa nhân duyên mà có thể tự có, đây là một loại ý vô tự tính. Thể không có, cũng là một loại vô tự tính. Nếu pháp diệt rồi, thể kia không sinh trở lại, nên vô tự tính. Vì tự thể không trụ, nghĩa là các pháp ngay khi sinh không có lực có thể trụ quá một sát-na, đây cũng là vô tự tính. Các pháp vô tự tính này cộng hữu với Thanh Văn. Nếu đã không có thì không cộng hữu với Thanh Văn. Cái tính phân biệt như phàm phu chấp thủ không phải như cái hữu này. Cho nên ý này là nói pháp vô tự tính trong Đại thừa. Lại vì cái vô tự tính này nên vô sinh v.v…tất cả đều được thành tựu. Bởi vì sao ? Do tự vô tính nên không sinh, do không sinh nên không diệt, do không sinh diệt nên xưa nay vắng lặng, do xưa nay vắng lặng nên tự tính Niết-bàn. Trước là y chỉ của sau tức trước là nhân của sau.
Chương 4 : Bốn ý bốn hợp nghĩa
Luận nói : Lại có 4 thứ ý, 4 thứ hợp nghĩa, tất cả lời Phật nói, nên tùy thuận mà hiểu cho đúng. Một là ý bình đẳng, như nói ta xưa kia là Tì-bà-thi Chính biến tri. Hai là ý theo lúc khác, như nói tụng trì tên Đa Bảo Như Lai chắc chắn được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Lại như kinh nói chỉ phát nguyện là được sinh thế giới Cực Lạc. Ba là ý theo nghĩa riêng, như kinh nói thân cận chư Phật nhiều như cát sông Hằng, hiểu được nghĩa của pháp Đại thừa. Bốn là ý tùy theo tâm người, nghĩa là hoặc vì người này khen ngợi sự bố thí, sau lại vì người này chê bai sự bố thí. Giống như bố thí, giới và các tu pháp khác cũng vậy. Đó gọi là 4 ý.
Giải thích : Như có người lấy cùng một pháp nên nói kia tức là ta. Thế Tôn cũng vậy, tâm ở nơi pháp thân bình đẳng nên nói ta khi ấy là Tì-bà-thi v.v… chẳng phải Tì-bà-thi tức là Phật Thích-ca Mâu-ni. Đây là lấy ý bình đẳng. Ý theo lúc khác, nghĩa là ý này không phải nói chỉ xưng danh hiệu Phật là quyết định được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Như nói dùng một đồng tiền vàng được ngàn đồng tiền vàng, lẽ nào một mà nói là được ư ? Ý này là nói ở một lúc đặc biệt nào đó, vì một đồng tiền vàng là nhân được ngàn đồng tiền vàng. Cũng như vậy, chỉ phát nguyện là được sinh thế giới Cực Lạc cũng với ý đó. Phải biết rằng trong ý theo nghĩa riêng, hiểu được pháp Đại thừa, nghĩa là trong 3 tính đạo lý tự giác tướng ấy. Nếu ý của Thế Tôn chỉ được hiểu nghĩa theo văn từ thì phàm phu cũng hiểu đúng được. Hiểu nghĩa kia là ắt phải do thân cận vô lượng chư Phật mới được, cho nên đây là ý của Phật. Ý tùy theo tâm người, nghĩa là hoặc với người này khen ngợi bố thí, rồi lại cũng với người này che bai bố thí. Ý như vậy là tùy theo người kia mà sử dụng. Nếu là người keo kiệt thì khen ngợi sự bố thí. Nếu người này đối với bố thí mà đắc thắng thì chê bai sự bố thí. Nếu không có ý này mà đối với một việc bố thí khi khen khi chê tức là mâu thuẫn. Do có ý này nên hoặc khen hoặc chê đều thích hợp. Giới v.v… cũng vậy. Phải biết một phần tu nghĩa là thế gian tu. Ý và nghĩa khác nhau nghĩa là nếu như Thế Tôn có tâm sở tại mà nói, đó là ý. Còn do nói ra chắc chắn khiến người vào trong Phật giáo, đó là nghĩa.
Luận nói : Bốn thứ hợp nghĩa, đó là : Một là nghĩa khiến nhập. Như trong Thanh Văn thừa, nếu trong Đại thừa, y vào đạo lý thế đế nói sự sai biệt của 2 thứ tự tính nhân và pháp. Hai là nghĩa tướng, nghĩa là tùy theo tướng thuyết pháp, đều dùng 3 tính hiển thị. Ba là nghĩa đối trị, như nói có 8 vạn 4 ngàn hạnh môn đối trị.
Giải thích : Trong đây nói nghĩa khiến nhập, tức là đối với 2 thứ nhân và pháp, đứng về đạo lý thế đế, hoặc nói tự tính, hoặc nói sai biệt, là khiến chúng sinh vào trong Phật pháp, cho nên gọi là nghĩa khiến nhập. Nghĩa tướng là trong đó lấy nghĩa của tướng mà nói các tướng do nói 3 tính. Nghĩa đối trị, nghĩa là nói chúng sinh làm việc đối trị, tức nói chư chúng sinh đối trị phiền não, để an lập chỗ đối trị phiền não cho chúng sinh.
Luận nói : Bốn phiên nghĩa, như chữ tiếng có nghĩa riêng. Để hiển thị nghĩa riêng, ở đây có bài kệ như sau :
A-sa-lê Sa-la-mạt-đa-da Tì-bát-rị-da-tư-chá Tố-tất-đa giả Cát-lê-đà-nại-chá Tố-tăng-cát-lợi-sắt-tra La-bàn-đê-bồ-đề-một-đáp-ma
Giải thích : Trong đây A-sa-lê nghĩa là hiển liễu nghĩa, gọi là không thật, ẩn mật nghĩa, gọi là bất động. Tức là định này vì bất động nên gọi là A-sa-lê. Sa-la-mạt-đa-da nghĩa là dịch là đối với định khởi ý tôn trọng. Tì-bát-rị-da-tư-chá nghĩa là nếu hiển thị liễu nghĩa gọi là điên đảo, ẩn mật nghĩa gọi là chuyển đảo. Tố-tất-đa nghĩa là khéo trụ trong chuyển đảo. Khéo trụ nên vô thường gọi là thường. Đây là điên đảo, chuyển vô thường kia gọi là thường, vì khéo trụ trong điên đảo. Cát-lê-đà-nại-chá nghĩa là nếu hiển thị liễu nghĩa thì gọi là phiền não, ẩn mật nghĩa gọi là cần khổ. Tố-tăng-cát-lợi-sắt-tra nghĩa là khéo nhiễm, cho nên kinh nói ở lâu trong sinh tử nhiễm cần khổ. La-bàn-đê-bồ-đề-một-đáp-ma dịch nghĩa là sẽ được thắng Bồ-đề. Câu này có thể hiểu.
Luận nói : Nếu muốn giải thích pháp Đại thừa, đại khái nên dùng 3 tướng giải thích : một là giải thuyết về duyên sinh, hai là giải thuyết về nhân duyên sở sinh pháp, ba là giải thuyết nghĩa trong ngôn giáo. Trong đây giải thuyết duyên sinh như kệ nói :
Ngôn huân tập sinh pháp,
Đây với kia cũng vậy.
Đây là nói quả báo thức và sinh khởi thức làm duyên sinh cho nhau. Nhân duyên sở sinh pháp kia, sinh khởi thức là tướng có thể tính của tướng và kiến thức. Kia do trụ trì tướng, phân biệt tướng, pháp nhĩ tướng, tức đây được hiển thị 3 tính tướng, như kệ nói :
Có tướng và có kiến,
Thế là biết 3 tướng.
Lại nữa, thế nào là giải thích tướng kia ? Nghĩa là tướng phân biệt trong tướng y tha thì không thể, tướng thành tựu trong y tha thì có. Do 2 cái này, nên không có và có, không thể được có thể được, không thấy chân thật thấy chân thật 2 cái này đồng thời. Lại nữa ở trong tính y tha, phân biệt thì vô sở hữu mà thành tựu thì hữu, cho nên được kia thì không được đây, không được kia thì được đây. Như kệ nói :
Y tha : phân biệt không,
Chỉ thành tựu là có.
Không được với lại được,
Trong đó hai như nhau.
Giải thích : Ngôn thuyết huân tập sinh các pháp, nghĩa là bên ngoài phân biệt huân tập thức A-lê-da, tức trụ ở trong thức do huân tập này làm nhân sinh tất cả pháp., tức là tự tính của sinh khởi thức. Đây với kia cũng vậy, nghĩa là cái phân biệt huân tập này lấy ngay các pháp kia làm nhân. Đây hiển thị thức A-lê-da với sinh khởi thức làm nhân cho nhau. Lại nữa tính của sinh khởi thức có các pháp có thức thể của tướng và kiến làm tính, nghĩa là nếu thức thể có tướng và có kiến tức là thể của kia. Nói các pháp có 3 tướng là trụ trì tướng, tức là tướng y tha. Do các thuyết nói đây nên 3 tính có các tướng được hiển thị. Các nghĩa như vậy dùng nghĩa của kệ hiển hiện có tướng có kiến. Vậy nên biết 3 tướng là 3 tướng này như được hiển thị trong giải thích của luận bản. Không có và có, không thể được và có thể được, không thấy chân thật và thấy chân thật, cả hai đồng thời v.v… nghĩa là để hiển thị điều đó, trong đây nói hai tức là phân biệt và thành tựu. Trong 2 phần này, một là không có, một là có. Nói có không có là nếu được phân biệt thì không được thành tựu, bởi không thấy chân thật. Tức lúc ấy không được phân biệt mà được thành tựu, bởi thấy chân thật. Những nghĩa như vậy lại dùng kệ hiển thị. Trong kệ nói bình đẳng, nghĩa là một sát-na cho nên nói trong tức là trong tính y tha. Nói hai tức là thấy chân thật và không thấy chân thật. Nói “cho nên” tức là do có nhân duyên. Bởi trong tính y tha, phân biệt là không, thành tựu là có. Cho nên phàm phu thấy là do điên đảo, các Thánh nhân thấy là do chính kiến.
Luận nói : Giải thích nghĩa trong ngôn giáo, nghĩa là như nói câu đầu tiên làm chính rồi dùng các câu khác làm rõ phần ấy. Hoặc công đức y chỉ hoặc nghĩa y chỉ. Công đức y chỉ là như nói công đức của Phật thanh tịnh giác cùng tột không có 2 pháp, hành pháp vô tướng là thắng đạo, trụ nơi Phật trụ, được bình đẳng tất cả Phật, đến chỗ không còn chướng ngại, pháp không thoái chuyển, thành lập cảnh giới vô ngại không thể nghĩ bàn, nhập tam thế bình đẳng, thân biến khắp tất cả thế giới, trí thông suốt không ngại tất cả pháp, tất cả hạnh đầy đủ, trí biết không ngại đối với các pháp, thân không phân biệt, trí tất cả Bồ-tát mong cầu, đến chỗ Phật trụ không hai, đến cứu cánh đệ nhất Ba-la-mật, trí giải thoát không sai biệt của Như Lai, nhập vào pháp giới bình đẳng không ở ngoài biên không ở chính giữa của Phật địa, đệ nhất tận cùng cõi hư không, thanh tịnh giác cùng tột làm gốc. Ngoài ra các câu khác đều là sai biệt của câu này. Phải biết rằng tất cả như thế gọi là giải thích tốt. Các pháp thể thanh tịnh giác cùng tột là cái thanh tịnh giác cùng tột này của Phật Thế Tôn. Phải biết thâu nhiếp 21 công đức khác của Phật. Tức là công đức hoàn toàn không chướng ngại chuyển khiến nhập vào hữu vô không hai tướng. Công đức chân như thanh tịnh cùng tột. Công đức Phật trụ không dụng công mà Phật sự không ngừng nghỉ, pháp thân làm y chỉ. Công đức tâm nghiệp không sai biệt. Công đức tu đối trị tất cả chướng. Công đức hàng phục tất cả ngoại đạo. Công đức sinh tại thế gian không bị pháp thế gian trở ngại. Công đức thành lập pháp. Công đức thụ ký. Công đức thị hiện thụ dụng thân, hóa thân trong tất cả thế giới. Công đức đoạn nghi. Công đức khiến nhập vào các hạnh. Công đức sinh trí pháp vị lai. Công đức hiển thị như chỗ mong muốn. Công đức vì giáo hóa chúng sinh hiện vô lượng thân. Công đức thành tựu pháp thân bình đẳng Ba-la-mật. Công đức tùy theo tín lạc
hiển thị cõi Phật vô sai biệt. Công đức 3 thứ Phật thân không giới hạn phương sở. Công đức hằng vì lợi lạc chúng sinh cho đến tận cùng sinh tử. Công đức vô tận.
Giải thích : Hiển thị trong phần đó, nghĩa là như chỗ cần phải giải thích. Nay sẽ làm rõ nghĩa này. Hoặc gồm trong công đức, hoặc gồm trong nghĩa. Gồm trong công đức tức thanh tịnh giác cùng tột là câu đầu tiên. Ngoài ra các câu khác là làm rõ nghĩa đó. Trong đây không hai hạnh là hai hạnh không thể được gọi là không hai hạnh. Chẳng phải như trí Thanh Văn, Bích-chi-phật cũng có chướng ngại cũng không chướng ngại, hữu vô không hai tướng. Đệ nhất thanh tịnh nghĩa là chân như thanh tịnh, tức là pháp vô tướng. Chân như này chẳng phải có tướng bởi tất cả pháp là vô sở hữu. Cũng chẳng phải không có tướng bởi có tướng tự thể. Chân như này trong pháp vô tướng là đệ nhất thanh tịnh. Nhập xứ cho nên nói công đức khiến nhập. Tối thắng cho nên gọi là đạo. Đạo là nghĩa nhập xứ nên gọi là đạo. Công đức Phật trụ không dụng công mà Phật sự không ngừng nghỉ nghĩa là đối với công việc Phật sự thường làm mà không dừng lại. Công đức tu đối trị tất cả chướng nghĩa là dùng tất cả thời gian hằng tu chính giác, cho nên có thể đối trị tất cả chướng ngại. Công đức sinh tại thế gian mà không bị pháp thế gian chướng ngại nghĩa là phàm sinh trong thế gian tất hành động trong cảnh giới thế gian, nhưng tuy sinh thế gian không bị 8 pháp lợi thế gian làm nhiễm. Công đức thành lập pháp là Tu-đa-la v.v…các pháp vô lượng không thể nghĩ bàn, bởi phàm phu không thể ngộ nhập cho nên gọi là thanh tịnh giác cùng tột. Đây tức là đều tương ưng với một câu thanh tịnh giác cùng tột này. Công đức sinh trí pháp vị lai nghĩa là ccs pháp sinh ở đời vị lai như vậy đều có thể biết được. Công đức tương ưng vô lượng thân để giáo hóa chúng sinh nghĩa là vô lượng các thân Bồ-tát nếu làm công việc giáo hóa chúng sinh, chư Phật được trí tự tha bình đẳng, cho nên trí kia tức gồm trong Phật trí, tức là việc giáo hóa của Phật. Công đức thành tựu pháp thân bình đẳng Ba-la-mật nghĩa là pháp thân không hai nên gọi là bình đẳng. Vì đây không có 2 pháp thân nên gọi là được cùng tột Ba-la-mật thanh tịnh. Trí giải thoát đến cứu cánh không sai biệt, nghĩa là trong trí không sai biệt của Như Lai, cứu cánh giải thoát, nên trong giải thoát này là tăng thượng giải. Công đức 3 thứ Phật thân không giới hạn phương sở, nghĩa là pháp thân ở bao nhiêu phương xứ cũng không có giới hạn. Và thụ dụng thân, hóa thân ở các thế giới cũng vậy. Pháp giới đệ nhất là pháp giới thanh tịnh củng tột là đệ nhất nên gọi pháp giới đệ nhất. Tận hư không giới là Phật trí như hư không không cùng tận, vị vậy nên gọi thanh tịnh giác không cùng tột.
Luận nói : Lại nữa, y chỉ nghĩa, tức như kinh nói : Bồ-tát đủ 32 pháp gọi là Bồ-tát : Đối với tất cả chúng sinh khởi ý lợi lạc. Khiến nhập nhất thiết trí. Biết giá trị của ta là gì. Xả bỏ kiêu mạn. Ý chí vững chắc. Không phải làm vì thương xót. Tâm bình đẳng không thân sơ. Làm người bạn thân cho đến khi được Niết-bàn. Suy lường đúng đắn mà nói. Tươi cười trước khi nói. Đại bi vô hạn. Gánh vác trách nhiệm nặng nề không thoái lui bỏ cuộc. Không có ý mệt mỏi. Nghe nghĩa lý không chán. Tự thấy tội lỗi mình làm. Đối với tội lỗi người khác, không chê bai mà khuyên răn chỉ bảo. Tu tâm Bồ-đề trong tất cả oai nghi. Hành thí không cầu báo. Giữ giới mà không nhắm vào các nẻo đường còn có sinh tử. Tu hành nhẫn nhục không ngại đối với tất cả chúng sinh. Tu hành tinh tiến giữ lấy tất cả thiện pháp. Lìa bỏ cõi Vô sắc mà tu thiền. Phương tiện tương ưng với trí tuệ. Lấy Tứ nhiếp làm phương tiện nhiếp hóa chúng sinh. Từ ái đối với người giữ giới phá giới, không phân biệt có hai. Cung kính nghe chính pháp. Cung kính trụ nơi A-lan-nhã. Không vui đắm trước các tạp sự thế gian. Không mong cầu bậc hạ thừa thấp kém. Thấy công đức Đại thừa. Xa lìa bạn xấu. Gần gũi bạn lành. Tịnh tu 4 Phạm hạnh. Vận dụng tự tại 5 thần thông. Hành động theo trí tuệ. Không xả bỏ chúng sinh nào dù chúng sinh đó trụ hay không trụ trong chính hạnh. Nói chắc chắn, trọng chân thật. Lấy tâm Bồ-tát làm đầu. Phải biết các câu như vậy đều là phân tích các sai biệt của câu đầu. Ý lợi lạc trong tất cả chúng sinh, nghĩa là câu ý lợi lạc này có 16 nghiệp sai biệt. Mười sáu nghiệp sai biệt là : Lần lượt thực hành. Không điên đảo. Không ai mời cũng tự làm. Không dao động đổ vỡ. Không có ý mong cầu. Đây có 3 ý không cầu báo đáp. Đối với chúng sinh thuận hay nghịch không có tâm yêu ghét, đời đời vẫn theo đuổi không xa bỏ. Tức trong loại này có 2 câu về thân khẩu nghiệp. Bình đẳng đối với khổ, vui và không hai. Không thấp kém. Không thoái chuyển. Dùng phương tiện nhiếp thủ. Chán ghét chướng ngại. Đây có 2 câu tư duy không gián đoạn và tiến thắng. Đây có 7 câu chính tu hành 6 Ba-la-mật và tu hành Tứ nhiếp sự, tu hành thành tựu phương tiện. Đây có 6 câu gần gũi người lành. Nghe chính pháp. Ở nơi A-lan-nhã. Xa lìa các hiểu biết xấu xa sai lầm. Công đức chính tư duy có 2 thứ, công đức về sự có 2 thứ. Nghiệp thành tựu có 3 thứ : vô lượng thanh tịnh, được oai đức lớn, được công đức vượt trội. Nghiệp an lập kia. Đây có 4 câu : Thâu nhiếp các công đức. Quyết định dạy dỗ. Gồm hai pháp tài làm một. Không tâm nhiễm ô. Các câu như vậy đều là các câu sai biệt. Như trong kinh có bài kệ nói :
Câu đầu tiên bao gồm
Các câu về công đức.
Câu đầu tiên bao gồm
Các câu nói về nghĩa.
Giải thích : Y chỉ nghĩa, tức là ý lợi lạc trong tất cả chúng sinh. Nghĩa của câu này nói có 16 nghiệp và hiển thị với các câu khác. Trong đây ý lợi lạc làm những nghiệp gì ? Khiến nhập trí Nhất thiết trí là nếu khiến các chúng sinh nhập vào trí Nhất thiết trí thì đay là hành động lần lượt, ví như một ngọn đèn thắp lên một ngàn ngọn đèn. Đó là hiển thị ý lợi lạc. Các câu như vậy đều tương ưng với ý lợi lạc. Tự biết giá trị của mình là gì, nghĩa là tự có ý lợi lạc, nhưng là điên đảo. Như có người ý muốn lợi lạc mà đem rượu cho uống. Nếu như thật tự biết phần lượng mình dạy dỗ chúng sinh, thì không dùng kiêu mạn, tự mình không biết, khởi tâm lợi ích trở thành không có lợi. Nói xả bỏ kiêu mạn tức là hỉ xả bỏ tâm kiêu mạn nên không đợi mời thỉnh tự vì nói pháp.. Ý chí vững chắc, nghĩa là không vì chúng sinh có hành vi điên đảo mà cái tâm lợi lạc vững chắc bị dao động đổ vỡ. Chẳng phải ra làm vì có ý thương xót, nghĩa là không vì lợi dưỡng mà làm việc lợi ích chúng sinh. Làm sao biết được ý lợi lạc này ? Do làm thuận theo thân khẩu nghiệp, cho nên trong đó ứng lượng mà nói và trước nói là khẩu nghiệp. Tươi cười và Đại bi vô hạn v.v… là thân nghiệp. Trong đây nói ứng lượng mà nói nghĩa là chỉ nói pháp ngữ. Lòng thương vô hạn là thương 3 cái khổ : Khổ là khổ khổ, vui là hoại khổ, không khổ không vui là hành khổ. Chẳng phải hai nghĩa là không khổ không vui. Nghiệp không thấp kém, nghĩa là không tự ti coi mình thấp kém nói rằng ta không thể thành Phật, đại loại như thế. Ý không mệt mỏi, nghĩa là nếu không mệt mỏi thì có thể tu Phật đạo. Nghe nghĩa lý không chán, nghĩa là nếu không đa văn thì không có trí phương tiện giáo hóa chúng sinh. Nói “Trong tất cả oai nghi” , nghĩa câu này như nói trong Tịnh Hạnh Tu-đa-la. Nghiệp tiến thắng tức là ý lợi lạc, vì là thể của nhân thẳng đến tăng trưởng. Nghiệp tu thành tựu phương tiện có 6 câu là nếu người thân cận đây tu hành tức được thành tựu. Cung kính ở nơi A-lan-nhã, nghĩa là ở nơi đó có thể lìa các hiểu biết xấu xa sai lầm. Những tạp sự thế gian như ca múa vui chơi các thứ. Nghiệp thành tựu, nghĩa là biểu hiện tướng thành tựu kia. Oai đức, tức 6 thần thông. Tùy theo trí tuệ mà hành động, nghĩa là theo trí chứ không theo thức, từ trí tuệ sinh. Do trí tuệ này tương ưng với chính chứng. Trụ trong các pháp an lập nghiệp kia, tức là do có ý lợi lạc nên có thể dùng lợi lạc an lập chúng sinh. Trong đây nói “nhiếp chúng” nghĩa là đối với người phá giới vẫn không bỏ cũng không xua đuổi, khiến lìa bỏ điều không tốt hợp với điều tốt. Quyết định dạy dỗ, nghĩa là do cứ một mực lập dạy dỗ ngăn cấm, không tự nói, sau lại nói điều ta nói trước đây là không tốt. Người nghe, tức là người thụ giáo. Gồm tài pháp, là do những lời thành thật bảo cho người kia, vì gồm cả pháp và y phục tài lợi v.v… như nói gồm đủ. Không có tam nhiễm ô, nghĩa là thực hành tâm Bồ-đề làm việc lợi ích chúng sinh, không phải để cầu cúng dường mình, chỉ nghĩ rằng làm sao các điều thiện này khiến chúng sinh chính giác vô thượng Bồ-đề. Nhiếp thụ như vậy cho nên nghĩa trong kệ cũng vậy. Giải thích về tướng xong.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tích Lan - Đạo Tình Muôn Thuở


Bhutan có gì lạ


Vào thiền


Có và Không

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.16.212.99 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập