Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vạn tự »»
(隱元隆琦, Ingen Ryūki, 1592-1673): vị tổ khai sáng Hoàng Bá Tông Nhật Bản, người vùng Phúc Thanh (福清), Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Lâm (林), hiệu là Ẩn Nguyên (隱元), sinh ngày mồng 4 tháng 11 năm thứ 20 niên hiệu Vạn Lịch (萬曆) nhà Minh. Năm lên 9 tuổi, ông có chí ham học, nhưng năm sau thì bỏ học, theo nghiệp trồng tiêu. Có đêm nọ ông ngồi nằm dưới gốc cây tùng, mới ngộ được rằng muốn hiểu rõ diệu lý của trời đất, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, v.v., thì không còn con đường nào hơn là quy y vào cửa Phật. Cuối cùng với lòng quyết tâm, năm 23 tuổi ông lên Phổ Đà Sơn (普陀山) ở Nam Hải, thuộc Ninh Ba (寧波, Tỉnh Triết Giang), tham bái Triều Âm Động Chủ (潮音洞主). Năm lên 29 tuổi, ông đến viếng thăm Hoàng Bá Sơn (黃檗山), theo Giám Nguyên Hưng Thọ (鑑源興壽) xuống tóc xuất gia, và sau đó đi tham bái khắp các nơi. Trong thời gian này, ông có học Kinh Pháp Hoa ở Hưng Thiện Tự (興善寺) vùng Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang), rồi Kinh Lăng Nghiêm ở Bích Vân Tự (碧雲寺). Bên cạnh đó ông còn đến gõ cửa Mật Vân Viên Ngộ (密雲圓悟) và thọ nhận tâm ấn của vị này. Vào năm thứ 6 (1633) niên hiệu Sùng Trinh (崇貞), khi Phí Ẩn Thông Dung (費隱通容) đang sống tại Hoàng Bá Sơn, ông được cử làm chức Tây Đường, sau thể theo lời thỉnh cầu, ông lên quản lý cả Hoàng Bá Tông và đã làm cho tông phong rạng rỡ tột đỉnh; bên cạnh đó ông còn tận lực cho xây dựng các ngôi đường vũ khang trang hơn, và trở thành pháp từ của Phí Ẩn. Ông đã từng sống qua một số chùa như Phước Nghiêm Tự (福嚴寺) ở Sùng Đức (崇德, Tỉnh Triết Giang), Long Tuyền Tự (龍泉寺) ở Trường Lạc (長樂, Tỉnh Phúc Kiến). Đến năm thứ 11 (1654) niên hiệu Thuận Trị (順治), nhận lời cung thỉnh của mấy vị tăng nhóm Dật Nhiên Tánh Dung (逸然性融) ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) vùng Trường Khi (長崎, Nagasaki), ông cùng với Đại Mi Tánh Thiện (大眉性善), Độc Trạm Tánh Oanh (獨湛性瑩), Độc Ngôn Tánh Văn (獨言性聞), Nam Nguyên Tánh Phái (南源性派), v.v., hơn 30 người đệ tử lên thuyền sang Nhật, đến Hưng Phước Tự. Khi ấy ông đã 63 tuổi. Năm sau, ông chuyển đến Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji), rồi thể theo lời mời của Long Khê Tánh Tiềm (龍溪性潜) ở Phổ Môn Tự (普門寺, Fumon-ji) vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu), ông đến làm trú trì chùa này. Sau đó, vào tháng 9 năm đầu (1651) niên hiệu Vạn Trị (萬治), ông đi lên phía đông, đến trú ngụ tại Lân Tường Viện (麟祥院) ở Thang Đảo (湯島, Yushima) vùng Giang Hộ (江戸, Edo, thuộc Tokyo), đến yết kiến Tướng Quân Đức Xuyên Gia Cương (德川家綱, Tokugawa Ietsuna), và vì hàng sĩ thứ mà thuyết pháp lợi sanh. Vào tháng 5 năm đầu (1661) niên hiệu Khoan Văn (寬文), ông sáng lập Hoàng Bá Sơn Vạn Phước Tự (黃檗山萬福寺) tại vùng đất Vũ Trị (宇治, Uji), làm căn cứ truyền bá Thiền phong của Hoàng Bá Tông tại Nhật Bản; và đến tháng 9 năm thứ 4 đồng niên hiệu trên, ông nhường ngôi trú trì lại cho Mộc Am Tánh Thao (木菴性瑫), và lui về ẩn cư. Vào tháng 2 năm thứ 13 cùng niên hiệu trên, ông bị bệnh nhẹ; ngày 30 cùng tháng này Hậu Thủy Vĩ Thượng Hoàng (後水尾上皇, Gomizunō Jōkō) sai sứ đến vấn an ông. Đến ngày mồng 2 tháng 4, ông được ban cho hiệu là Đại Quang Phổ Chiếu Quốc Sư (大光普照國師). Vào ngày mồng 3 tháng 4 năm sau, ông thị tịch, hưởng thọ 82 tuổi đời, 54 hạ lạp, và được ban tặng thêm cho thụy hiệu là Phật Từ Quảng Giám Thiền Sư (佛慈廣鑑禪師). Ngoài ra ông còn có một số hiệu khác như Kính Sơn Thủ Xuất Thiền Sư (徑山首出禪師), Giác Tánh Viên Minh Thiền Sư (覺性圓明禪師). Trước tác của ông để lại có Hoàng Bá Ngữ Lục (黃檗語錄) 2 quyển, Long Tuyền Ngữ Lục (龍泉語錄) 1 quyển, Hoàng Bá Sơn Chí (黃檗山誌) 8 quyển, Hoằng Giới Pháp Nghi (弘戒法儀) 2 quyển, Dĩ Thượng Trung Quốc Soạn Thuật (以上中國撰術), Phù Tang Hội Lục (扶桑會錄) 2 quyển, Phổ Chiếu Quốc Sư Quảng Ngữ Lục (普照國師廣語錄) 20 quyển, Hoàng Bá Hòa Thượng Thái Hòa Tập (黃檗和上太和集) 2 quyển, Đồng Kết Tập (同結集) 2 quyển, Sùng Phước Tự Lục (崇福寺錄), Phật Tổ Đồ Tán (佛祖圖賛), Phật Xá Lợi Ký (佛舎利記), Ẩn Nguyên Pháp Ngữ (隱元法語), Phổ Môn Thảo Lục (普門艸錄), Tùng Ẩn Tập (松隱集), Vân Đào Tập (雲濤集), Hoàng Bá Thanh Quy (黃檗清規), v.v.
(寶相): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho hình tượng đế vương. Như trong bài Văn Tương Hoàng Đế Kim Tượng Minh (文襄皇帝金像銘) của Hình Thiệu (邢邵, 496-?) nhà Bắc Tề có câu: “Thần nghi nội oánh, bảo tướng ngoại tuyên (神儀內瑩、寶相外宣, dáng thần trong sáng, tướng báu ngoài rõ).” (2) Tên của loài hoa, thuộc một loại của hoa Tường Vi. (3) Chỉ hình tướng của chư Phật trang nghiêm, tôn quý như của báu. Như trong bài Đầu Đà Tự Bi Văn (頭陀寺碑文) của Vương Triệt (王屮, ?-?) nhà Lương thời Nam Triều có câu: “Kim tư bảo tướng, vĩnh tạ nhàn an (金資寶相、永藉閑安, dáng vàng tướng báu, mãi hiện an nhàn).” Trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 5, phần Chư Ban Kệ Tán Môn (諸般偈讚門), có câu: “Vạn thánh khuynh tâm chiêm bảo tướng, cửu long phún thủy dục kim thân (萬聖傾心瞻寶相、九龍吐水浴金身, muôn thánh dốc lòng xem tướng báu, chín rồng phun nước tắm thân vàng).”
(八紘): hay Bát Huyền. Hoành (紘), đồng nghĩa với chữ duy (維), nghĩa là phương, góc. Thời cổ đại, người ta xem Bát Hoành là thiên hạ. Trong Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1261) quyển 3 có giải thích rõ rằng: “Hoài Nam Tử vân: 'Thiên hữu Cửu Bộ Bát Kỷ, địa hữu Cửu Châu Bát Quế; Cửu Châu chi ngoại hữu Bát Duyên, Bát Duyên chi ngoại hữu Bát Hoành; Đông Bắc phương chi hoành viết Hoang Thổ; Đông phương chi hoành viết Tang Dã; Đông Nam phương chi hoành viết Chúng An; Nam phương chi hoành viết Phản Hộ; Tây Nam phương chi hoành viết Hỏa Thổ; Tây phương chi hoành viết Ốc Dã; Tây Bắc phương chi hoành viết Sa Sở; Bắc phương chi hoành viết Ủy Vũ; cố viết tứ phương tứ giác vị chi Bát Hoành. Bát Hoành chi ngoại hữu Bát Cực; hựu Cửu Di, Bát Địch, Thất Nhung, Lục Man, vị chi Tứ Hải' (淮南子云、天有九部八紀、地有九州八桂、九州之外有八埏、八埏之外有八紘、東北方之紘曰荒土、東方之紘曰桑野、東南方之紘曰眾安、南方之紘曰反戶、西南方之紘曰火土、西方之紘曰沃野、西北方之紘曰沙所、北方之紘曰委羽、故曰四方四角謂之八紘、八紘之外有八極、又九夷、八狄、七戎、六蠻、謂之四海, Hoài Nam Tử cho rằng: 'Trời có Chín Bộ Tám Kỷ, đất có Chín Châu Tám Quế; ngoài Chín Châu có Tám Duyên, ngoài Tám Duyên có Tám Hoành; góc phương Đông Bắc gọi là Hoang Thổ; góc phương Đông gọi là Tang Dã; góc phương Đông Nam gọi là Chúng An; góc phương Nam gọi là Phản Hộ; góc phương Tây Nam gọi là Hỏa Thổ; góc phương Tây gọi là Ốc Dã; góc phương Tây Bắc gọi là Sa Sở; góc phương Bắc gọi là Ủy Vũ; cho nên bốn phương bốn góc được gọi là Tám Hoành. Ngoài Tám Hoành lại có Tám Cực; và Chín Di, Tám Địch, Bảy Nhung, Sáu Man được gọi là Bốn Biển').” Trong bài Đề Phi Vân Đình (題披雲亭) của Hy Tẩu Thiệu Đàm Thiền Sư Quảng Lục (希叟紹曇禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1390), quyển 8 có đoạn: “Đại địa hắc man man, nhật nguyệt cửu thao thao, sơn đằng liêu nhất huy, thần dữ cảnh tương hội, Bát Hoành tịnh vô trần, vạn tượng kính trung ế, thiên ngoại xuất đầu khán, tiếu phách lan can toái (大地黑漫漫、日月久韜韜、山藤聊一揮、神與境相會、八紘淨無塵、萬象鏡中翳、天外出頭看、笑擘闌干碎, đại địa tối mù mịt, trời trăng dài mênh mông, dây leo buồn rũ cánh, thần với cảnh gặp nhau, đất trời không gợn bẩn, muôn vật ảnh trong kính, ngoài trời thò đầu ngắm, cười chẻ lan can vụn).” Hay trong Hoằng Trí Thiền Sư Quảng Lục (宏智禪師廣錄, Taishō Vol. 48, No. 2001) cũng có câu: “Nhất ngôn tận thập phương, vạn quyển cai bất đắc, nhất bộ châu Bát Hoành, tứ mã truy bất cập (一言盡十方、萬卷該不得、一步周八紘、駟馬追不及, một lời khắp mười phương, muôn quyển thâu chẳng được, một bước vòng tám hướng, ngựa hay đuổi không kịp).” Trong Thiền môn, vào thời khóa Lạy Thù Ân Chúc Tán, thường có xướng câu: “Bát Huyền an hữu đạo chi trường, Tứ Hải lạc vô vi chi hóa (八紘安有道之長、四海樂無爲之化, Tám Phương yên có đạo trường tồn, Bốn Biển vui vô vi chuyển hóa).” Đặc biệt trong Đệ Nhị Thế Chiến, quân đội của Nhật Hoàng có dùng khẩu hiệu “Bát Hoành nhất vũ (八紘一宇, thế giới một nhà).” Cụm từ này được tìm thấy trong điều Thần Võ Thiên Hoàng (神武天皇), quyển 3 của Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshoki): “Yểm Bát Hoành nhi vi vũ (掩八紘而爲宇, che tám phương mà làm nhà).”
(碧巖錄, Hekiganroku): 10 quyển, trước tác do Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤) biên tập lại bản Tụng Cổ Bách Tắc (頌古百則) mà Tuyết Đậu Trùng Hiển (雪竇重顯) đã từng thuyết giảng khắp nơi, được san hành vào năm thứ 4 (1300) niên hiệu Đại Đức (大德), gọi đủ là Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư Bích Nham Lục (佛果圜悟禪師碧巖錄, Bukkaengozenjihekiganroku) hay còn gọi là Bích Nham Tập (碧巖集, Hekiganshū). Tên bộ này phát xuất từ bức ngạch nơi Giáp Sơn Linh Tuyền Thiền Viện (夾山靈泉禪院) mà Khắc Cần đã từng trú trì. Mỗi tắc công án được hình thành bởi các phần như Thùy Thị (垂示, lời tựa), Bổn Tắc (本則, công án); Bình Xướng (評唱) đối với Bổn Tắc, Tụng Cổ (頌古) và Bình Xướng đối với Tụng Cổ. Bổn Tắc và Tụng Cổ thì thuộc về phần của Tuyết Đậu Trùng Hiển, vốn là người được xem như là vị tổ thứ 3 của Vân Môn Tông, các Tụng Cổ của ông rất phong phú về tính chất văn học có truyền thống, cho nên được rất nhiều người ưa chuộng. Việc Khắc Cần tiến hành giảng nghĩa bộ này cũng là nhằm đáp ứng trào lưu đương thời. Bản Tụng Cổ Bách Tắc của Tuyết Đậu Trùng Hiển vừa hàm chứa sự châm biếm, mà cũng thể hiện tràn đầy niềm yêu thương đối với các bậc Thiền sư ngày xưa. Viên Ngộ đã thêm vào đó những lời giáo giới cho hàng đệ tử mình cũng như những giai thoại trong lịch sử Thiền Tông mà người tu hành cần phải khắc cốt ghi tâm bằng các câu Thùy Thị và Bình Xướng. Đối ứng với Bổn Tắc và Tụng Cổ, Viên Ngộ đã thêm vào lời phê bình cay chua dưới hình thức gọi là Trước Ngữ, cho nên ba nhân vật là Thiền giả xuất hiện trong công án, cùng Tuyết Đậu và Viên Ngộ, vốn có các tánh khác nhau, đã được nối kết lại với nhau, và đây là tác phẩm rất hy hữu mang âm hưởng về mối quan hệ căng thẳng chồng chất lên nhau. Chính vì lẽ đó, khi tác phẩm này xuất hiện, đã được người đời tuyên truyền ngay lập tức, nhưng tương truyền đệ tử của Viên Ngộ là Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) lại cho rằng nó có hại cho người tu hành nên ông cho tập trung tất cả ấn bản rồi đem đốt hết. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tác phẩm này quá to lớn, một số tập công án khác có hình thức tương tợ như vậy lại thay nhau ra đời như Tùng Dung Lục (從容錄, năm 1224, Tụng Cổ của Hoằng Trí Chánh Giác [宏智正覺], bình xướng của Vạn Tùng Hành Tú [萬松行秀]), Không Cốc Tập (空谷集, năm 1285, Tụng Cổ của Đầu Tử Nghĩa Thanh [投子義清], trước ngữ của Đơn Hà Tử Thuần [丹霞子淳], và bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân [林泉從倫]), Hư Đường Tập (虛堂集, Tụng Cổ của Đơn Hà Tử Thuần, bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân), v.v. Thiền của Nhật Bản là sự di nhập của Thiền nhà Tống, cho nên Bích Nham Lục cũng được xem như là "thư tịch số một của tông môn", được đem ra nghiên cứu, giảng nghĩa, và từ thời Nam Bắc Triều trở đi thỉnh thoảng có khai bản ấn hành. Ngoài ra, Viên Ngộ Khắc Cần còn có trước tác Phật Quả Viên Ngộ Kích Tiết Lục (佛果圜悟擊節錄, Niêm Cổ của Tuyết Đậu Trùng Hiển, trước ngữ và bình xướng của Viên Ngộ Khắc Cần) và nó cũng được lưu hành rộng rãi. Còn Thỉnh Ích Lục (請益錄, năm 1230, Niêm Cổ của Hoàng Trí Chánh Giác, trước ngữ và bình xướng của Vạn Tùng Hành Tú) là bản mô phỏng theo tác phẩm Phật Quả Viên Ngộ Kích Tiết Lục này. Bản Bích Nham Lục hiện tồn là bản do Trương Minh Viễn (張明遠) nhà Thục san hành vào năm thứ 4 niên hiệu Đại Đức (大德), có khác với Tụng Cổ Bách Tắc về thứ tự của các tắc công án. Tại Nhật Bản, Bản Ngũ Sơn cũng là bản khắc lại nguyên hình bản của Trương Minh Viễn. Tuy nhiên, trong bản này có lời hậu tựa của Quan Vô Đảng (關無黨) ghi năm thứ 7 (1125) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), và lời tựa của Phổ Chiếu (普照) ghi năm thứ 2 (1128) niên hiệu Kiến Viêm (建炎), chúng ta biết được rằng trước đó đã có san hành rồi. Như trong lời hậu tựa của Hư Cốc Hy Lăng (虛谷希陵) có đoạn: “Ngu trung Trương Minh Viễn, ngẫu hoạch tả bản hậu sách, hựu hoạch Tuyết Đường san bản cập Thục bản, hiệu đính ngoa suyễn, san thành thử thư (嵎中張明遠、偶獲寫本後册、又獲雪堂刊本及蜀本、校訂訛舛、刊成此書, Trương Minh Viễn tình cờ có được quyển sau của tả bản trong hẽm núi, lại có thêm san bản của Tuyết Đường và bản nhà Thục, bèn hiệu đính những chỗ sai lầm, in thành sách này)” và san bản của Tuyết Đường Đạo Hạnh (雪堂道行) cũng nói lên vấn đề trên.
(平田篤胤, Hirata Atsutane, 1776-1883): nhà Quốc Học, Thần Đạo, tư tưởng gia, y sĩ, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; xuất thân Phiên Cửu Bảo Điền (久保田藩, Kubota-han), Xuất Vũ (出羽, Dewa); sau khi thành nhân là con nuôi của Bình Điền Đốc Ổn (平田篤穩), nhà binh học của Phiên Tùng Sơn (松山藩, Matsuyama-han), Bị Trung (僃中, Bicchū). Tên lúc nhỏ của ông là Chánh Cát (正吉); thông xưng là Bán Binh Vệ (半兵衛); hiệu Khí Xuy Xá (氣吹舍), Đại Giác (大角), Đại Hác (大壑); gia hiệu là Chơn Quản Nãi Ốc (眞菅乃屋). Với tư cách là nhà y học, ông dùng tên Huyền Trác (玄琢) và sau khi qua đời thì được nhà Bạch Xuyên (白川, Shirakawa) tặng cho danh hiệu là Thần Linh Năng Chơn Trụ Đại Nhân (神靈能眞柱大人). Ông là người hình thành hệ thống gọi là Phục Cổ Thần Đạo (復古神道, tức Cổ Đạo Học), cùng với Hà Điền Xuân Mãn (河田春滿), Hạ Mậu Chơn Châu (加茂眞洲), Bổn Cư Tuyên Trường (本居宣長), được liệt vào Quốc Học Tứ Đại Nhân. (國學四大人). Ông học ở Giang Hộ, rồi sau Bổn Cư Tuyên Trường qua đời, ông tự xưng là “môn nhân sau khi chết” của vị này. Ông cấu tưởng vũ trụ luận mang tính quốc học vốn phát xuất từ Thiên Địa Khai Tị Luận (天地開闢論, luận trời đất mở mang), chỉnh lý trật tự các Thần và hình thành Thần Đạo Thần Học. Trên cơ sở xã hội quan mới mẻ thông qua khái niệm gọi là “sản linh (産靈)”, ông lấy quan niệm U Minh Giới (幽冥界, cõi sau khi chết) để thêm vào tính tôn giáo trong quốc học. Bình Điền Học Phái (平田學派) phát triển rộng rãi trong tầng lớp người nông dân giàu có cũng như Thần Quan, hình thành một học phái lớn ở trung tâm vùng Trung Bộ, Quan Đông và đã đem đến ảnh hưởng không nhỏ cho cuộc vận động Tôn Vương (尊王) vào cuối thời Mạc Phủ. Trước tác của ông có rất nhiều như Cổ Đạo Đại Ý (古道大意), Linh Năng Chơn Trụ (靈能眞柱), Cổ Sử Trưng (古史徴), Quỷ Thần Tân Luận (鬼神新論), Cổ Kim Yêu Mị Khảo (古今妖魅考), Mật Giáo Tu Sự Bộ Loại Cảo (密敎修事部類稿), Cổ Dịch Thành Văn (古易成文), Tiên Cảnh Dị Văn (仙境異聞), Cổ Dịch Đại Tượng Kinh Thành Văn (古易大象經成文), Y Xuy Ư Lữ Chí (伊吹於呂志), Thần Đồng Bằng Đàm Lược Ký (神童憑談略記), Cổ Dịch Đại Tượng Kinh Truyện (古易大象經傳), Đồng Mông Nhập Học Môn (童蒙入學門), Tam Dịch Do Lai Ký (三易由來記), Tam Thần Sơn Dư Khảo (三神山余考), Tượng Dịch Chánh Nghĩa (象易正義), Tục Thần Đạo Đại Ý (俗神道大意), Thái Hạo Cổ Dịch Truyện Thành Văn (太昊古易傳成文), Tây Tịch Khái Luận (西籍概論), Vụ Đảo Sơn U Hương Chơn Ngữ (霧島山幽郷眞語), Xuất Định Tiếu Ngữ (出定笑語), Xích Huyện Thái Cổ Truyện (赤縣太古傳), Khâm Mạng Lục (欽命錄), Ca Đạo Đại Ý (歌道大意), Thiên Trụ Ngũ Nhạc Khảo (天柱五嶽考), Thái Hạo Cổ Lịch Truyện (太昊古曆傳), Khí Xuy Xá Ca Văn Tập (氣吹舍歌文集), Cổ Lịch Nhật Bộ Thức (古曆日歩式), Chí Đô Năng Thạch Ốc (志都能石屋), Ngũ Nhạc Chơn Hình Đồ Thuyết (五嶽眞形圖說), Y Tông Trọng Cảnh Khảo (醫宗仲景考), Cát Tiên Ông Văn Túy (葛仙翁文粋), Xuân Thu Lịch Bổn Thuật Thiên (春秋曆本術篇), Đại Đạo Hoặc Vấn (大道或問), Cát Tiên Ông Truyện (葛仙翁傳), Hoàng Đế Truyện Ký (黃帝傳記), Hoằng Nhân Lịch Vận Ký Khảo (弘仁歷運記考), Ngưu Đầu Thiên Vương Lịch Thần Biện (牛頭天王曆神辨), v.v. Môn đệ của ông có Đại Quốc Long Chánh (大國隆正), Linh Mộc Trùng Dận (鈴木重胤), Lục Nhân Bộ Thị Hương (六人部是香), Sanh Điền Vạn (生田萬), Quyền Điền Trực Trợ (權田直助), v.v.
(s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536): xưa kia người ta viết chữ Ma là 摩, nhưng về mặt truyền thống thì viết là 磨. Các học giả Cận Đại thì viết là 磨, khi xem Đại Sư như là vị Tổ sư; còn viết là 摩 khi xem như là nhân vật lịch sử. Theo hệ thống truyền đăng của Thiền Tông, Đại Sư là vị Tổ thứ 28 của Tây Thiên (Ấn Độ), và là sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Những truyền ký về Đạt Ma thì xưa nay đều y cứ vào bản Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, năm 1004) cũng như Bồ Đề Đạt Ma Chương (菩提達磨章); nhưng theo những nghiên cứu gần đây, người ta có khuynh hướng cấu thành truyền ký về ông dựa trên những tư liệu xưa hơn hai tư liệu vừa nêu trên. Tư liệu về Đạt Ma Truyện thì có nhiều loại như Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, năm 547), Đàm Lâm Nhị Chủng Nhập (曇琳二種入, khoảng năm 600), Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, năm 645), Truyền Pháp Bảo Ký (傳法寳記, khoảng năm 712), Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記, khoảng năm 713, 716), Lịch Đại Pháp Bảo Ký (歷代法寳記, khoảng năm 774), Bảo Lâm Truyện (寳林傳, năm 801), Tổ Đường Tập (祖堂集, năm 952), v.v. Thông qua Bảo Lâm Truyện từ đó các ký lục của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記, năm 1061), v.v., được hình thành. Lại nữa, chúng ta cần phải lưu ý đến những văn bản như Nội Chứng Phật Pháp Tương Thừa Huyết Mạch Phổ (內證佛法相承血脈譜, năm 819) của Tối Trừng (最澄, Saichō), Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận (菩提達摩南宗定是非論, năm 732), Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa (問答雜徴義) của Thần Hội (神會), rồi Thiền Môn Sư Tư Tương Thừa Đồ (禪門師資相承圖), Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序), Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (圓覺經大疏鈔) của Tông Mật (宗密). Từ đó, xét về tiểu sử của Đạt Ma, ta thấy rằng Đại Sư sanh ra ở nước Ba Tư (波斯) hay Nam Thiên Trúc (南天竺). Theo như tài liệu mới thành lập sau này cho thấy rằng ông là người con thứ 3 của quốc vương nước này. Ông kế thừa dòng pháp của Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅), rồi sau đó sang Trung Quốc. Bảo Lâm Truyện thì cho rằng ông đến Quảng Châu (廣州) vào ngày 21 tháng 9 năm thứ 8 (527) niên hiệu Phổ Thông (普通) nhà Lương. Bản ghi rõ ngày tháng thì có Bảo Lâm Truyện này, nhưng đời sau lại có khá nhiều dị thuyết xuất hiện. Sự việc vua Lương Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) xuất hiện trong câu chuyện Đạt Ma, lần đầu tiên được tìm thấy trong Nam Tông Định Thị Phi Luận và Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa; còn các tư liệu trước đó thì không thấy. Câu trả lời “vô công đức (無功德, không có công đức)” của Đạt Ma đối với vua Lương Võ Đế, mãi cho đến bản Tổ Đường Tập mới thấy xuất hiện. Về sau, Đạt Ma đến tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (嵩山少林寺), ngồi xoay mặt vào vách tường suốt 9 năm trường. Còn câu chuyện Huệ Khả (慧可) tự mình chặt tay giữa lúc tuyết rơi rồi dâng lên cho Đạt Ma để cầu pháp, lần đâu tiên được ghi lại trong Lăng Già Sư Tư Ký; nhưng Tục Cao Tăng Truyện thì lại cho rằng Huệ Khả gặp bọn cướp giữa đường và bị chặt tay. Môn nhân của Đạt Ma có 4 nhân vật nổi tiếng là Đạo Dục (道育), Huệ Khả (慧可), Ni Tổng Trì (尼總持) và Đạo Phó (道副). Đại Sư có trao truyền cho Huệ Khả 4 quyển Kinh Lăng Già, y Ca Sa, và bài kệ phú pháp. Bài này được ghi lại trong Bảo Lâm Truyện. Bản Lạc Dương Già Lam Ký có ghi rằng lúc khoảng 150 tuổi, Đạt Ma tán thán cảnh sắc hoa mỹ của chốn già lam Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), rồi xướng danh hiệu Nam Mô, chấp tay mà thị tịch. Còn việc Đạt Ma bị giết chết bằng thuốc độc có ghi lại trong Truyền Pháp Bảo Ký. Trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký có đề cập rằng Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支) và Quang Thống Luật Sư (光統律師, tức Huệ Quang [慧光]) đã trãi qua 6 lần bỏ thuốc độc hại Đạt Ma. Về năm Ngài thị tịch, Bảo Lâm Truyện có ghi là vào ngày mồng 5 tháng 12 năm Bính Thìn (536), đời vua Hiếu Minh Đế (孝明帝, tại vị 515-528) nhà Hậu Ngụy. Trong khi đó, bản bia minh của Huệ Khả thì ghi ngày mồng 5 tháng 12 năm thứ 2 (536) niên hiệu Đại Đồng (大同). Bản Tổ Đường Tập thì ghi là năm thứ 19 (495) niên hiệu Thái Hòa (太和); và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì ghi là ngày mồng 5 tháng 10 cùng năm trên; hưởng thọ 150 tuổi. Ngài được an táng tại Hùng Nhĩ Sơn (熊耳山), nhưng theo vị sứ nhà Đông Ngụy là Tống Vân (宋雲), ông gặp Đạt Ma ở Thông Lãnh (葱嶺) đang quảy một chiếc hài đi về hướng Tây; nên khi trở về nước, ông cho mở quan tài ra để xem hư thực, mới phát hiện bên trong quan tài chỉ còn lại một chiếc hài mà thôi. Tương truyền vua Võ Đế soạn bài bia minh tháp. Vua Đại Tông ban cho Đạt Ma thụy hiệu là Viên Giác Đại Sư (圓覺大師); trong bản văn tế của Chiêu Minh Thái Tử (昭明太子) thì gọi là Thánh Trụ Đại Sư (聖胄大師). Những soạn thuật của Đại Sư được lưu truyền cho đến nay có Nhị Chủng Nhập (二種入), Tâm Kinh Tụng (心經誦), Phá Tướng Luận (破相論), An Tâm Pháp Môn (安心法門), Ngộ Tánh Luận (悟性論), Huyết Mạch Luận (血脈論), được thâu tập thành bản gọi là Thiếu Thất Lục Môn (少室六門). Còn trong Thiền Môn Nhiếp Yếu (禪門攝要) của Triều Tiên có thâu lục Huyết Mạch Luận, Quán Tâm Luận (觀心論), Tứ Hành Luận (四行論). Sau này trong các văn bản được khai quật ở động Đôn Hoàng (敦煌) còn có Nhị Nhập Tứ Hành Luận (二入四行論), Tạp Lục (雜錄), Tuyệt Quán Luận (絕觀論), Vô Tâm Luận (無心論), Chứng Tâm Luận (證心論), Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn (達磨禪師觀門), Đạt Ma Thiền Sư Luận (達磨禪師論), v.v. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng phần nhiều đó là những trước tác của chư Tổ sư khác nhưng lại lấy tên Đạt Ma; và người ta cũng công nhận rằng trước tác của Đạt Ma chỉ là Nhị Chủng Nhập mà thôi. Nếu căn cứ vào bản này, ta thấy rằng tư tưởng của Đạt Ma là Tứ Như Thị (四如是, bốn điều như vậy) và Nhị Nhập Tứ Hạnh (二入四行). Tứ Như Thị là Như Thị An Tâm (如是安心), Như Thị Phát Hạnh (如是發行), Như Thị Thuận Vật (如是順物) và Như Thị Phương Tiện (如是方便). Nhị Nhập là Lý Nhập (理入) và Hạnh Nhập (行入). Còn Tứ Hạnh là 4 yếu tố được hình thành từ Hạnh Nhập. Tâm yếu làm cơ sở cho Thiền pháp của Đạt Ma được xem như là y cứ vào 4 quyển Kinh Lăng Già; nhưng đó không phải là văn bản giải thích về mặt học vấn của kinh này, mà nhằm nhấn mạnh việc cần phải lấy trọn tinh thần kinh. Theo Tục Cao Tăng Truyện, giới Phật Giáo đương thời rất chú trọng đến nghiên cứu, giảng diễn kinh luận; trong khi đó, Đạt Ma thì lại cổ xúy Thiền mang tính thật tiễn của cái gọi là “không vô sở đắc (空無所得, không có cái gì đạt được)”; cho nên ông bị học giả lúc bầy giờ phê phán mãnh liệt. Từ đó, các thuật ngữ như giáo ngoại biệt truyền (敎外別傳), bất lập văn tự (不立文字), dĩ tâm truyền tâm (以心傳心), kiến tánh thành Phật (見性成佛), v.v., được thành lập. Thời đại thay đổi cho đến thời Lục Tổ Huệ Năng (慧能) trở về sau, những thuật ngữ này trở nên rất thịnh hành, thông dụng; vậy ta có thể khẳng định rằng manh nha của chúng vốn phát xuất từ thời Đạt Ma.
(菩提達摩南宗定是非論, Bodaidarumananshūteizehiron): còn gọi là Nam Tông Định Thị Phi Luận (南宗定是非論) hay Đốn Ngộ Tối Thượng Thừa Luận (頓悟最上乘論), 1 quyển, do Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會) soạn. Với ý đồ chủ trương hệ thống Đạt Ma của Nam Tông là chánh truyền, đây là ký lục của Thần Hội ghi lại cuộc tông luận bài kích của Bắc Tông do Pháp Sư Sùng Viễn (崇遠) tiến hành tại Đại Hội Vô Già ở Đại Vân Tự (大雲寺), Hoạt Đài (滑臺) vào năm thứ 20 (732) niên hiệu Khai Nguyên (開元). Môn nhân của Thần Hội là Độc Cô Phái (獨孤沛) thâu tập lại và thêm vào lời tựa. Hồ Thích (湖適), người trước đây đã từng phát hiện ra hai bản Đôn Hoàng của tác phẩm này P3047 và P3488, sau này lại tìm thấy một bản khác, P2045, và cho đến nay người ta đã phục nguyên lại toàn bộ nội dung trước tác này. Ngoài ra còn có tàng bản của Nhiệm Tử Nghi (任子宜) nữa.
(震旦, Shintan): tên gọi khác của Trung Quốc, người Ấn Độ cổ đại thường gọi người Trung Quốc là Cīna-sthāna. Từ này đôi khi cũng được viết là Chấn Đán (振旦) hay Chân Đan (眞丹). Như trong Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, CBETA No. 1594) quyển 20 có câu: “A Dục Vương tàng Như Lai Xá Lợi ư thiên hạ, phàm bát vạn tứ thiên sở, kim Chấn Đán cảnh trung, thập hữu cửu xứ (阿育王藏如來舍利於天下、凡八萬四千所、今震旦境中、十有九處, A Dục Vương lưu giữ xá lợi của đức Như Lai khắp thiên hạ, có tám vạn bốn ngàn nơi; nay trong nước Trung Quốc, có mười chín chỗ).” Hay như trong Bài Tặng Nhật Quốc Huyền Quang Thiền Sư (贈日國玄光禪師) của Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Hoàn Sơn Lục (爲霖道霈禪師還山錄, CBETA No. 1440) quyển 3 có đoạn: “Hào tướng phóng quang lai Chấn Đán, độc am độc ngữ biến tùng lâm, hà đảm đại pháp thi toàn lực, tông thuyết viên minh quán cổ kim (毫相放光來震旦、獨菴獨語遍叢林、荷擔大法施全力、宗說圓明貫古今, tướng tốt phóng quang về Chấn Đán, một am thuyết khắp chốn tùng lâm, nặng mang pháp lớn dốc toàn lực, truyền bá tông phong thấu cổ kim).”
(眞機): lý huyền diệu, bí yếu. Như trong bài thơ Tống Đạm Công Quy Tung Sơn Long Đàm Tự Táng Bổn Sư (送淡公歸嵩山龍潭寺葬本師) của Dương Cự Nguyên (楊巨源, 755-?) nhà Đường có câu: “Dã yên thu hỏa thương mang viễn, Thiền cảnh chơn cơ khử trú nhàn (野煙秋火蒼茫遠、禪境眞機去住閒, khói hoang thu lửa xanh xa tít, Thiền cảnh huyền cơ mặc sống nhàn).” Hay trong bài thơ Hòa Giả Vân Lão Xuân Vãn (和賈耘老春晚) của Trần Sư Đạo (陳師道, 1053-1101) nhà Tống cũng có câu: “Nhất ngọa hải thành xuân hựu vãn, bất phương nhàn xứ đắc chơn cơ (一臥海城春又晚、不妨閒處得眞機, nằm xuống biển thành xuân lại xế, ngại gì nhàn chốn được huyền cơ).” Hay trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 20, phần Khai Thị Kệ (開示偈), lại có câu: “Quế hoa hương xứ lộ chơn cơ, chánh thị tâm không cập đệ thời (桂花香處露眞機、正是心空及第時, quế hoa hương ngát lộ cơ duyên, đúng lúc tâm không thị đỗ về).” Hoặc trong Kiềm Nam Hội Đăng Lục (黔南會燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1591) cũng có đoạn rằng: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, thị dĩ cửu niên diện bích, độc khế chơn cơ, chích lý Tây quy (敎外別傳、不立文字、直指人心、見性成佛、是以九年面壁、獨契眞機、隻履西歸, ngoài giáo truyền riêng, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tán thành Phật, vì vậy chín năm nhìn vách, riêng khế huyền cơ, một dép về Tây).”
(s: bhūta-tathatā, tathatā, 眞如): chơn nghĩa là chơn thật, không hư vọng; như là như thường, bất biến. Chơn như là bản thể chân thật trùm khắp vũ trụ vạn vật, là chân lý vĩnh cửu bất biến, căn nguyên của hết thảy vạn hữu. Từ này còn được gọi là Như Như (如如), Như Thật (如實), Pháp Giới (法界), Pháp Tánh (法性), Thật Tế (實際), Thật Tướng (實相), Như Lai Tạng (如來藏), Pháp Thân (法身), Phật Tánh (佛性), Tự Tánh Thanh Tịnh Thân (自性清淨身), Nhất Tâm (一心), Bất Tư Nghì Giới (不思議界). Trong các Phật điển Hán dịch thời kỳ đầu, Chơn Như được dịch là Bản Vô (本無). Nếu nghiên cứu kỹ, các tông phái dùng từ này với nghĩa khác nhau. Theo A Hàm Kinh (阿含經), lý pháp của Duyên Khởi là chân lý vĩnh viễn bất biến, nên gọi đó là Chơn Như. Lại nữa, căn cứ vào thuyết Cửu Vô Vi (九無爲, 9 loại Vô Vi) do Hóa Địa Bộ (s: Mahīśāsaka, 化地部) trong Dị Bộ Tông Luân Luận (異部宗輪論), có Thiện Pháp Chơn Như (善法眞如), Bất Thiện Pháp Chơn Như (不善法眞如), Vô Ký Pháp Chơn Như (無記法眞如), Đạo Chi Chơn Như (道支眞如), Duyên Khởi Chơn Như (緣起眞如), v.v. Theo chủ trương của Phật Giáo Đại Thừa, bản tánh của tất cả tồn tại như người và pháp đều vô ngã, vượt qua các tướng sai biệt vốn có; nên gọi là Chơn Như. Tỷ dụ sự tự tại của Pháp Thân Như Lai là Chơn Như. Theo Phật Địa Kinh Luận (佛地經論) quyển 7, Chơn Như là thật tánh của tất cả vạn tượng; tướng của nó tuy có nhiều loại khác nhau, nhưng thể của nó cùng một vị, cùng với các pháp không một cũng không khác, vượt ra ngoài những phạm trù của ngôn ngữ, tư duy. Từ quan điểm xa lìa những sai khác, hư ngụy, Chơn Như, nó được gọi là Giả Danh Chơn Như (假名眞如). Hay nếu là nơi nương tựa của tất cả các điều thiện, nó có tên là Pháp Giới. Nếu là chỗ sở ngộ của trí vô phân biệt, nó có tên là Thắng Nghĩa (勝義). Về các tên gọi khác nhau của Chơn Như, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經) quyển 360, có nêu 12 từ như Chơn Như, Pháp Tánh, Bất Hư Vọng Tánh (不虛妄性), Bình Đẳng Tánh (平等性), Ly Sanh Tánh (離生性), Pháp Định (法定), Pháp Trú (法住), Thật Tế, Hư Không Giới (虛空界) và Bất Tư Nghì Giới. Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (阿毘達磨雜集論) quyển 2 có liệt ra 6 từ như Chơn Như, Không Tánh (空性), Vô Tướng (無相), Thật Tế, Thắng Nghĩa, Pháp Giới. Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義) quyển 8 cũng nêu lên 14 từ khác nhau như Thật Tướng, Diệu Hữu (妙有), Chơn Thiện Diệu Sắc (眞善妙色), Thật Tế, Tất Cánh Không (畢竟空), Như Như, Niết Bàn (涅槃), Hư Không (虛空), Phật Tánh, Như Lai Tạng (如來藏), Trung Thật Lý Tâm (中實理心), Phi Hữu Phi Vô Trung Đạo (非有非無中道), Đệ Nhất Nghĩa Đế (第一義諦), Vi Diệu Tịch Diệt (微妙寂滅). Theo Thành Duy Thức Luận (成唯識論) quyển 10, Pháp Tướng Tông lập ra 10 loại Chơn Như khác nhau, tùy theo cấp độ giác ngộ sâu cạn của vị Bồ Tát, gồm: Biến Hành Chơn Như (變行眞如), Tối Thắng Chơn Như (最勝眞如), Thắng Lưu Chơn Như (勝流眞如), Vô Nhiếp Thọ Chơn Như (無攝受眞如), Loại Vô Biệt Chơn Như (類無別眞如), Vô Nhiễm Tịnh Chơn Như (無染淨眞如), Pháp Vô Biệt Chơn Như (法無別眞如), Bất Tăng Giảm Chơn Như (不增減眞如), Trí Tự Tại Sở Y Chơn Như (智自在所依眞如) và Nghiệp Tự Tại Đẳng Sở Y Chơn Như (業自在等所依眞如). Còn Địa Luân Tông thì chủ trương tự thể của A Lại Da Thức (s: ālaya-vijñāna, 阿賴耶識) thứ 8 là Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm (自性清淨心) và đó là Chơn Như. Thức này do bị Vô Minh huân tập, nên xuất hiện các hiện tượng ô nhiễm, thanh tịnh, v.v. Hoa Nghiêm Tông lại chủ trương “bản thể là hiện tượng”, có nghĩa rằng Chơn Như vốn là vạn pháp và vạn pháp cũng là Chơn Như. Cho nên, tông này nêu ra 2 loại Chơn Như: Nhất Thừa Chơn Như (一乘眞如, gồm Biệt Giáo Chơn Như [別敎眞如] và Đồng Giáo Chơn Như [同敎眞如]) và Tam Thừa Chơn Như (三乘眞如, gồm Đốn Giáo Chơn Như [頓敎眞如] và Tiệm Giáo Chơn Như [漸敎眞如]). Trong khi đó, Thiên Thai Tông thì dựa trên thuyết Tánh Cụ (性具, tánh có đầy đủ các pháp) mà cho rằng bản thân Chơn Như xưa nay vốn đầy đủ các pháp ô nhiễm, thanh tịnh, thiện ác, v.v. Từ đó, tự tánh thanh tịnh của chư Phật được gọi là Vô Cấu Chơn Như (無垢眞如), hay Xuất Triền Chơn Như (出纒眞如); còn thể tánh của chúng sanh bị phiền não làm cho cấu nhiễm, nên gọi là Hữu Cấu Chơn Như (有垢眞如), hoặc Tại Triền Chơn Như (在纒眞如); cả có tên là Lưỡng Cấu Chơn Như (兩垢眞如). Tổ Giác Tiên (覺先, 1880-1936), người khai sáng An Nam Phật Học Hội (安南佛學會) ở miền Trung và cũng là vị tổ khai sơn Chùa Trúc Lâm tại Huế, có làm bài thơ rằng: “Phù sanh ký thác chơn như mộng, đáo xứ năng an tiện thị gia (浮生寄托眞如夢、到處能安便是家, phù sanh tạm gởi chơn như mộng, đến chốn khéo an ấy là nhà).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập