Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vạn tự »»

(八紘): hay Bát Huyền. Hoành (紘), đồng nghĩa với chữ duy (維), nghĩa là phương, góc. Thời cổ đại, người ta xem Bát Hoành là thiên hạ. Trong Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1261) quyển 3 có giải thích rõ rằng: “Hoài Nam Tử vân: 'Thiên hữu Cửu Bộ Bát Kỷ, địa hữu Cửu Châu Bát Quế; Cửu Châu chi ngoại hữu Bát Duyên, Bát Duyên chi ngoại hữu Bát Hoành; Đông Bắc phương chi hoành viết Hoang Thổ; Đông phương chi hoành viết Tang Dã; Đông Nam phương chi hoành viết Chúng An; Nam phương chi hoành viết Phản Hộ; Tây Nam phương chi hoành viết Hỏa Thổ; Tây phương chi hoành viết Ốc Dã; Tây Bắc phương chi hoành viết Sa Sở; Bắc phương chi hoành viết Ủy Vũ; cố viết tứ phương tứ giác vị chi Bát Hoành. Bát Hoành chi ngoại hữu Bát Cực; hựu Cửu Di, Bát Địch, Thất Nhung, Lục Man, vị chi Tứ Hải' (淮南子云、天有九部八紀、地有九州八桂、九州之外有八埏、八埏之外有八紘、東北方之紘曰荒土、東方之紘曰桑野、東南方之紘曰眾安、南方之紘曰反戶、西南方之紘曰火土、西方之紘曰沃野、西北方之紘曰沙所、北方之紘曰委羽、故曰四方四角謂之八紘、八紘之外有八極、又九夷、八狄、七戎、六蠻、謂之四海, Hoài Nam Tử cho rằng: 'Trời có Chín Bộ Tám Kỷ, đất có Chín Châu Tám Quế; ngoài Chín Châu có Tám Duyên, ngoài Tám Duyên có Tám Hoành; góc phương Đông Bắc gọi là Hoang Thổ; góc phương Đông gọi là Tang Dã; góc phương Đông Nam gọi là Chúng An; góc phương Nam gọi là Phản Hộ; góc phương Tây Nam gọi là Hỏa Thổ; góc phương Tây gọi là Ốc Dã; góc phương Tây Bắc gọi là Sa Sở; góc phương Bắc gọi là Ủy Vũ; cho nên bốn phương bốn góc được gọi là Tám Hoành. Ngoài Tám Hoành lại có Tám Cực; và Chín Di, Tám Địch, Bảy Nhung, Sáu Man được gọi là Bốn Biển').” Trong bài Đề Phi Vân Đình (題披雲亭) của Hy Tẩu Thiệu Đàm Thiền Sư Quảng Lục (希叟紹曇禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1390), quyển 8 có đoạn: “Đại địa hắc man man, nhật nguyệt cửu thao thao, sơn đằng liêu nhất huy, thần dữ cảnh tương hội, Bát Hoành tịnh vô trần, vạn tượng kính trung ế, thiên ngoại xuất đầu khán, tiếu phách lan can toái (大地黑漫漫、日月久韜韜、山藤聊一揮、神與境相會、八紘淨無塵、萬象鏡中翳、天外出頭看、笑擘闌干碎, đại địa tối mù mịt, trời trăng dài mênh mông, dây leo buồn rũ cánh, thần với cảnh gặp nhau, đất trời không gợn bẩn, muôn vật ảnh trong kính, ngoài trời thò đầu ngắm, cười chẻ lan can vụn).” Hay trong Hoằng Trí Thiền Sư Quảng Lục (宏智禪師廣錄, Taishō Vol. 48, No. 2001) cũng có câu: “Nhất ngôn tận thập phương, vạn quyển cai bất đắc, nhất bộ châu Bát Hoành, tứ mã truy bất cập (一言盡十方、萬卷該不得、一步周八紘、駟馬追不及, một lời khắp mười phương, muôn quyển thâu chẳng được, một bước vòng tám hướng, ngựa hay đuổi không kịp).” Trong Thiền môn, vào thời khóa Lạy Thù Ân Chúc Tán, thường có xướng câu: “Bát Huyền an hữu đạo chi trường, Tứ Hải lạc vô vi chi hóa (八紘安有道之長、四海樂無爲之化, Tám Phương yên có đạo trường tồn, Bốn Biển vui vô vi chuyển hóa).” Đặc biệt trong Đệ Nhị Thế Chiến, quân đội của Nhật Hoàng có dùng khẩu hiệu “Bát Hoành nhất vũ (八紘一宇, thế giới một nhà).” Cụm từ này được tìm thấy trong điều Thần Võ Thiên Hoàng (神武天皇), quyển 3 của Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshoki): “Yểm Bát Hoành nhi vi vũ (掩八紘而爲宇, che tám phương mà làm nhà).”
(震旦, Shintan): tên gọi khác của Trung Quốc, người Ấn Độ cổ đại thường gọi người Trung Quốc là Cīna-sthāna. Từ này đôi khi cũng được viết là Chấn Đán (振旦) hay Chân Đan (眞丹). Như trong Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, CBETA No. 1594) quyển 20 có câu: “A Dục Vương tàng Như Lai Xá Lợi ư thiên hạ, phàm bát vạn tứ thiên sở, kim Chấn Đán cảnh trung, thập hữu cửu xứ (阿育王藏如來舍利於天下、凡八萬四千所、今震旦境中、十有九處, A Dục Vương lưu giữ xá lợi của đức Như Lai khắp thiên hạ, có tám vạn bốn ngàn nơi; nay trong nước Trung Quốc, có mười chín chỗ).” Hay như trong Bài Tặng Nhật Quốc Huyền Quang Thiền Sư (贈日國玄光禪師) của Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Hoàn Sơn Lục (爲霖道霈禪師還山錄, CBETA No. 1440) quyển 3 có đoạn: “Hào tướng phóng quang lai Chấn Đán, độc am độc ngữ biến tùng lâm, hà đảm đại pháp thi toàn lực, tông thuyết viên minh quán cổ kim (毫相放光來震旦、獨菴獨語遍叢林、荷擔大法施全力、宗說圓明貫古今, tướng tốt phóng quang về Chấn Đán, một am thuyết khắp chốn tùng lâm, nặng mang pháp lớn dốc toàn lực, truyền bá tông phong thấu cổ kim).”
(s: bhūta-tathatā, tathatā, 眞如): chơn nghĩa là chơn thật, không hư vọng; như là như thường, bất biến. Chơn như là bản thể chân thật trùm khắp vũ trụ vạn vật, là chân lý vĩnh cửu bất biến, căn nguyên của hết thảy vạn hữu. Từ này còn được gọi là Như Như (如如), Như Thật (如實), Pháp Giới (法界), Pháp Tánh (法性), Thật Tế (實際), Thật Tướng (實相), Như Lai Tạng (如來藏), Pháp Thân (法身), Phật Tánh (佛性), Tự Tánh Thanh Tịnh Thân (自性清淨身), Nhất Tâm (一心), Bất Tư Nghì Giới (不思議界). Trong các Phật điển Hán dịch thời kỳ đầu, Chơn Như được dịch là Bản Vô (本無). Nếu nghiên cứu kỹ, các tông phái dùng từ này với nghĩa khác nhau. Theo A Hàm Kinh (阿含經), lý pháp của Duyên Khởi là chân lý vĩnh viễn bất biến, nên gọi đó là Chơn Như. Lại nữa, căn cứ vào thuyết Cửu Vô Vi (九無爲, 9 loại Vô Vi) do Hóa Địa Bộ (s: Mahīśāsaka, 化地部) trong Dị Bộ Tông Luân Luận (異部宗輪論), có Thiện Pháp Chơn Như (善法眞如), Bất Thiện Pháp Chơn Như (不善法眞如), Vô Ký Pháp Chơn Như (無記法眞如), Đạo Chi Chơn Như (道支眞如), Duyên Khởi Chơn Như (緣起眞如), v.v. Theo chủ trương của Phật Giáo Đại Thừa, bản tánh của tất cả tồn tại như người và pháp đều vô ngã, vượt qua các tướng sai biệt vốn có; nên gọi là Chơn Như. Tỷ dụ sự tự tại của Pháp Thân Như Lai là Chơn Như. Theo Phật Địa Kinh Luận (佛地經論) quyển 7, Chơn Như là thật tánh của tất cả vạn tượng; tướng của nó tuy có nhiều loại khác nhau, nhưng thể của nó cùng một vị, cùng với các pháp không một cũng không khác, vượt ra ngoài những phạm trù của ngôn ngữ, tư duy. Từ quan điểm xa lìa những sai khác, hư ngụy, Chơn Như, nó được gọi là Giả Danh Chơn Như (假名眞如). Hay nếu là nơi nương tựa của tất cả các điều thiện, nó có tên là Pháp Giới. Nếu là chỗ sở ngộ của trí vô phân biệt, nó có tên là Thắng Nghĩa (勝義). Về các tên gọi khác nhau của Chơn Như, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經) quyển 360, có nêu 12 từ như Chơn Như, Pháp Tánh, Bất Hư Vọng Tánh (不虛妄性), Bình Đẳng Tánh (平等性), Ly Sanh Tánh (離生性), Pháp Định (法定), Pháp Trú (法住), Thật Tế, Hư Không Giới (虛空界) và Bất Tư Nghì Giới. Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (阿毘達磨雜集論) quyển 2 có liệt ra 6 từ như Chơn Như, Không Tánh (空性), Vô Tướng (無相), Thật Tế, Thắng Nghĩa, Pháp Giới. Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義) quyển 8 cũng nêu lên 14 từ khác nhau như Thật Tướng, Diệu Hữu (妙有), Chơn Thiện Diệu Sắc (眞善妙色), Thật Tế, Tất Cánh Không (畢竟空), Như Như, Niết Bàn (涅槃), Hư Không (虛空), Phật Tánh, Như Lai Tạng (如來藏), Trung Thật Lý Tâm (中實理心), Phi Hữu Phi Vô Trung Đạo (非有非無中道), Đệ Nhất Nghĩa Đế (第一義諦), Vi Diệu Tịch Diệt (微妙寂滅). Theo Thành Duy Thức Luận (成唯識論) quyển 10, Pháp Tướng Tông lập ra 10 loại Chơn Như khác nhau, tùy theo cấp độ giác ngộ sâu cạn của vị Bồ Tát, gồm: Biến Hành Chơn Như (變行眞如), Tối Thắng Chơn Như (最勝眞如), Thắng Lưu Chơn Như (勝流眞如), Vô Nhiếp Thọ Chơn Như (無攝受眞如), Loại Vô Biệt Chơn Như (類無別眞如), Vô Nhiễm Tịnh Chơn Như (無染淨眞如), Pháp Vô Biệt Chơn Như (法無別眞如), Bất Tăng Giảm Chơn Như (不增減眞如), Trí Tự Tại Sở Y Chơn Như (智自在所依眞如) và Nghiệp Tự Tại Đẳng Sở Y Chơn Như (業自在等所依眞如). Còn Địa Luân Tông thì chủ trương tự thể của A Lại Da Thức (s: ālaya-vijñāna, 阿賴耶識) thứ 8 là Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm (自性清淨心) và đó là Chơn Như. Thức này do bị Vô Minh huân tập, nên xuất hiện các hiện tượng ô nhiễm, thanh tịnh, v.v. Hoa Nghiêm Tông lại chủ trương “bản thể là hiện tượng”, có nghĩa rằng Chơn Như vốn là vạn pháp và vạn pháp cũng là Chơn Như. Cho nên, tông này nêu ra 2 loại Chơn Như: Nhất Thừa Chơn Như (一乘眞如, gồm Biệt Giáo Chơn Như [別敎眞如] và Đồng Giáo Chơn Như [同敎眞如]) và Tam Thừa Chơn Như (三乘眞如, gồm Đốn Giáo Chơn Như [頓敎眞如] và Tiệm Giáo Chơn Như [漸敎眞如]). Trong khi đó, Thiên Thai Tông thì dựa trên thuyết Tánh Cụ (性具, tánh có đầy đủ các pháp) mà cho rằng bản thân Chơn Như xưa nay vốn đầy đủ các pháp ô nhiễm, thanh tịnh, thiện ác, v.v. Từ đó, tự tánh thanh tịnh của chư Phật được gọi là Vô Cấu Chơn Như (無垢眞如), hay Xuất Triền Chơn Như (出纒眞如); còn thể tánh của chúng sanh bị phiền não làm cho cấu nhiễm, nên gọi là Hữu Cấu Chơn Như (有垢眞如), hoặc Tại Triền Chơn Như (在纒眞如); cả có tên là Lưỡng Cấu Chơn Như (兩垢眞如). Tổ Giác Tiên (覺先, 1880-1936), người khai sáng An Nam Phật Học Hội (安南佛學會) ở miền Trung và cũng là vị tổ khai sơn Chùa Trúc Lâm tại Huế, có làm bài thơ rằng: “Phù sanh ký thác chơn như mộng, đáo xứ năng an tiện thị gia (浮生寄托眞如夢、到處能安便是家, phù sanh tạm gởi chơn như mộng, đến chốn khéo an ấy là nhà).”
(彤史): có hai nghĩa chính. (1) Tên của một nữ quan trong cung thời cổ đại, chuyên trách ghi chép mọi chuyện trong hậu cung của đế vương. Như trong Tân Đường Thư (新唐書), phần Bách Quan Chí (百官志) 2, có câu: “Đồng Sử nhị nhân, Chánh Lục Phẩm (彤史二人、正六品, Đồng Sử hai người, chức quan Chánh Lục Phẩm).” Trong tác phẩm Thắng Triều Đồng Sử Thập Di Ký (勝朝彤史拾遺記) của Mao Kỳ Linh (毛奇齡, 1623-1716) nhà Thanh giải thích về chức quan này rằng: “Đồng Sử giả, hậu cung nữ quan danh dã; kỳ chế, tuyển lương gia nữ tử chi tri thư giả sung chi, sử chi ký cung vi khởi cư cập nội đình yến tiết chi sự, dụng thị khuyến giới (彤史者、後宮女官名也、其制、選良家女子之知書者充之、使之記宮闈起居及內庭燕褻之事、用示勸戒, Đồng Sử là tên vị nữ quan ở hậu cung; theo quy chế, vị này tuyển chọn người nữ của gia đình tốt lành rồi bảo người chuyên trách sổ sách sung vào, khiến người này ghi chép những sinh hoạt hằng ngày trong cung nội cũng như chuyện xảy ra ở nội đình, dùng để khuyên răn và cảnh giới).” (2) Chỉ cho cung sử, sử thư chuyên ghi chép về những sinh hoạt thường nhật trong nội cung. Như trong bài thơ Chương Hoài Thái Tử Tĩnh Phi Vãn Từ (章懷太子靖妃輓詞) của Thẩm Thuyên Kỳ (沉佺期, khoảng 656-714/715) nhà Đường có câu: “Đồng sử giai thanh tải, thanh cung ý phạm lưu (彤史佳聲載、青宮懿範留, Đồng sử tiếng thơm còn ghi mãi, thanh cung quy phạm vẫn lưu truyền).”
(香廚[厨]): từ mỹ xưng của Nhà Bếp (Nhà Trù) trong các tự viện Phật Giáo, cũng là từ gọi tắt của Hương Tích Trù (香積廚, Bếp Hương Tích). Từ “hương (香)” ở đây vốn phát xuất từ điển cứ “hương phạn (香飯)” trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475) quyển Hạ, Phẩm Hương Tích Phật (香積佛品) thứ 10: “Ư thị Hương Tích Như Lai dĩ chúng hương bát thạnh mãn hương phạn, dữ hóa Bồ Tát (於是香積如來以眾香缽盛滿香飯、與化菩薩, lúc bấy giờ Hương Tích Như Lai lấy các bình bát hương thơm bỏ đầy thức ăn thơm, đưa cho các Bồ Tát hóa hiện).” Như trong bài thơ Xã Tập Thiên Giới Tuần Công Phòng (社集天界循公房) của Cố Mộng Du (顧夢游, 1599-1660) nhà Thanh có câu: “Trượng tiền tằng bất hệ, tùy ý khất Hương Trù (杖錢曾不繫、隨意乞香廚, bạc tiền chưa từng buộc, tùy ý xin cơm chùa).” Trong Tông Giám Pháp Lâm (宗鑑法林, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 66, No. 1297) quyển 48 có đoạn: “Dạ minh liêm ngoại thiên phong tú, loan kính đài tiền vạn tượng thù, tảo túng diệt tích, bất lập tri thù, thùy vi Phật Điện, thùy thị Hương Trù (夜明簾外千峰秀、鸞鏡臺前萬象殊、掃蹤滅跡、不立錙銖、誰爲佛殿、誰是香廚, đêm sáng ngoài rèm ngàn núi đẹp, kính soi trước đài muôn cảnh sai, quét tung xóa tích, chẳng cần tiền bạc, ai là Điện Phật, ai là Bếp Chùa).”
(經典): tức giáo pháp do đức Phật tuyên thuyết, về sau tôn giả A Nan (s, p: Ānanda, 阿難) và chư tôn đức khác kết tập giáo pháp ấy. Ban đầu thì dùng văn chương truyền khẩu, sau đó ghi lại bằng văn chương; phàm văn cú, thư tịch đều gọi là kinh điển. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 1, Phẩm Tựa (序品), có đoạn rằng: “Thánh chúa sư tử, diễn thuyết kinh điển, vi diệu đệ nhất (聖主師子、演說經典、微妙第一, sư tử chúa các bậc Thánh, diễn thuyết kinh điển, vi diệu số một).” Hay trong bài văn Tô Châu Trùng Huyền Tự Pháp Hoa Viện Thạch Bích Kinh Bi (蘇州重玄寺法華院石壁經碑) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường cũng có đoạn: “Phật Niết Bàn hậu, thế giới hư không, duy thị kinh điển, dữ chúng nhân câu (佛涅槃後、世界空虛、惟是經典、與眾生俱, sau khi Phật nhập Niết Bàn, thế giới [trống rỗng như] hư không, chỉ có kinh điển, cùng mọi người tồn tại).” Hoặc như trong Hoa Nghiêm Đạo Tràng Khởi Chỉ Đại Lược (華嚴道塲起止大略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1474), phần Tùy Châu Đại Hồng Sơn Toại Thiền Sư Lễ Hoa Nghiêm Kinh Văn (隨州大洪山遂禪師禮華嚴經文), lại có đoạn: “Nhãn trung thường kiến như thị kinh điển, nhĩ trung thường văn như thị kinh điển, khẩu trung thường tụng như thị kinh điển, thủ trung thường thư như thị kinh điển, tâm trung thường ngộ như thị kinh điển, nguyện sanh sanh thế thế, tại tại xứ xứ, thường đắc thân cận Hoa Tạng nhất thiết thánh hiền (眼中常見如是經典、耳中常聞如是經典、口中常誦如是經典、手中常書如是經典、心中常悟如是經典、願生生世世、在在處處、常得親近華藏一切聖賢, trong mắt thường thấy kinh điển như vậy, trong tai thương nghe kinh điển như vậy, trong miệng thường tụng kinh điển như vậy, trong tay thường chép kinh điển như vậy, trong tâm thường ngộ kinh điển như vậy, nguyện đời đời kiếp kiếp, nơi nơi chốn chốn, thường được gần gủi hết thảy thánh hiền của thế giới Hoa Tạng).” Hòa Thượng Phước Hậu (1862-1949), từng là Tăng Cang và Trú Trì Chùa Báo Quốc-Huế, có để lại bài thơ rất thâm thúy rằng: “Kinh điển lưu truyền tám vạn tư, học hành không thiếu cũng không dư, đến nay tính lại đà quên hết, chỉ nhớ trên đầu một chữ Như.”
(六供): Theo Đinh Phúc Bảo Phật Học Đại Từ Điển (丁福保佛學大詞典), căn cứ vào Tăng Đường Thanh Quy (僧堂清規) 3 do Diện Sơn Thụy Phương (面山瑞方, Menzan Zuihō, 1683-1769), tăng sĩ Tào Động Tông của Nhật Bản soạn, Lục Cúng là 6 phẩm vật dâng cúng lên chư Phật của Thiền lâm; gồm (1) hoa (華), (2) hương lô (香爐, lò hương), (3) chúc (燭, đèn nến), (4) thang (湯, nước nóng), (5) quả (果) và (6) trà (茶). Đối với Mật Tông, Lục Cúng cũng là pháp tu cúng dường căn bản, gồm (1) hoa (花), (2) linh (鈴), (3) thiêu hương (燒香, hương đốt), (4) phạn thực (飯食, thức ăn), (5) đồ hương (塗香, hương xoa), và (6) đăng minh (燈明, đèn). Sáu vật cúng này tượng trưng cho Sáu Trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp. Sáu vật này còn biểu tượng cho Lục Độ (s: ṣaḍ-pāramitā, ṣaṭ-pāramitā, 六度), tức Lục Độ Ba La Mật (六度波羅蜜), gồm Bố Thí Ba La Mật (s, p: dāna-pāramitā, 布施波羅蜜), Trì Giới Ba La Mật (s: śīla-pāramitā, p: sīla-pāramitā, 持戒波羅蜜), Nhẫn Nhục Ba La Mật (s: kṣānti-pāramitā, p: khantī-pāramitā, 忍辱波羅蜜), Tinh Tấn Ba La Mật (s: vīrya-pāramitā, p: virya-pāramitā, 精進波羅蜜), Thiền Định Ba La Mật (s: dhyāna-pāramitā, p: jhāna-pāramitā, 禪定波羅蜜) và Trí Tuệ Ba La Mật (s: prajñā-pāramitā, p: paññā-pāramitā, 智慧波羅蜜). Theo bài tán “Nhân duyên tự tánh sở xuất sanh, sở hữu chủng chủng vi diệu, hoa hương đăng đồ quả nhạc, phụng hiến Thượng Sư Tam Bảo tôn, duy nguyện từ bi ai nạp thọ (因緣自性所出生、所有種種微妙、華香燈塗果樂、上獻上師三寶尊、惟願慈悲納受, nhân duyên tự tánh vốn sanh ra, vốn có các thứ mầu nhiệm, hoa hương đèn dầu quả nhạc, dâng cúng Thượng Sư Tam Bảo trên, cúi xin từ bi thương thọ nhận)” vốn thường được dùng trong các buổi lễ Cúng Ngọ hay trong đàn Lục Cúng Hoa Đăng (六供華燈), được tìm thấy trong Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080), Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Hạ, Du Già Diệm Khẩu Chú Tập Toản Yếu Nghi Quỹ (瑜伽燄口註集纂要儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1084) quyển Hạ, v.v.; Lục Cúng ở đây là hoa, hương, đèn, dầu, quả và âm nhạc. Như vậy, cho dầu định nghĩa về Lục Cúng có khác nhau đi chăng nữa, một số vật dâng cúng quan trọng không thể thiếu được như hoa quả, thức ăn, nước uống, đèn, hương, v.v. Như Mật Giáo giải thích về ý nghĩa và tầm quan trọng của 5 loại vật dâng cúng như sau:
(1) Hoa là tâm của chư Phật; khi hoa khai mở thì tượng trưng cho vạn đức mật vận (萬德密運, muôn đức âm thầm chuyển vận), là công đức viên mãn của chư Phật. Lấy hoa dâng cúng chư Phật tức là làm cho trang nghiêm tâm của chính mình.
(2) Hương là một loại thể giới tánh. Dùng hương dâng cúng các đấng Như Lai có nghĩa là trang nghiêm Giới Thể (戒體) của chính mình. Sự trang nghiêm của ngoại tướng kết hợp với sự trang nghiêm của nội tướng, hợp nhất thành trang nghiêm Năm Phần Pháp Thân.
(3) Đèn là ánh sáng chiếu soi của chư Phật, tức chính là trí tuệ nội tâm. Lấy hết thảy ánh sáng mà dâng cúng lên các đấng Như Lai thì sẽ được ánh sáng chiếu rọi khắp, ánh sáng cùng giao nhau, chiếu tận đến bờ bên kia của trí tuệ và hiển hiện công đức trang nghiêm của trí tuệ nội tâm.
(4) Trà bản nguyên là loại nước thanh tịnh, biểu thị cho Pháp Tánh (法性). Lấy trà dâng cúng Phật, tức là mười phương các đức Như Lai ứng hóa vào thân ta, dùng loại “nước thanh tịnh của Pháp Tánh” để trước rửa sạch khí bất tịnh của tự thân, biến thành Pháp Tánh Thân (法性身), Vô Cấu Thân (無垢身, thân không dơ bẩn) và trở thành trang nghiêm Pháp Tánh.
(5) Quả tượng trưng cho thức ăn, lấy sự viên mãn to lớn của thức ăn vi diệu biểu thị cho một loại viên thành. Loại Thiền ý có vị thù thắng như vậy, có nghĩa lý vô cùng thâm sâu; cho nên dâng cúng thức ăn và quy y chư Phật thì sẽ có được thiện quả, tượng trưng cho sự viên thành pháp vị. Đó là một loại “quả công đức trang nghiêm nội tâm.”
Trong Niệm Tụng Kết Hộ Pháp Phổ Thông Chư Bộ (念誦結護法普通諸部, Taishō Vol. 18, No. 904) có nêu một số câu thần chú khi dâng cúng các phẩm vật. Như Chơn Ngôn dùng cho hương đốt là: “Án bạt chiết la đỗ bệ a (唵跋折羅杜鞞阿).” Chơn Ngôn dùng cho rãi hoa là: “Án bạt chiết la bổ sắt bệ án (唵跋折羅補瑟鞞唵).” Chơn Ngôn dâng cúng đèn là: “Án bạt chiết la lô kế nễ (唵跋折羅盧計你).” Chơn Ngôn cho hương xoa là: “Án bạt chiết la kiền đề già (唵跋折羅犍提伽).” Trong Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Uy Nỗ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm Cúng Dường Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp Phẩm (聖賀野紇哩縛大威怒王立成大神驗供養念誦儀軌法品, Taishō Vol. 20, No. 1072A) có đoạn rằng: “Mỗi nhật thủ chủng chủng thời hoa tán đàn thượng, thiêu hương đồ hương đăng minh ẩm thực cập quả tử, gia trì phân bố tứ biên cúng dường, tùy lực sở biện trần thiết trang nghiêm, mỗi nhập đạo tràng kiền thành tác lễ, phát lộ sám hối tùy hỷ khuyến thỉnh hồi hướng phát nguyện (每日取種種時花散壇上、燒香塗香燈明飲食及果子、加持分布四邊供養、隨力所辦陳設莊嚴、每入道塲虔誠作禮、發露懺悔隨喜勸請迴向發願, mỗi ngày lấy các thứ hoa hiện thời rãi trên đàn, hương đốt, hương xoa, đèn sáng, thức ăn uống và bánh kẹo, gia trì phân chia bốn phía cúng dường, tùy sức bày biện, thiết trí trang nghiêm, mỗi khi vào đạo tràng thì chí thành đảnh lễ, phát lộ sám hối, tùy hỷ cung thỉnh, hồi hướng và phát nguyện).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Đại Trai Phổ Lợi Đạo Tràng Tánh Tướng Thông Luận (法界聖凡水陸大齋普利道塲性相通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1498) quyển 4 có nêu rõ 6 loại điệp cho Lục Cúng là: “Lục cúng điệp, hương nhất, hoa nhất, quả nhất, đồ nhất, tiểu thực nhất, pháp bảo nhất (六供牒、香一、華一、果一、塗一、小食一、法寶一, sáu loại điệp dâng cúng gồm hương một tờ, hoa một tờ, quả một tờ, đồ thoa một tờ, thức ăn một tờ, pháp bảo một tờ).” Trong Ư Mật Sấm Thí Thực Chỉ Khái (於密滲施食旨槩, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1082) lại có đoạn rằng: “Nhiên chư Phật tức ngã Hóa Thân, cố Quan Âm, phóng quang dĩ thỉnh chư Phật dã, Phật chí tắc thân Lục Cúng dĩ cúng dường chi, thử Phổ Hiền hạnh dã (然諸佛卽我化身、故觀音、放光以請諸佛也、佛至則伸六供以供養之、此普賢行也, như vậy chư Phật là Hóa Thân của ta, cho nên đức Quan Âm phóng hào quang để thỉnh chư Phật; khi Phật đến thì bày sáu món cúng mà cúng dường Ngài, đây là hạnh của đức Phổ Hiền).” Đàn Lục Cúng trong lòng văn Sớ nêu trên là Lục Cúng Hoa Đăng (六供華燈), một trong bộ ba của nghi thức Chạy Đàn: Lục Cúng, Khai Tịch và Bạt Độ (hay Chẩn Tế). Múa Lục Cúng Hoa Đăng là một điệu múa cổ xưa của Phật Giáo do các vị sư Ấn Độ truyền vào Việt Nam. Sau khi du nhập vào xứ Đàng Trong tại Thuận Hóa-Phú Xuân, được các vị Tổ sư trong chốn Thiền môn xứ Huế tiếp thu và phát triển lên đến đỉnh cao nghệ thuật, điệu múa Lục Cúng Hoa Đăng từ đó trở thành là một loại hình âm nhạc đặc thù của Phật Giáo xứ Huế. Điệu múa này được diễn múa theo sáu lần dâng cúng; tương ứng với mỗi lần cúng là một lễ vật cúng dường lên đức Phật gồm: hoa, hương, đèn, trà, quả, nhạc. Vì vậy môi trường diễn xướng của điệu múa này luôn được trình diễn trong những hoàn cảnh đặc biệt như lễ An Vị Phật, lễ Lạc Thành Chùa hay lễ hội, vía Phật. Hình thức này cũng được thể hiện với ý nghĩa nguyện cầu cho những người đã khuất giải thoát oan khiên trong các trai đàn Chẩn Tế, Giải Oan Bạt Độ, v.v. Do đó, điệu múa Lục Cúng Hoa Đăng tồn tại với thời gian theo sự phát triển của văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Đến thời vua Minh Mạng (1820-1840), Lục Cúng Hoa Đăng đã được tiếp thu và cải biên thành một loại hình âm nhạc cung đình, trở thành một điệu múa đặc sắc được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong quá trình tiến hành Lục Cúng Hoa Đăng, có một số bài tán theo các điệu tán cổ xưa trong kho tàng âm nhạc Phật Giáo như tán trạo, tán rơi, tán xấp và có cả Thài—một điệu tán rất cổ xưa—để dâng cúng trong nghi lễ cúng Phật cũng như chư Tổ, như bài Nhân Duyên ở trên, hay bài La Liệt (羅列) được đề cập trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Hạ: “La liệt hương hoa kiến bảo đàn, trùng trùng Phật cảnh nhất hào đoan, tâm dung diệu lí hư không tiểu, đạo khế chơn như pháp giới khoan, tướng hảo từ bi thu nguyệt mãn, hóa thân đằng xứ mộ vân phiền, hương yên đôi lí chiêm ứng hiện, vạn tượng sum la hải ấn hàm (羅列香花建寶壇、重重佛境一毫端、心融妙理虛空小、道契眞如法界寬、相好慈悲秋月滿、化身騰處暮雲繁、香煙堆裏瞻應現、萬象森羅海印含, la liệt hương hoa lập báu đàn, hàng hàng cảnh Phật sợi lông bằng, tâm thâu lí mầu hư không nhỏ, đạo hợp chơn như pháp giới tròn, tướng tốt từ bi trăng thu rọi, hóa thân khắp chốn mây chiều tan, trong làn mây khói chư Phật hiện, vạn pháp bao la biển trí hàm).” Hoặc bài Phật [Phù] Diện (佛面) được tìm thấy trong Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080), Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Thượng, Du Già Diệm Khẩu Chú Tập Toản Yếu Nghi Quỹ (瑜伽燄口註集纂要儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1084) quyển Thượng, v.v.: “Phật diện do như tịnh mãn nguyệt, diệc như thiên nhật phóng quang minh, viên quang phổ chiếu ư thập phương, hỷ xả từ bi giai cụ túc (佛面猶如淨滿月、亦如千日放光明、圓光普照於十方、喜捨慈悲皆具足, mặt Phật giống như trăng tròn lắng, cũng như ngàn trời tỏa hào quang, ánh sáng chiếu khắp cõi mười phương, hỷ xả từ bi thảy đầy đủ)”, v.v.
(s: vyasta, ekaika, pratikṣaṇam, 一一) [tạp]: mỗi một, từng. Kinh Thủ Lăng Nghiêm (首楞嚴經) có đoạn rằng: “Hiện nhất nhất hình tụng nhất nhất chú (現一一形、誦一一咒, hiện mỗi một hình, tụng mỗi một chú)”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ (觀無量壽經) có đoạn rằng: “Nhất nhất chỉ đoan hữu bát vạn tứ thiên họa do như ấn văn, nhất nhất họa hữu bát vạn tứ thiên sắc, nhất nhất sắc hữu bát vạn tứ thiên quang, kỳ quang nhu nhuyến thiện chiếu nhất thiết (一一指端有八萬四千畫由如印文、一一畫有八萬四千色、一一色有八萬四千光、其光柔輭善照一切, mỗi một đầu ngón tay có 84.000 bức tranh như hoa văn, mỗi một bức tranh có 84.000 sắc màu, mỗi một sắc màu có 84.000 ánh sáng, ánh sáng ấy mềm mại chiếu khắp tất cả)”. Phần Khai Đề của Kinh Phạm Võng (梵綱經) có đoạn rằng: “nhất nhất tự tự, nhất nhất cú cú, giai thị chư tôn pháp Mạn Đà La thân (一一字字、一一句句、皆是諸尊法曼陀羅身, Mỗi một chữ, mỗi một câu, đều là thân pháp Mạn Đà La của chư tôn)”.
(三毒): còn gọi là Tam Hỏa (三火), Tam Cấu (三垢), Tam Bất Thiện Căn (三不善根); ba độc, ba loại phiền não, gồm Tham Dục (貪欲), Sân Nhuế (瞋恚) và Ngu Si (愚癡); hay Tham, Sân, Si; Dâm (淫), Nộ (怒), Si (癡); Dục (欲), Sân (瞋), Vô Minh (無明). Hết thảy phiền não đều được gọi là độc; ba loại phiền não này thông nhiếp cả Ba Cõi, làm độc hại thiện tâm của chúng sanh; có thể khiến cho chúng hữu tình vĩnh kiếp chịu khổ, không thể nào lìa ra khỏi được. Ba Độc này là căn nguyên các việc làm ác của thân, miệng và ý. Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 34 phân ba độc thành Chánh Tam Độc (正三毒, tức Tham Dục, Sân Nhuế, Ngu Si) và Tà Tam Độc (邪三毒, tức Tà Tham Dục, Tà Sân Nhuế, Tà Kiến Ngu Si). Đối với Tà Tam Độc thì khó độ, Chánh Tam Độc thì dễ độ; cho nên cõi Tịnh Độ của chư Phật chỉ có Chánh Tam Độc mà thôi. Theo Đại Tạng Pháp Số (大藏法數) quyển 15, hàng Nhị Thừa, Bồ Tát đều có Ba Độc. Hàng Nhị Thừa vui mừng cầu Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) là tham dục, chán ghét xa lìa sanh tử là sân nhuế, mê ở trong Trung Đạo (s: madhyamā-pratipad, p: majjhima-paṭipadā, 中道) là ngu si. Hàng Bồ Tát muốn rộng cầu Phật pháp là tham dục, trách la hàng Nhị Thừa là sân nhuế, và chưa liễu đạt Phật tánh là ngu si. Như trong Đại Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) có đoạn giải thích về Ba Độc rằng: “Vô Minh chi tâm, tuy hữu bát vạn tứ thiên phiền não tình dục, cập hằng hà sa chúng ác, giai nhân Tam Độc, dĩ vi căn bổn; kỳ Tam Độc giả, Tham Sân Si thị dã; thử Tam Độc tâm, tự năng cụ túc nhất thiết chư ác, do như đại thọ, căn tuy thị nhất, sở sanh chi diệp kỳ số vô biên (無明之心、雖有八萬四千煩惱情欲、及恆河沙眾惡、皆因三毒、以爲根本、其三毒者、貪嗔癡是也、此三毒心、自能具足一切諸惡、猶如大樹、根雖是一、所生枝葉其數無邊, tâm Vô Minh, tuy có tám vạn bốn ngàn phiền não tình dục, và hằng hà sa số các điều ác, đều do Ba Độc, lấy làm căn bản; Ba Độc này chính là Tham Sân Si; tâm Ba Độc này, tự có thể đầy đủ hết thảy các điều ác, giống như cây lớn, gốc tuy là một, các cành lá của nó số lượng vô biên).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, CBETA No. 1277) quyển 12 có câu: “Thập Ác Ngũ Nghịch tất băng tiêu, Tam Độc Thất Tình câu tuyết hóa, Ngũ Lậu hóa vi vô lậu, Lục Căn biến tác thiện căn, trượng Nhất Thừa tiến điệu chi công, chỉ Cửu Phẩm vãng sanh chi lộ (十惡五逆悉冰消、三毒七情俱雪懺、五漏化爲無漏、六根變作善根、仗一乘薦悼之功、指九品徃生之路, Mười Ác Năm Nghịch thảy băng tiêu, Ba Độc Bảy Tình đều hóa giải, Năm Lậu hóa thành vô lậu, Sáu Căn biến nên thiện căn, nương Một Thừa dâng cúng công phu, chỉ Chín Phẩm vãng sanh về nẻo).”
(p: heṭṭhā pāda-talesu cakkāni jātāni, 千輻輪相): chỉ cho tướng tốt vi diệu có đầy đủ ngàn bánh xe dưới chân, thuộc một trong 32 tướng tốt, còn gọi là Túc Hạ Thiên Bức Luân Tướng (足下千輻輪相), Thường Hiện Thiên Bức Luân Tướng (常現千輻輪相), Song Túc Hạ Hiện Thiên Bức Luân Triển Chuyển Chúng Tướng (雙足下現千輻輪輾轉眾相). Tướng này chỉ cho các hoa văn dưới lòng bàn chân Phật có hình dáng cả ngàn bánh xe rõ ràng. Tướng này do nghiệp nhân mà cảm được, do thời quá khứ đức Phật đã từng cúng dường, bố thí các thứ cho cha mẹ, sư trưởng, bạn tốt cho đến hết thảy chúng sanh. Tướng này không những chỉ thấy hiện nơi chân Phật, mà còn có cả nơi hai bàn tay Ngài. Tướng ngàn bánh xe còn thể hiện cho sự chuyển bánh xe giáo pháp của ngài; nếu hiện dưới chân là thể hiện cho việc du hóa khắp mọi nơi để chuyển pháp luân; khi thuyết pháp thì tướng này hiện ra nơi lòng bàn tay. Tướng này có thể hàng phục được oán địch, ác ma, thể hiện công đức chiếu phá vô minh và ngu si. Khi nói chân có nghĩa là cả tay chân, nên gọi là tướng tay chân có vòng tròn (s: cakrāṅkita-hasta-pāda-tala). Từ ngàn xưa đã có truyền thống lễ bái dưới lòng bàn chân Phật rồi. Trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 9, phần Xuất Thai Bộ (出胎部) có câu: “Thân biên tắc quang sắc nhất trượng, mi gian tắc bạch hào ngũ xích, khai Vạn tự ư hung tiền, nhiếp thiên luân ư túc hạ (身邊則光色一丈、眉间则白毫五尺。眉間則白毫五尺、开万字于胸前。開萬字於胸前、蹑千轮于足下。躡千輪於足下, bên thân sắc ánh sáng một trượng, giữa lông mi có lông mày trắng năm tấc, mở chữ Vạn nơi trước ngực, hiện ngàn bánh xe ở dưới chân).” Hay trong Đại Bát Niết Bàn Kinh Hậu Phần (大般涅槃經後分, Taishō No. 377) quyển hạ có đoạn: “Thế Tôn đại bi tức hiện nhị túc thiên bức luân tướng, xuất ư quan ngoại hồi thị Ca Diếp, tùng thiên bức luân phóng thiên quang minh, biến chiếu thập phương nhất thiết thế giới (世尊大悲卽現二足千輻輪相、出於棺外迴示迦葉、從千輻輪放千光明、遍照十方一切世界, Thế Tôn có lòng thương xót lớn, tức hiện tướng hai bàn chân có ngàn bánh xe, ra bên ngoài quan tài cho Ca Diếp biết rõ, từ ngàn bánh xe ấy phong ra ngàn ánh sáng, chiếu khắp mười phương hết thảy các thế giới).” Hoặc như trong Biệt Thích Tạp A Hàm Kinh (別譯雜阿含經, Taishō No. 100) quyển 13 cũng có đoạn rằng: “Thời hữu nhất Bà La Môn tánh viết Yên thị, tại Phật hậu lai, kiến Phật tích trung thiên bức luân tướng quái vị tằng hữu, tức tự tư duy, ngã vị kiến nhân hữu như thọ tích (時有一婆羅門姓曰煙氏、在佛後來、見佛跡中千輻輪相怪未曾有、卽自思惟、我未見人有如是跡, lúc bấy giờ có một Bà La Môn họ Yên, từ phía sau Phật đến, thấy trong dấu chân Phật có hình tướng ngàn bánh xe, lấy làm lạ chưa từng có, bèn tự suy nghĩ rằng ta chưa hề thấy người nào có dấu chân như vậy).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập