Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vương An Thạch »»
(歐陽脩[修], 1007, 1072): chính trị gia, nhà văn học dưới thời Bắc Tống, xuất thân Lô Lăng (廬陵, Tỉnh Giang Tây), tự là Vĩnh Thúc (永叔), hiệu Túy Ông (酔翁), sau đổi thành Lục Nhất Cư Sĩ (六一居士), bút hiệu là Văn Trung (文忠). Dưới thời vua Nhân Tông, ông làm Tham Tri Chính Sự (參知政事), sau đó phản đối Vương An Thạch (王安石) nên từ chức. Ông có biệt tài về thơ văn, được xếp hạng một trong 8 nhân vật nổi tiếng thời Đường Tống. Trước tác của ông có rất nhiều như Tân Đường Thư (新唐書), Tân Ngũ Đại Sử (新五代史), Lục Nhất Thi Thoại (六一詩話), v.v.
(學士): có mấy nghĩa. (1) Chỉ chung cho những người đọc sách bình thường. Như trong Bão Phác Tử (抱樸子), Phần Sùng Giáo (崇敎), của Cát Hồng (葛洪, 284-363) nhà Tấn, có câu: “Tỉnh văn chương ký bất hiểu, đỗ học sĩ như thảo giới (省文章旣不曉、睹學士如草芥, xét văn chương đã không hiểu, xem người đọc sách như cỏ rác).” (2) Giống như học giả. Như trong tác phẩm Thiếu Thất Sơn Phòng Bút Tùng (少室山房筆叢), phần Hoa Dương Bác Nghị Hạ (華陽博議下), của Hồ Ứng Lân (胡應麟, 1551-1602) nhà Minh, có đoạn: “Giới Phủ, Nguyên Hối tự thị học sĩ, bất đắc dĩ sở trường một chi (介甫、元晦自是學士、不得以所長沒之, Giới Phủ [tức Vương An Thạch, 1021-1086], Nguyên Hối [tức Chu Hy, 1130-1200] tự là học giả, không được để cho sở trường mất đi).” (3) Tên một chức quan. Từ thời Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589) trở về sau, Học Sĩ được xem như là chức quan chuyên trách về soạn thuật văn học. Dưới thời nhà Đường (唐, 618-907), chức này được gọi là Hàn Lâm Học Sĩ (翰林學士), vì tiếp cận với Hoàng Đế, nên thỉnh thoảng có tham dự việc triều chính. Đến thời nhà Tống (宋, 960-1279), chức quan này được thiết định rõ ràng, chức quyền và địa vị cũng tương đồng với thời nhà Đường. Sang thời nhà Minh (明, 1368-1662) thì cho thiết lập các chức như Hàn Lâm Viện Học Sĩ (翰林院學士), Hàn Lâm Viện Thị Độc (翰林院侍讀), Thị Giảng Học Sĩ (侍講學士). Đến thời nhà Thanh (清, 1616-1911) thì đổi Hàn Lâm Viện Học Sĩ thành Chưởng Viện Học Sĩ (掌院學士). Trong Lịch Đại Tam Bảo Ký (歷代三寶紀, Taishō Vol. 49, No. 2034) quyển 1 có đoạn: “Khai Hoàng thập thất niên Phiên Kinh Học Sĩ thần Phí Trường Phòng (開皇十七年翻經學士臣費長房, năm Khai Hoàng 17 [597], thần Phí Trường Phòng, Học Sĩ Phiên Dịch Kinh Điển).” (4) Tên một loại học vị.
(蕙帳): phòng thất tràn đầy mùi hương nhè nhẹ của hoa Lan và Huệ. Huệ trướng còn là tên gọi khác rất hoa mỹ về bức màn the. Trong bài Bắc Sơn Di Văn (北山移文) của Khổng Nhã Khuê (孔稚珪, 447-501) nhà Tề, thời Nam Triều có câu: “Huệ trướng không hề dạ hộc oán, sơn nhân khứ hề hiểu viên kinh (蕙帳空兮夜鵠怨、山人去兮曉猨驚, màn the trống chừ đêm ngỗng oán, người núi đi chừ sáng vượn buồn).” Hay trong bài thơ Đề Định Lâm Bích Hoài Lý Thúc Thời (題定林壁懷李叔時) của Vương An Thạch (王安石, 1021-1086) nhà Tống lại có câu: “Liệu lô vô phục hỏa, huệ trướng lãnh không sơn (燎爐無伏火、蕙帳冷空山, đốt lò không chút lửa, màn the lạnh núi hoang).” Hoặc trong Thanh Vận Khải Mông (聲韻啟蒙) quyển 1 có đoạn rằng: “Lâu đối các, hộ đối song, cự hải đối trường giang, dung thường đối huệ trướng, ngọc giả đối ngân công (樓對閣、戶對窗、巨海對長江、蓉裳對蕙帳、玉斝對銀釭, lầu đối với gác, cửa lớn đối với cửa sổ, biển lớn đối với sông dài, áo đẹp đối với màn thơm, chén ngọc đối với bầu đồng).”
(坤儀): có ba nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho đại địa. Như trong bài thơ Đáp Lô Kham (答盧諶) của Lưu Côn (劉琨, 270-317) nhà Tấn có câu: “Càn tượng đống khuynh, khôn nghi chu phú (乾象棟傾、坤儀舟覆, trời cao mái nghiêng, đất cả thuyền che).” Hay trong Cựu Đường Thư (舊唐書), phần Âm Nhạc Chí (音樂志) 3 lại có câu: “Đại hỉ khôn nghi, chí tai Thần Huyện (大矣坤儀、至哉神縣, lớn thay đại địa, to thay Thần Huyện [Trung Hoa]).” (2) Nhà tướng số lấy Ngũ Nhạc (五嶽, tức 5 ngọn núi lớn, gồm Đông Nhạc Thái Sơn [東嶽泰山] ở Thái An [泰安], Sơn Đông [山東]; nam nhạc hành sơn [南嶽衡山] ở Hành Sơn [衡山], Hồ Nam [湖南]; Tây Nhạc Hoa Sơn [西嶽華山] ở Hoa Âm [華陰], Thiểm Tây [陝西]; Bắc Nhạc Hằng Sơn [北嶽恆山] ở Đại Đồng [大同], Sơn Tây [山西]; và Trung Nhạc Tung Sơn [中嶽嵩山] ở Đăng Phong [登封], Hà Nam [河南]), Tứ Độc (四瀆, tức 4 con sông lớn, gồm Trường Giang [長江], Hoàng Hà [黃河], Hoài Hà [淮河] và Tế Thủy [濟水]) trên mặt đất tỷ dụ cho 5 giác quan và các bộ phận trên khuôn mặt con người; cho nên gọi dung mạo, bề ngoài của con người là khôn nghi. (3) Cũng như mẫu nghi thiên hạ, phần lớn được dùng để xưng tụng hoàng hậu, được xem như là tiêu biểu, mực thước cho người mẹ của thiên hạ. Như trong bài Úy Thái Hậu Biểu (慰太后表) của Vương An Thạch (王安石, 1021-1086) nhà Tống có câu: “Phương chánh khôn nghi chi vị, thượng đồng càn thí chi nhân (方正坤儀之位、上同乾施之仁, mới đúng mẫu nghi cương vị, trên giống trời ban lòng nhân).”
(廬山): ngọn đại hùng phong nổi tiếng nằm ở phía bắc Tỉnh Giang Tây (江西省), Trung Quốc; là chốn danh lam thắng cảnh đã được hàng ngàn bậc văn đàn cự tượng đến tham quan như Tư Mã Thiên (司馬遷), Đào Uyên Minh (陶淵明), Lý Bạch (李白), Bạch Cư Dị (白居易), Tô Thức (蘇軾), Vương An Thạch (王安石), Hoàng Đình Kiên (黃庭堅), Lục Du (陸游), Chu Hy (朱熹), Khang Hữu Vi (康有為), Hồ Thích (胡適), Quách Mạt Nhược (郭沫若), v.v.
(內治): có mấy nghĩa. (1) Xưa kia chỉ cho việc tiến hành giáo dục đối với phụ nữ. (2) Chính trị trong nước. Như trong Quản Tử (管子), phần Bát Quán (八觀), có đoạn: “Hào kiệt thôn nhân, bất vụ kiệt năng, tắc nội trị bất biệt hỉ (豪桀材人、不務竭能、則內治不別矣, người hào kiệt trong thôn, không siêng năng tận hết năng lực, thì chính trị trong nước chẳng gì khác lạ cả).” (3) Chỉ việc nhà. Như trong bài Tiên Du Huyện Thái Quân La Thị Mộ Chí Minh (仙游縣太君羅氏墓志銘) của Vương An Thạch (王安石, 1021-1086) nhà Tống có câu: “Kinh kỷ nội trị, năng cần bất giải (經紀內治、能勤不懈, chăm lo việc nhà, siêng năng không biếng).” (4) Tu thân, hứa hẹn sửa đổi tự thân. Như trong Liệt Nữ Truyện (列女傳), phần Hữu Ngu Nhị Phi (有虞二妃), của Lưu Hướng (劉向, 77-6 ttl.) nhà Hán có đoạn: “Mẫu tằng Thuấn nhi ái Tượng, Thuấn do nội trị, mĩ hữu gian ý (母憎舜而愛象、舜猶內治、靡有姦意, mẹ ghét Thuấn mà thương Tượng, Thuấn còn biết tu thân, không có ý gian xảo).”
(帖): một loại danh thiếp dùng để đáp lễ qua lại trong ứng xử hằng ngày, như Thỉnh Thiếp (請帖, thiệp mời), Tạ Thiếp (謝帖, thiệp cám ơn), v.v. Có một số loại Thiếp thông dụng như: (1) Báo Thiếp (報帖), là loại thiệp dùng để thông báo; như trong Kinh Bản Thông Tục Tiểu Thuyết (京本通俗小說), phần Bồ Tát Man (菩薩蠻) có câu: “Kính đáo Tây Sơn Linh Ẩn Tự, tiên hữu báo thiếp báo tri, Trưởng Lão dẫn chúng tăng minh chung lụy cổ, tiếp Quận Vương thượng điện thiêu hương (逕到西山靈隱寺、先有報帖報知、長老引眾僧鳴鐘擂鼓、接郡王上殿燒香, đến thẳng Tây Sơn Linh Ẩn Tự, có thiệp thông báo trước, nên Trưởng Lão dẫn chúng tăng đánh chuông gióng trống, tiếp đón Quận Vương lên Chánh Điện dâng hương).” (2) Thỉnh Thiếp (請帖), thiệp dùng để cung thỉnh hay mời ai đó đến tham dự buổi lễ hay yến tiệc, v.v. (3) Tạ Thiếp (謝帖), thiệp bày tỏ sự tri ân sau khi đã hoàn thành xong một việc nào đó. (4) Bát Tự Thiếp (八字帖), xưa kia khi bàn chuyện hôn nhân, cả hai nhà gái và trai đều dùng tấm thiệp viết 8 chữ ngày giờ sinh, trao đổi qua lại để xem thử có xung khắc thế nào không; còn gọi là Bát Tự Toàn Thiếp (八字全帖), Canh Thiếp (庚帖). (5) Bái Thiếp (拜帖), thời xưa, đây là một tấm thiếp dùng thông báo đến thăm ai đó. Như trong tác phẩm Nghi Diệu (疑耀) quyển 4 của Trương Huyên (張萱) nhà Minh, phần Bái Thiếp Bất Cổ (拜帖不古) có giải thích rằng: “Cổ nhân thư khải vãng lai, cập tánh danh tương thông, giai dĩ mộc trúc vi chi, sở vị thứ dã; chí Tống thời, Vương Kinh Công cư Bán Sơn Tự, mỗi dĩ kim tất mộc bản tả kinh thư danh mục, vãng tự tăng xứ tá kinh; thời nhân toại dĩ kim tất bản đại thư thiếp, dĩ nhi khủng hữu tuyên tiết, hựu tác lưỡng bản tương hợp, dĩ phiến chỉ phong kỳ tế; cửu chi, kỳ chế tiệm tinh; kim chi Bái Thiếp dụng chỉ, cái khởi vu Hy Ninh dã (古人書啟往來、及姓名相通、皆以木竹為之、所謂刺也、至宋時、王荊公居半山寺、每以金漆木版寫經書名目、往寺僧處借經、時人遂以金漆版代書帖、已而恐有宣洩、又作兩版相合、以片紙封其際、久之、其製漸精…今之拜帖用紙、蓋起于熙寧也, người xưa thư từ qua lại, đến nỗi tên họ biết rõ nhau, đều lấy thẻ tre để viết vào, gọi là thứ; cho đến thời nhà Tống, Vương Kinh Công [tức Vương An Thạch, 1021-1086] từng sống ở Bán Sơn Tự, cứ mỗi lần lấy bản gỗ bằng sơn mạ vàng chép danh mục kinh, đều qua chỗ chư tăng ở để mượn kinh; do đó người đương thời bèn lấy bản gỗ sơn mạ vàng thay thế để viết thiệp, xong rồi sợ bị truyền lan ra, lại làm thành hai bản giống nhau, lấy giấy phong kín ở đầu bìa; trãi qua thời gian lâu, sự chế tạo dần dần tinh xảo …, loại giấy dùng cho Bái Thiếp ngày nay, vốn xuất phát từ thời Hy Ninh [1068-1077]).” (6) Báo Tang Thiếp (報喪帖) là tấm thiệp dùng trong tang lễ ngày xưa để thông báo cho bà con, thân hữu biết có người đã từ trần; khác với bản Cáo Phó. (7) Bảng Thiếp (榜帖, 牓帖) là tấm cáo thị để chiêu dụ bá tánh, hay là bảng niêm yết danh tánh của các thí sinh thi đỗ. Như trong bài Từ Tương Châu Bi (徐襄州碑) của Lý Chất (李騭) nhà Đường có câu: “Tê Bảng Thiếp tiên chí Giang Tây, an tồn bá tánh (齎榜帖先至江西、安存百姓, trước hết mang tấm Bảng Thiếp đến Giang Tây để làm yên lòng bá tánh).” Trong Công Văn Đàn Tràng, một số Thiếp được dùng như Tịnh Trù Thiếp (淨廚帖), Cấp Thủy Thiếp (汲水帖), Tứ Sanh Lục Đạo Thiếp (四生六道帖), Tam Bảo Thiếp (三寶帖), v.v.
(蘇東坡, 1036-1101): tức Tô Thức (蘇軾), nhà chính trị, thi nhân và nhà văn chương đời Bắc Tống. Ông người Mi Sơn (眉山), Tỉnh Tứ Xuyên (四川省), tự là Tử Chiêm (子瞻), Đông Pha là hiệu. Ông làm quan đến chức Hàn Lâm Học Sĩ, nhưng vì phản đối chính sách của Vương An Thạch (王安石), nên ông bị lưu đày đến Hoàng Châu (黃州), Hồ Nam (湖南). Là một trong Đường Tống Bát Đại Thi Nhân, ông thừa kế nên cổ văn nhà Đường và thành công lớn với nền cổ văn nhà Tống. Ông có để lại nhiều tuyệt tác và bên cạnh đó ông còn có tài năng vẽ tranh tuyệt vời. Thi tập của ông là Đông Pha Toàn Tập (東坡全集).
(張載, 1020-1077): học giả dưới thời Bắc Tống, một trong những nhân vật tiên phong của Tống học, tự là Tử Hậu (子厚), thường được gọi là Hoành Lương Tiên Sinh (横渠). Ông làm đến chức quan Sùng Văn Viện Hiệu Thư (崇文院校書), nhưng vì không hợp với Vương An Thạch (王安石) nên ông trở về cố hương của mình ở Huyện Tỉnh Mi (省郿縣), Thiểm Tây (陝西). Học vấn của ông thiên về Dịch và Trung Dung. Các trước tác của ông như Tây Minh (西明), Chánh Mông (正蒙), Dịch Thuyết (易説), v.v.
(張商英, Chōshōei, 1043-1121): xuất thân Tân Tân (新津), Thục Châu (蜀州, Sùng Khánh, Tứ Xuyên) nhà Bắc Tống, tự Thiên Giác (天覺), hiệu Vô Tận Cư Sĩ (無盡居士). Hồi nhỏ ông đã có nhuệ khí, mỗi ngày tụng vạn biến kinh. Ban đầu khi đến nhậm chức Chủ Bộ Thông Châu (通州主簿), có hôm nọ ông đến chùa thấy những quyển sách Đại Tạng Kinh ngay hàng tề chỉnh, bèn thốt lên rằng: “Sách Khổng thánh của ta không bằng như vậy được”, cho nên ông muốn viết cuốn Vô Phật Luận (無佛論); nhưng sau nhân đọc Kinh Duy Ma chợt cảm nhận được huyền lý, cuối cùng ông quay đầu quy y theo Phật Giáo. Dưới thời vua Thần Tông, ông được Vương An Thạch (王安石) suy cử cho vào triều nội, và trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Quán (大觀), ông làm Thượng Thư Hữu Bộc Xạ (尚書右僕射). Không bao lâu sau, vì có chuyện, ông bị đày đi phương xa; từng lên Ngũ Đài Sơn (五台山) cầu nguyện tượng Văn Thù và có linh nghiệm. Cho nên ông cho tạc tượng Văn Thù cúng cho ngôi chùa trên núi ấy và soạn ra bài văn phát nguyện. Chẳng bao lâu, gặp lúc trời hạn hán, ông lại vào núi cầu mưa, cả ba lần đều linh ứng, cho nên tiếng tăm của ông vang tận triều đình. Sau ông đến tham lễ Thiền Sư Thường Thông (常通禪師) ở Đông Lâm Tự (東林寺) và được vị này ấn khả cho. Sau đó, ông theo học với Thiền Sư Tùng Duyệt (從悅禪師) ở Đâu Suất Tự (兜率寺). Vào tháng 6 năm thứ 4 (1110) niên hiệu Đại Quán, trời hạn hán kéo dài, ông lại vâng mệnh cầu mưa, đến chiều tối trời chợt đỗ mưa, vì vậy vua Huy Tông rất vui mừng, ban cho tự là Thương Lâm (商霖). Vào năm thứ 4 niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), ông từ trần, hưởng thọ 79 tuổi, và được ban cho thụy hiệu là Văn Trung (文忠). Trước tác của ông có Hộ Pháp Luận (護法論) 1 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập