Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vô thanh »»
(地府): còn gọi là Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), chỉ dưới lòng đất, tên gọi khác của Địa Ngục. Tại Trung Quốc, phần lớn các điển tịch thần thoại cổ đại cũng như của Phật Giáo đều có đề cập đến tên gọi Âm Tào Địa Phủ. Người dân Trung Quốc chia thế giới vạn vật làm hai cực: đó là học thuyết âm dương, là thành phần quan trọng của học thuyết cổ đại Trung Quốc; như Trời (dương) và Đất (âm), nam (dương) và nữ (âm), mặt trời (dương) và mặt trăng (âm). Hơn nữa, tại Trung Quốc còn có học thuyết Ba Cõi: trên trời, con người và địa ngục. Họ cho rằng mỗi con người đều có linh hồn, 3 hồn hay 7 hồn. Sau khi con người chết đi, trước hết sẽ đọa xuống cõi Âm Tào Địa Phủ để chịu sự xét xử, thọ nhận quả báo, hình phạt; được vị phán quan cõi âm là Diêm La Vương (閻羅王) phán xét. Nếu ai trên dương gian làm việc thiện, tu nhân tích đức, sẽ đắc đạo thành tiên, sanh về cõi trời, được trường sanh bất tử. Nếu người chuyên làm việc ác, sẽ bị trừng phạt trong 18 tầng Địa Ngục dưới Âm Phủ. Người trung quốc xưa cho rằng trên trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế chưởng quản, ở phương Tây có Phật Tổ Như Lai, trên đời có Hoàng Đế cai trị; còn cõi âm thì có Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) cũng như các vua khác chủ quản. Theo truyền thuyết, người chưởng quan tối cao cõi Địa Phủ là Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế (天齊仁聖大帝), cai quản toàn thể sanh linh vạn vật. Kế đến là Bắc Âm Phong Đô Đại Đế (北陰酆都大帝). Sau đó có các Quỷ Đế (鬼帝, vua quỷ) ở 5 phương: Đông Phương Quỷ Đế Thái Uất Lũy (東方鬼帝蔡鬱壘), còn gọi là Thần Trà (神荼), cai quản Quỷ Môn Quan (鬼門關) ở Đào Chỉ Sơn (桃止山); Tây Phương Quỷ Đế Triệu Văn Hòa (西方鬼帝趙文和), còn gọi là Vương Chân Nhân (王真人), cai quản Ba Trủng Sơn (嶓塚山); Bắc Phương Quỷ Đế Trương Hành (北方鬼帝張衡), còn gọi là Dương Vân (楊雲), cai quản La Phong Sơn (羅酆山); Nam Phương Quỷ Đế Đỗ Tử Nhân (南方鬼帝杜子仁), cai quản La Phù Sơn (羅浮山); Trung Ương Quỷ Đế Chu Khất (中央鬼帝週乞), còn gọi là Khể Khang (稽康), cai quản Bão Độc Sơn (抱犢山). Bên dưới là 6 vị trời La Phong (羅酆), tức là những vị Thủ Cung Thần (守宮神), gồm: Trụ Tuyệt Âm Thiên Cung (紂絕陰天宮), Thái Sát Lượng Sự Tông Thiên Cung (泰煞諒事宗天宮), Minh Thần Nại Phạm Võ Thành Thiên Cung (明晨耐犯武城天宮), Điềm Chiêu Tội Khí Thiên Cung (恬昭罪氣天宮), Tông Linh Thất Phi Thiên Cung (宗靈七非天宮), Cảm Ty Liên Uyển Lũ Thiên Cung (敢司連宛屢天宮). Tuy nhiên, truyền thuyết cho rằng chốn Âm Tào Địa Phủ là do Thập Điện Diêm La Vương (十殿閻羅王) thống quản: Tần Quảng Vương (秦廣王), Sở Giang Vương (楚江王), Tống Đế Vương (宋帝王), Ngũ Quan Vương (五官王), Diêm La Vương (閻羅王), Bình Đẳng Vương (平等王), Thái Sơn Vương (泰山王), Đô Thị Vương (都市王), Biện Thành Vương (卞城王), Chuyển Luân Vương (轉輪王). Dưới Thập Điện Diêm La Vương còn có các vị thần khác như Thủ Tịch Phán Quan Thôi Phủ Quân (首席判官崔府君), Chung Khôi (鍾魁), Hắc Bạch Vô Thường (黑白無常), Ngưu Đầu Mã Diện (牛頭馬面), Mạnh Bà Thần (孟婆神), v.v.
(后土): có nhiều nghĩa khác nhau:
(1) Tôn xưng đối với đại địa, như trong chương Hy Công Thập Ngũ Niên (僖公十五年) của Tả Truyện (左傳) có đoạn rằng: “Quân lý Hậu Thổ nhi đái Hoàng Thiên (君履后土而戴皇天, người tuy đạp lên Thần Đất mà đội ông Trời).”
(2) Chỉ Thần Thổ Địa, Thần Đất, Địa Thần (地神), đồng nghĩa với Địa Kỳ (地祗), hay chỉ cho nơi thờ tự Thần Thổ Địa. Như trong Chu Lễ (周禮), phần Xuân Quan (春官), Đại Tông Bá (大宗伯) có câu: “Vương đại phong, tắc tiên cáo Hậu Thổ (王大封、則先告后土, nhà vua phong chức, trước phải cáo Thần Thổ Địa).” Hay trong Hán Thư (漢書), phần Võ Đế Kỷ (武帝紀) lại có câu: “Trẫm cung tế Hậu Thổ Địa Kỳ, kiến quang tập vu linh đàn, nhất dạ tam chúc (朕躬祭后土地祇、見光集于靈壇、一夜三燭, Trẫm cung kính cúng tế Thần Thổ Địa, thấy ánh sáng tập trung nơi linh đàn, một đêm ba lần thắp nến sáng).”
(3) Tên gọi khác của Thổ Công (土公), xem chú thích Thổ Công bên trên.
(4) Tên gọi của một chức quan chuyên quản lý đất đai thời Thượng Cổ, như trong Tả Truyện, chương Chiêu Công Nhị Thập Cửu Niên (昭公二十九年) có giải thích rằng: “Ngũ Hành chi quan, thị vị Ngũ Quan …, Thủy Chánh viết Huyền Minh, Thổ Chánh viết Hậu Thổ (五行之官、是謂五官…水正曰玄冥、土正曰后土, quan Ngũ Hành được gọi là Ngũ Quan; … quan trông coi về thủy đạo là Huyền Minh, quan trông coi về đất đai là Hậu Thổ).”
Trong dân gian Trung Quốc có câu chuyện Hậu Thổ Phu Nhân (后土夫人) cưới chàng họ Vi (韋). Trong khoảng thời gian niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806-820), khi tướng Cao Biền (高駢, 821-887) làm Tiết Độ Sứ (節度使) Hoài Nam (淮南), bộ tướng (呂用之) ngụy tạo ra điềm linh dị của Hậu Thổ Phu Nhân và khuyên Cao Biền nên cát cứ một phương. Như trong bài thơ Hậu Thổ Miếu (后土廟) của La Ẩn (羅隱, 833-909) nhà Đường có câu: “Cửu Thiên Huyền Nữ do vô Thánh, Hậu Thổ Phu Nhân khởi hữu linh (九天玄女猶無聖、后土夫人豈有靈, Cửu Thiên Huyền Nữ chẳng phải Thánh, Hậu Thổ Phu Nhân sao có linh)” để nói lên sự hôn mê, vô tri của Cao Biền lúc bấy giờ. Hậu Thổ còn có tên gọi khác là Thổ Hoàng (土皇), vị Địa Thần của Đạo Giáo, được liệt vào trong Tứ Ngự (四御). Thần hiệu của Hậu Thổ là Thừa Thiên Hiệu Pháp Khai Hoàng Hậu Thổ Nguyên Quân (承天効法開皇后土元君), còn gọi là Địa Mẫu Nương Nương (地母娘娘), Hậu Thổ Nương Nương (后土娘娘). Trong điện thờ Tứ Ngự có thần tượng hay thần vị của Hậu Thổ. Tại Trung Quốc, kể từ thời nhà Đường trở đi, theo đà phát triển của thuật Phong Thủy, mỗi khi động thổ, thượng lương, về nhà mới, trấn trạch, làm cầu, đắp đường, v.v., người dân đều có thiết trai nghi dâng cúng tạ Hậu Thổ để cầu cho gia trạch bình an, cầu đường hanh thông, ban phước tiêu tai cát tường. Truyền thống này cũng được tìm thấy trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam. Tại Huế mỗi năm có 2 tháng để Cúng Đất là tháng 2 hoặc tháng 8 Âm Lịch. Trong lễ này, ngoài những lễ vật độc đáo như cua, trứng vịt luộc, rau muống luộc mắm nêm, v.v., còn có luộc một con gà kiến tuổi đã trưởng thành và con gà đó phải được chọn lựa kỹ lưỡng, đặc biệt đôi chân phải “đẹp”. Sau khi cúng đất xong, theo tục lệ cặp chân gà được đem đi nhờ thầy xem bói giò để biết thời vận trong gia đình, hoặc được đem treo ở chàng bếp cho khô.
(靈霄): có 3 nghĩa. (1) Chỉ tiên cảnh. Như trong thư tịch Chơn Cáo (真誥), Vận Tượng Thiên (運象篇) của Phái Thượng Thanh (上清派) thuộc Đạo Giáo, do Đào Hoằng Cảnh (陶弘景, 456-536) nhà Lương thời Nam Triều biên tập, có câu: “Lương đức phi hà chiếu, toại cảm linh tiêu nhân (良德飛霞照、遂感靈霄人, đức cả ráng chiều tỏ, bèn cảm người cõi tiên).” (2) Chỉ trời cao. (3) Tên cung điện của Ngọc Đế trong truyền thuyết thần thoại. Như trong hồi thứ 80 của Thuyết Nhạc Toàn Truyện (說岳全傳) có đoạn: “Nhất nhật, giá tọa Linh Tiêu bảo điện, lưỡng bàng liệt trước tứ đại thiên sư, văn võ thánh chúng (一日,駕坐靈宵寶殿,兩傍列着四大天師,文武聖眾, một hôm, đức vua ngồi tại điện báu Linh Tiêu, hai bên có bốn đại thiên sư, văn võ thánh chúng).”
(輔敎編, Hokyōhen): trước tác của Phật Nhật Khế Tung (佛日契嵩), gồm 3 quyển, được thâu lục vào trong Đàm Tân Văn Tập (鐔津文集). Quyển thượng có phần Nguyên Giáo (原敎), Khuyến Thư (勸書); quyển trung có Quảng Nguyên Giáo (廣原敎) và quyển hạ có Hiếu Luận (孝論), Đàn Kinh Tán (壇經賛) và Chơn Đế Vô Thánh Luận (眞帝無聖論). Nó thuyết về sự nhất trí xưa nay về Ngũ Giới Thập Thiện của Phật Giáo với Ngũ Thường của Nho Giáo; Nho thì trị đời còn Phật thì trị tâm và nhờ có trị tâm mới làm cho việc trị thế được hoàn thành. Hơn nữa, tác phẩm này còn chủ trương rằng với vấn đề ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật Giáo hơn hẳn Nho Giáo; mặt khác chính nhờ các vị vương thần mà Phật Giáo tồn tại, cho nên Phật Giáo thể hiện tư thế khẳng định toàn diện đối với quyền lực quốc gia. Vào năm 1061, bộ này được trình lên cho vua Nhân Tông (仁宗), được nhóm Âu Dương Tu (歐陽脩) khen ngợi, rồi năm sau bản Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記) cũng được chấp nhận đưa vào kinh tạng, và Khế Tung được ban cho hiệu là Minh Giáo Đại Sư (明敎大師). Bộ này được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc cũng như Nhật Bản, và thỉnh thoảng được khai bản ấn hành. Đặc biệt, phần Nguyên Giáo và Hiếu Luận có ảnh hưởng rất lớn. Chính Trầm Sĩ Vinh (沉士榮) nhà Minh sau này đã kế thừa tư tưởng của Nguyên Giáo để viết ra cuốn Tục Nguyên Giáo Luận (續原敎論, Zokugenkyōron, năm 1385); còn ảnh hưởng của Hiếu Luận thì có thể tìm thấy ở Trung Phong Minh Bổn (中峰明本, 1263-1323) và Hàm Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623) nhà Nguyên. Còn tại Nhật Bản thì Hiếu Luận cũng được lưu truyền rộng rãi đến nổi người ta đã cho in riêng phần này thành một bản. Ngoài ra ta có thể tìm thấy chủ trương giống như tác phẩm này qua cuốn Nhàn Cư Biên (閑居編, năm 1016) của vị tăng Thiên Thai Tông là Cô Sơn Trí Viên (孤山智圓).
(鬼神): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho quái vật có đủ uy lực khủng khiếp, có thể biến hóa tự tại; được chia thành hai loại thiện và ác. Trường hợp bảo vệ thế gian hoặc hộ trì Phật pháp như Đại Phạm Thiên Vương (大梵天王), Tam Thập Tam Thiên Vương (三十三天王), Tứ Thiên Vương (四天王), Viêm Ma Vương (炎魔王), Nan Đà Long Vương (難陀龍王), Bạt Nan Đà Long Vương (跋難陀龍王), v.v., đều là quỷ thần thiện. Trường hợp như La Sát (s: rākṣasa, 羅剎), v.v., thuộc về quỷ thần ác. Còn Dạ Xoa (s: yakṣa,p: yakkha, 夜叉) thì thuộc về cả hai thiện và ác. Tuy nhiên, quỷ thần được đề cập trong Phật Giáo là chỉ cho 6 bộ quỷ thần, gồm Càn Thác Bà (s: gandharva, p: gandhabba, 乾闥婆), Dạ Xoa, A Tu La (s, p: asura, 阿修羅), Ca Lâu La (s: garuḍa, 迦樓羅), Khẩn Na La (s: kiṃnara, p: kinnara, 緊那羅), Ma Hầu La Già (s: mahoraga, 摩睺羅伽). Vào thời cổ đại Ấn Độ, từ thời đại Veda trở về sau, trong dân gian rất thịnh hành tín ngưỡng quỷ thần; về sau một bộ phận tín ngưỡng này thâm nhập vào Phật Giáo, nổi bậc nhất là Mật Giáo; tỷ dụ như các Minh Vương có hình giận dữ vốn hiển hiện pháp thân của Phật Tỳ Lô Giá Na, cũng thuộc loại quỷ thần. Ngoài ra, trong Kim Quang Minh Kinh (金光明經, Taishō Vol. 16, No. 663) thuật lại rất rõ chư thiên quỷ thần, và quý vị này được Thiên Thai Tông tôn sùng cao độ. Trong bộ Trùng Biên Chư Thiên Truyện (重編諸天傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1658), 2 quyển, do Thích Hành Đình (釋行霆) ở Ô Thú (烏戍) nhà Tống biên soạn, thâu lục đầy đủ các quỷ thần được đề cập trong kinh điển. Trong bài Nguyên Quỷ (原鬼) của Hàn Dũ (韓愈, 768-824) có giải thích rằng: “Vô thanh dữ hình giả, quỷ thần thị dã (無聲與形者、鬼神是也, cái không có tiếng và hình chính là quỷ thần vậy).” Trong Đoạn Trường Tân Thanh có câu rằng: “Mai sau dầu đến thế nào, kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần.” (2) Chỉ chung cho các thần linh, tinh khí. Như trong Sử Ký (史記), phần Ngũ Đế Bổn Kỷ (五帝本紀), có câu: “Lịch nhật nguyệt nhi nghênh tống chi, minh quỷ thần nhi kính sự chi (曆日月而迎送之、明鬼神而敬事之, trãi tháng năm mà đón đưa ấy, rõ quỷ thần mà kính thờ ấy).” (3) Chỉ cho hình thể và linh hồn. Như trong Lễ Ký (禮記), phần Lễ Vận (禮運), có đoạn: “Cố nhân giả, kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, Ngũ Hành chi tú khí dã (故人者、其天地之德、陰陽之交、鬼神之會、五行之秀氣也, cho nên con người là đức của trời đất, giao tiếp của âm dương, tụ hội của quỷ thần, khí tốt của Ngũ Hành vậy).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) giải thích rõ rằng: “Quỷ vị hình thể, thần vị tinh linh (鬼謂形體、神謂精靈, quỷ là hình thể, thần là linh hồn).”
(中秋節): đây là ngày Tết truyền thống của nhân dân các nước Đông Á, vốn khởi nguồn từ Trung Quốc, nhằm vào ngày rằm tháng 8 Âm Lịch hằng năm. Theo Âm Lịch Trung Quốc, tháng Tám là tháng thứ hai của mùa Thu; xưa kia gọi là Trọng Thu (仲秋); sau này dân gian gọi là Trung Thu (中秋), Thu Tịch (秋夕), Bát Nguyệt Tiết (八月節), Bát Nguyệt Bán (八月半), Nguyệt Tịch (月夕), Nguyệt Tiết (月節). Hơn nữa, do vì vào lúc này mặt trăng tròn đầy, tượng trưng cho sự đoàn viên, nên có tên là Đoàn Viên Tiết (團圓節). Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, v.v., cũng xem Tết Trung Thu như là ngày Tết truyền thống của quốc gia. Từ ngữ “Trung Thu” được tìm thấy sớm nhất trong các thư tịch Chu Lễ (周禮), Lễ Ký (禮記), v.v. Như trong chương Nguyệt Lịnh (月令) của Lễ Ký có ghi rằng: “Trung Thu chi nguyệt dưỡng suy lão, hành mi chúc ẩm thực (仲秋之月養衰老、行糜粥飲食, tháng của giữa Thu dưỡng tuổi già, nấu cháu kê mà ăn uống).” Từ thời nhà Đường (唐, 618-907) trở về sau, Tết Trung Thu trở thành ngày Têt cố định. Truyền thuyết cho rằng vua Đường Huyền Tông Lý Long Cơ (唐玄宗李隆基, tại vị 658-762) mộng thấy đi chơi trên cung trăng, thưởng thức nhạc trời gọi là Nghê Thường Vũ Y Khúc (霓裳羽衣曲), từ đó dân gian bắt đầu thịnh hành tập tục Tết Trung Thu. Thông thường, người ta vẫn cho rằng lễ Tết này bắt đầu thịnh hành dưới thời nhà Tống (宋, 960-1279). Đến cuối thời nhà Nguyên (元, 1271-1368), khi khởi binh, Chu Nguyên Chương (朱元璋, tại vị 1368-1398) có bí mật lấy bánh Trung Thu làm tín hiệu “bát nguyệt thập ngũ nhật sát Thát Tử (八月十五日殺韃子, ngày Rằm tháng Tám giết quân Mông Cổ)”; cho nên vào năm 1368 (Hồng Võ [洪武] nguyên niên), Chu Nguyên Chương cho lấy bánh Trung Thu làm bánh ngọt thiết đãi quần thần. Vào thời nhà Minh (明, 1368-1644) và Thanh (清, 1616-1636), Tết Trung Thu đã trở thành một trong những ngày Tết truyền thống lớn nhất của Trung Quốc. Bộ Chánh Đức Giang Ninh Huyện Chí (正德江寧縣誌) có ghi lại rằng vào đêm Trung Thu, người dân Nam Kinh thường thưởng thức trăng Thu, cả nhà cùng nhau ngắm trăng được gọi là khánh đoàn viên (慶團圓), ngồi quanh quần ăn uống vui vẻ gọi là viên nguyệt (圓月), ra ngoài đi chơi các phố phường gọi là tẩu nguyệt (走月). Một trong những truyền thuyết nổi tiếng về nguồn gốc của Tết Trung Thu là Thường Nga Bôn Nguyệt (嫦娥奔月, Thường Nga [Hằng Nga] đùa giỡn với trăng). Tương truyền từ thời cổ đại xa xưa, anh hùng bắn mặt trời là Hậu Nghệ (后羿) cưới Hằng Nga làm vợ, trở thành đế vương, thường thi hành chính sách hung bạo, ác độc. Có một hôm nọ, Hậu Nghệ xin được một bao thuốc trường sinh bất tử từ tay Tây Vương Mẫu (西王母). Hậu Nghệ mang thuốc về nhà và cất vào trong một cái hộp. Hằng Nga biết được, sợ rằng sau khi uống thuốc này vào thì Hậu Nghệ sẽ trở thành trường sinh bất tử, làm cho muôn dân càng thống khổ hơn, bèn lấy toàn bộ thuốc ấy uống sạch, sau đó biến thành tiên nữ, bay lên trên cung trăng. Bá tánh sau khi biết Hằng Nga thành tiên bay lên cung trăng rồi, thiết bàn hương án dưới mặt trăng, cầu xin tiên nữ ban cho bình an, cát tường. Vì vậy có phong tục lạy mặt trăng vào dịp Tết Trung Thu. Mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều có những tập tục trong dịp Tết Trung Thu. Tại Trung Hoa, có một số phong tục chính như ngắm trăng Trung Thu, ăn Bánh Trung Thu, treo hay rước lồng đèn, đốt tháp đồ mã, v.v. Tập tục ngắm trăng được xem như là một trong những hoạt động truyền thống vào dịp này. Trong Lễ Ký có từ “Thu mộ tịch nguyệt (秋暮夕月)”, ý là bái tế Thần Mặt Trăng; vào lúc này thì thiết hương án để nghinh đón mùa lạnh và tế mặt trăng. Như trong Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) có ghi rằng: “Trung Thu dạ, quý gia kết sức đài tạ, dân gian tranh chiếm tửu lâu ngoạn nguyệt (中秋夜、貴家結飾台榭、民間爭占酒樓玩月, vào đêm Trung Thu, nhà cao sang thì trang trí đài cao, dân gian thì tranh nhau chiếm quán rượu để ngắm trăng).” Về Bánh Trung Thu, dân gian Trung Quốc có câu rằng: “Bát nguyệt thập ngũ nhật chánh viên, Trung Thu nguyệt bính hương hựu điềm (八月十五日正圓、中秋月餅香又甜, ngày Rằm tháng Tám trăng thật tròn, ăn bánh Trung Thu hương ngọt thơm).” Trong Mộng Lương Lục (夢梁錄) của Ngô Tự Mai (吳自牧, ?-?) nhà Nam Tống cho biết rằng Bánh Trung Thu đương thời là một loại thực phẩm điểm tâm. Sau này, loại bánh này được đem dùng ăn ngắm trăng và đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào dịp lễ hội này. Đồng thời, Bánh Trung Thu cũng là lễ vật để liên lạc cảm tình giữa bằng hữu với nhau trong dịp Tết Trung Thu. Ngoài các loại bánh thông thường ra, tại Triết Giang (江浙) còn có Bánh Trung Thu Thịt Tươi (鮮肉月餅, Tiên Nhục Nguyệt Bính). Riêng tập quán đốt tháp vàng mã rất thịnh hành ở các vùng nông thôn của Phúc Kiến (福建), Giang Tây (江西), Quảng Đông (廣東), Quảng Tây (廣西), v.v. Thân của tháp được kết thành bởi những miếng gạch vỡ vụn, thân cây, cỏ bện; hình tròn, trên nhỏ dưới to, bên trong rỗng. Tại bán đảo Triều Tiên, lễ hội này được gọi là Thu Tịch (秋夕), Trọng Thu Tiết (仲秋節), Gia Bài (嘉俳), Trọng Thu (仲秋), Gia Bài Nhật (嘉俳日), Trọng Thu Giai Tiết (仲秋佳節). Nhân ngày này, người dân ở đây có phong tục thường đi tảo mộ, lấy các loại sản phẩm thu hoạch được để cúng tế tổ tiên, trở về quê thăm người thân, v.v. Đối với Nhật Bản, Tết Trung Thu được gọi là Thập Ngũ Dạ (十五夜, jūgoya), Trung Thu Danh Nguyệt (中秋の名月, chūshū-no-meigetsu), Vu Danh Nguyệt (芋の名月, imo-no-meigetsu). Người Nhật cũng có phong tục ngắm trăng gọi là nguyệt kiến (月見, tsukimi) và ăn loại bánh gọi là tsukimidango (月見團子, nguyệt kiến đoàn tử). Đặc biệt đối với Việt Nam, Tết Trung Thu đã trở thành ngày Tết long trọng của trẻ em, còn được gọi là Tết Trông Trăng hay Tết Thiếu Nhi, Tết Nhi Đồng. Trẻ em Việt Nam rất mong đợi được đón Tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước, v.v., rồi các thứ bánh như bánh nướng, bánh dẻo. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức Múa Lân, Múa Sư Tử, Múa Rồng để các em vui chơi thỏa thích. Thi sĩ Tản Đà (傘沱, 1889-1939) có làm bài thơ về Trung Thu rằng: “Có bầu có bạn can chi tủi, cùng gió cùng mây thế mới vui, rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám, tựa nhau trông xuống thế gian cười.” Hay trong bài hát Rước Đèn Tháng Tám có câu như: “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường, lòng vui sướng với đèn trong tay, em múa ca trong ánh trăng rằm, đèn ông sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn bướm bướm, em rước đèn này đến cung trăng, đèn xanh lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng trắng, trong ánh đèn rực rỡ muôn màu.” Tết Trung Thu là một đề tài vô cùng phong phú cho các thi hào, văn sĩ. Như trong bài Thu Tiêu Nguyệt Hạ Hữu Hoài (秋宵月下有懷) của Mạnh Hạo Nhiên (孟浩然, 689-740) nhà Đường có câu: “Thu không minh nguyệt huyền, quang thái lộ triêm thấp, kinh thước thê vị định, phi oanh quyển liêm nhập (秋空明月懸、光彩露沾濕、驚鵲棲未定、飛螢捲簾入, trời Thu trăng sáng tỏ, rực rỡ sương thấm ướt, chim khách không bến đậu, đóm bay cuộn rèm thưa).” Thi nhân Trương Cửu Linh (張九齡, 678-740) nhà Đường lại diển tả một sắc thái khác qua bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn (望月懷遠): “Hải thượng sanh minh nguyệt, thiên nhai cọng thử thời, tình nhân oán dao dạ, cánh tịch khởi tương tư (海上生明月、天涯共此時、情人怨遙夜、竟夕起相思, trên biển vừng trăng sáng, bờ trời cùng lúc này, tình nhân đêm não nuột, trọn buổi ôm tương tư).” Trong bài Bát Nguyệt Thập Ngũ Nhật Dạ Bồn Đình Vọng Nguyệt (八月十五日夜湓亭望月), thi hào Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường đã gởi gắm cả nỗi niềm hoài vọng của ông rằng: “Tích niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Khúc Giang trì bạn hạnh viên biên, kim niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Bồn phố sa đầu thủy quán tiền, Tây Bắc vọng hương hà xứ thị, Đông Nam kiến nguyệt kỷ hồi viên, tạc phong nhất xuy vô nhân hội, kim dạ thanh quang tợ vãng niên (昔年八月十五夜、曲江池畔杏園邊、今年八月十五夜、湓浦沙頭水館前、西北望鄉何處是、東南見月幾回圓、昨風一吹無人會、今夜清光似往年, năm xưa đêm Rằm tháng Tám ấy, cạnh hồ Khúc Giang vườn mơ thơm, năm nay đêm Rằm tháng Tám đến, sông Bồn bãi cát quán nước còn, Tây Bắc trông quê nào chốn nhỉ, Đông Nam trăng ngắm mấy lần tròn, gió thổi hôm qua đâu ai gặp, đêm nay sáng tỏ tợ năm nào).” Vương Kiến (王建, ?-?), thi nhân nhà Đường, cũng chia xẻ cùng nỗi niềm qua bài Thập Ngũ Dạ Vọng Nguyệt (十五夜望月): “Trung đình địa bạch thọ thê nha, lãnh lộ Vô thanh thấp quế hoa, kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng, bất tri Thu tư lạc thùy gia (中庭地白樹棲鴉、冷露無聲濕桂花、今夜月明人盡望、不知秋思落誰家, giữa sân nền sáng quạ trên xa, sương lạnh im lìm ướt quế hoa, đêm nay trăng tỏ người ngắm trọn, nào hay Thu niệm rụng ai nhà).” Trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 30 có đoạn rằng: “Phỉ tấn phỉ tu siêu Thập Địa, vô văn vô đắc việt Tam Kỳ, Trung Thu ngọc thố đoàn đoàn thạnh, bán dạ khuê đồng toàn toàn khuy, nhập hải ba tư tham bất dĩ, nghĩ tương từ khí hoán Ma Ni (匪進匪修超十地、無聞無得越三祇、中秋玉兔團團盛、半夜圭桐旋旋虧、入海波斯貪不已、擬將瓷器換摩尼, chẳng tiến chẳng tu qua Mười Địa, không nghe không chứng vượt Ba Kỳ, Trung Thu trăng sáng tròn vành vạnh, đêm nửa ngô đồng gió vút vi, vào biển sóng cồn tham chẳng dứt, nghĩ đem đồ sứ đổi Ma Ni).” Hay trong Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1388) quyển Thượng lại có câu: “Kiểu khiết Trung Thu nguyệt, thanh quang xứ xứ đồng (皎潔中秋月、清光處處同, sáng rực Trung Thu nguyệt, trong vắt chốn chốn cùng).”
(神光): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Tên gọi khác của một kinh huyệt. Như trong tác phẩm Thiên Kim Yếu Phương (千金要方) do Tôn Tư Mạc (孫思邈, 581-682) nhà Đường sáng tác, có đoạn: “Thổ ẩu túc trấp thôn toan, cứu Thần Quang, nhất danh Đảm Mộ, Bách Tráng (吐嘔宿汁吞酸、灸神光、一名膽募、百壯, nôn mữa, giữ nước, ợ chua, lấy ngải cứu đốt huyệt Thần Quang, có tên khác là Đảm Mộ, Bách Tráng).” Trong Châm Cứu Giáp Ất Kinh (針灸甲乙經) có giải thích rằng: “Nhật Nguyệt, Thắng Mộ dã (日月、膽募也, huyệt Nhật Nguyệt là Thắng Mộ).” Cho nên, huyệt Thần Quang còn có tên là Nhật Nguyệt. (2) Đồng nghĩa với tinh thần. Như trong tác phẩm Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn (黃帝內經素問), phần Bổn Bệnh Luận (本病論) có câu: “Thần ký thất thủ, thần quang bất tụ (神旣失守、神光不聚, thần đã không giữ được, thì tinh thần không tụ lại được).” (3) Chỉ cho công năng của thị giác. Như trong tác phẩm Thẩm Thị Dao Hàm (審視瑤函) của Phó Nhân Vũ (傅仁宇, ?-?) nhà Minh giải thích rằng: “Thần quang giả, vị mục trung tự nhiên năng thị chi tinh hoa dã (神光者、謂目中自然能視之精華也, thần quang có nghĩa là tinh hoa trong con mắt tự nhiên có thể nhìn thấy được).” (4) Chỉ Huệ Khả (慧可, 487-593), hiệu là Thần Quang, Tổ sư thứ 2 của Thiền Tông Trung Hoa. (5) Ánh sáng, hào quang linh thiên, thần thánh. Như trong Ngự Tuyển Ngữ Lục (御選語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1319) quyển 7 có đoạn: “Khả dĩ phổ độc diệu chi thần quang, viên huyễn hữu chi vạn hạnh, sở vị vô thành chi thành, vô tu chi tu (可以普獨耀之神光、圓幻有之萬行、所為無成之成、不修之修, có thể riêng tỏa sáng ấy thần quang, tròn giả huyễn ấy muôn hạnh, đó gọi không thành mà thành, không tu mà tu).” Hay trong Thứ Trung Vô Uấn Thiền Sư Ngữ Lục (恕中無慍禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1416) quyển 5 lại có đoạn: “Độc Cô Tiêu Độc Cô Tiêu, nhất đạo thần quang thấu Cửu Tiêu, Niết Bàn sanh tử vô nhị pháp, Tam Thừa Thập Địa hà tu siêu (獨孤標獨孤標。一道神光透九霄。涅槃生死無二法。三乘十地何須超, Độc Cô Tiêu Độc Cô Tiêu, một đạo hào quang thấu Cửu Tiêu, Niết Bàn sanh tử không hai pháp, Ba Thừa Mười Địa cần gì siêu).”
(青龍): tên gọi của cây đao báu được Quan Công thường đeo bên mình, còn gọi là Thanh Long Yển Nguyệt Đao (青龍偃月刀). Nhờ cây đao này, Quan Công đã từng tạo những chiến công hiển hách như chém Hoa Hùng (華雄), Phách Nhan Lương (劈顏良), Tru Văn Xú (誅文醜), v.v.; cho nên người Trung Quốc cũng thần thánh hóa và xem nó như là Tướng Quân Võ Thánh. Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa (三國演義), hai người con của Quan Công là Quan Hưng (關興) và Quan Sách (關索) cũng cầm cây đao này. Như trong bài thơ Quá Ngũ Quan Trảm Lục Tướng (過五關斬六將) có câu: “Quải ấn phong kim từ Hán tướng, tầm huynh diêu vọng viễn đồ hoàn, mã kỵ Xích Thố hành thiên lý, đao yển Thanh Long xuất ngũ quan (掛印封金辭漢相、尋兄遙望遠途還、馬騎赤兔行千里、刀偃青龍出五關, treo ấn niêm phong thôi Hán tướng, tìm anh xa tít muôn dặm đàng, cỡi ngựa Xích Thố đi vạn nẻo, Thanh Long đao xếp ra cửa quan).” Sau này, khi điêu khắc hay tạc vẽ hình tượng của Quan Công đều có hình tay cầm cây Thanh Long Yển Nguyệt Đao này. Ngoài ra, Thanh Long còn gọi là Thương Long (蒼龍). Trong truyền thống văn hóa của Trung Quốc, Thanh Long là một trong Tứ Tượng (四象). Căn cứ học thuyết Ngũ Hành, Thanh Long đại biểu cho loại linh thú ở phương Đông, là con rồng có màu xanh. Phương vị của sao này nằm ở phương Đông, đại biểu cho mùa Xuân. Trong 28 chùm sao theo quan niệm của Trung Quốc, Thanh Long là tên gọi chung của 7 ngôi sao ở phương Đông, gồm: Giác (角), Cang (亢), Để (氐), Phòng (房), Tâm (心), Vĩ (尾) và Ky (箕). Hình trạng của 7 ngôi sao này rất giống một con rồng. Trong phần Tạp Ứng (雜應) của Bão Phác Tử (抱朴子) có đề cập đến Tiên Kinh (仙經) chỉ dẫn cho cách khi vẽ hình Thái Thượng Lão Quân thì bên trái phải có 12 con Thanh Long, bên phải có 26 con Bạch Hổ, phía trước 24 con Châu Tước và phía sau là 72 Huyền Võ. Sau này, Tứ Tượng được nhân cách hóa và phong hiệu như vậy. Theo Bắc Cực Thất Nguyên Tử Diên Bí Quyết (北極七元紫延秘訣) cho biết rằng Thanh Long hiệu là “Mạnh Chương Thần Quân (孟章神君)”, Bạch Hổ hiệu “Giám Binh Thần Quân (監兵神君)”, Châu Tước là “Lăng Quang Thần Quân (陵光神君)” và Huyền Võ là “Chấp Minh Thần Quân (執明神君).” Trong cuốn Nhạc Dương Phong Thổ Ký (岳陽風土記) của Phạm Trí Năng (範致能) nhà Tống có đoạn rằng: “Lão Tử từ hữu nhị thần tượng, vị Thanh Long, Bạch Hổ dã (老子祠有二神像、謂青龍、白虎也, tại đền thờ Lão Tử có hai tượng thần là Thanh Long và Bạch Hổ).” Bên cạnh đó, trong Thường Thục Tư Chí (常熟私志), Thiên Thư Tự Quan (舒寺觀篇) của Diêu Tông Nghi (姚宗儀) cũng có ghi rằng: “Trí Đạo Quán sơn môn nhị đại thần, tả vi Thanh Long Mạnh Chương Thần Quân, hữu vi Bạch Hổ Giám Binh Thần Quân (致道觀山門二大神、左爲青龍孟章神君、右爲白虎監兵神君, đặt tại sơn môn của Đạo Quán hai tượng thần lớn, bên trái là Thanh Long Mạnh Chương Thần Quân, bên phải là Bạch Hổ Giám Binh Thần Quân).” Thái Thượng Hoàng Lục Trai Nghi (太上黃籙齋儀) quyển 44 nhà Minh gọi 7 ngôi sao Thanh Long ở phương Đông là “Giác Tú Thiên Môn Tinh Quân (角宿天門星君), Cang Tú Đình Đình Tinh Quân (亢宿庭庭星君), Đê Tú Thiên Phủ Tinh Quân (氐宿天府星君), Phòng Tú Thiên Tứ Tinh Quân (房宿天駟星君), Tâm Tú Thiên Vương Tinh Quân (心宿天王星君), Vĩ Tú Thiên Kê Tinh Quân (尾宿天雞星君), và Ky Tú Thiên Luật Tinh Quân (箕宿天律星君)”. Về hình tượng của Thanh Long, Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập (道門通敎必用集) quyển 7 có giải thích rằng: “Rồng nhả mây nuốt khí, phun sấm sét phát ra tiếng, bay khắp Tám Cực, chu du Tứ Minh.” Lại nữa, bộ Linh Cấp Thất Thiêm (靈笈七籖) quyển 72 có dẫn rằng: “Thanh Long là Giáp, Ất, Mộc, Thủy, Ngân ở phương Đông, lắng trong mà không chút gợn, quậy lên mà không đục, đến gần không thể lấy được, cách xa chẳng thể bỏ qua, tiềm tàng biến hóa vô tận, nên gọi là rồng”. Tục ngữ có câu rằng: “Nam tánh sanh thực khí vô âm mao, tại quá khứ dã khiếu thanh long (男性生殖器無陰毛、在過去也叫青龍, người nam sanh ra dương vật không có lông, tại vì đời trước gào thét Thanh Long).” Ngoài ra, dân gian thường cho rằng rồng có tánh dâm, nên khi nó hòa hợp với bò thì sinh ra kỳ lân, với con heo thì sinh ra con voi.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập