Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Thành công có nghĩa là đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời so với những gì cuộc đời mang đến cho bạn. (To do more for the world than the world does for you, that is success. )Henry Ford
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vô Dị Nguyên Lai »»
(博山參禪警語, Hakuzansanzenkeigo): 1 quyển, do Vô Dị Nguyên Lai (無異元來) nhà Minh trước tác, Thành Chánh (成正) biên, san hành vào năm thứ 39 (1611) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), nguyên văn là Bác Sơn Hòa Thượng Tham Thiền Cảnh Ngữ (博山和尚參禪警語, Hakuzanoshōsanzenkeigo), gọi tắt là Bác Sơn Cảnh Ngữ (博山警語, Hakuzankeigo). Đây là tác phẩm thâu lục 5 chương văn cảnh tỉnh những Thiền bệnh trong khi công phu tham Thiền và 10 bài kệ tham Thiền. Năm chương gồm 131 hạng mục như lời cảnh ngữ dạy người mới sơ tâm tu tập công phu, lời cảnh ngữ bình xướng những lời thùy thị của chư vị cổ đức, lời cảnh ngữ để làm phát khởi nghi tình, lời cảnh ngữ dạy người hành Thiền tham cứu công án, v.v.
(眞機): lý huyền diệu, bí yếu. Như trong bài thơ Tống Đạm Công Quy Tung Sơn Long Đàm Tự Táng Bổn Sư (送淡公歸嵩山龍潭寺葬本師) của Dương Cự Nguyên (楊巨源, 755-?) nhà Đường có câu: “Dã yên thu hỏa thương mang viễn, Thiền cảnh chơn cơ khử trú nhàn (野煙秋火蒼茫遠、禪境眞機去住閒, khói hoang thu lửa xanh xa tít, Thiền cảnh huyền cơ mặc sống nhàn).” Hay trong bài thơ Hòa Giả Vân Lão Xuân Vãn (和賈耘老春晚) của Trần Sư Đạo (陳師道, 1053-1101) nhà Tống cũng có câu: “Nhất ngọa hải thành xuân hựu vãn, bất phương nhàn xứ đắc chơn cơ (一臥海城春又晚、不妨閒處得眞機, nằm xuống biển thành xuân lại xế, ngại gì nhàn chốn được huyền cơ).” Hay trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 20, phần Khai Thị Kệ (開示偈), lại có câu: “Quế hoa hương xứ lộ chơn cơ, chánh thị tâm không cập đệ thời (桂花香處露眞機、正是心空及第時, quế hoa hương ngát lộ cơ duyên, đúng lúc tâm không thị đỗ về).” Hoặc trong Kiềm Nam Hội Đăng Lục (黔南會燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1591) cũng có đoạn rằng: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, thị dĩ cửu niên diện bích, độc khế chơn cơ, chích lý Tây quy (敎外別傳、不立文字、直指人心、見性成佛、是以九年面壁、獨契眞機、隻履西歸, ngoài giáo truyền riêng, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tán thành Phật, vì vậy chín năm nhìn vách, riêng khế huyền cơ, một dép về Tây).”
(s: mahāvīra, 大雄): ý chỉ bậc anh hùng vĩ đại, là đức hiệu của đức Phật, vì Ngài là đấng anh hùng, có đủ năng lực trí tuệ lớn, có thể hàng phục ma chướng, chiến thắng tự thân mình. Vì vậy, tại Chánh Điện tôn thờ đức Phật được gọi là “Đại Hùng Bảo Điện (大雄寶殿, ngôi điện báu của đấng Đại Hùng).” Như trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262), Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (從地踊出品) thứ 15, có câu: “Thiện tai ! Thiện tai ! Đại hùng Thế Tôn ! (善哉、善哉、大雄世尊, Lành thay ! Lành thay ! Đức Thế Tôn đại hùng !).” Hay trong Phụ Tử Hợp Tập Kinh (父子合集經, Taishō Vol. 11, No. 320) quyển 13, Phẩm Tịnh Cư Thiên Thuyết Kệ Tán Phật (淨居天子說偈讚佛品) thứ 24, có đoạn: “Đại hùng mãnh Thế Tôn, xả sanh tử trọng đảm, cần tu vô thối khuất, tốc chí ư Bồ Đề (大雄猛世尊、捨生死重擔、勤修無退屈、速至於菩提, Thế Tôn đại hùng mãnh, bỏ sống chết gánh nặng, siêng tu không thối chuyển, mau đến nơi Bồ Đề).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 7, phần Trú Kim Lăng Thiên Giới Thiền Tự Ngữ Lục (住金陵天界禪寺語錄), lại có câu: “Đại Hùng Điện niêm hương, hoàng kim điện thượng Tam Tôn Phật, bạch ngọc quang trung nhất cá tăng (大雄殿拈香、黃金殿上三尊佛、白玉光中一箇僧, nơi Điện Đại Hùng niêm hương, vàng ròng trên điện Ba Đấng Phật, ngọc trắng hào quang một lão tăng).”
(頓悟): không trãi qua giai đoạn thứ tự, chứng ngộ nhanh chóng và khai mở tâm địa; đối nghĩa với tiệm ngộ (漸悟, chứng ngộ dần dần theo từng giai đoạn). Tác phẩm Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận (頓悟入道要門論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1223) định nghĩa rằng: “Vân hà vi đốn ngộ ? Đáp: 'Đốn giả, đốn trừ vọng niệm; ngộ giả, ngộ vô sở đắc' (云何爲頓悟、答、頓者、頓除妄念、悟者、悟無所得, Thế nào là đốn ngộ ? Đáp: 'Đốn tức là nhanh chóng dứt trừ vọng niệm, ngộ là ngộ cái không đạt được').” Trong Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經, Taishō Vol. 17, No. 842) cho biết rằng: “Thị kinh danh vi Đốn Giáo Đại Thừa, đốn cơ chúng sanh tùng thử khai ngộ (是經名爲頓教大乘、頓機眾生從此開悟, kinh này có tên gọi là Giáo Lý Đốn Ngộ Đại Thừa, chúng sanh có căn cơ đốn ngộ từ đây mà khai ngộ).” Như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Ngữ Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 19, phần Khai Thị Kệ (開示偈), bài Thị Tề Bảo Minh Cư Sĩ (示齊寶明居士), có câu: “Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng, tùng tha phiền não dữ bồ đề, tam xan trà phạn tùy thời quá, vô sự thâm sơn thính điểu đề (頓悟心源開寶藏、從他煩惱與菩提。三餐茶飯隨時過、無事深山聽鳥啼, đốn ngộ nguồn tâm bày kho báu, từ kia phiền não với bồ đề, ba bữa trà cơm tùy thời độ, vô sự núi sâu chim hót nghe).” Hay trong Bát Nhã Tâm Kinh Chú Giải (般若心經註解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 26, No. 573) lại có đoạn rằng: “Thân kiến bản lai diện mục, đốn ngộ vô sanh, tiện đăng bỉ ngạn, nhất đắc vĩnh đắc, nhất ngộ vĩnh ngộ, cánh bất phục sanh, luân hồi vĩnh tức, sanh tử vĩnh đoạn (親見本來面目、頓悟無生、便登彼岸、一得永得、一悟永悟、更不復生、輪迴永息、生死永斷, thấy rõ mặt mũi xưa nay, đốn ngộ vô sanh, bèn lên bờ kia, đx chứng mãi chứng, đã ngộ mãi ngộ, lại không sanh nữa, luân hồi chấm dứt, sanh tử mãi đoạn).”
(戒珠): tỷ dụ giới luật trong sạch, không tỳ vết, sai phạm như viên minh châu, có thể trang nghiêm thân người; cho nên cần phải siêng năng tu tịnh giới. Như trong Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō Vol. 48, No. 2023) quyển 9, phần Tấn Vương Thọ Bồ Tát Giới Sớ (晉王受菩薩戒疏), có câu: “Thiên Thai Trí Khải Thiền Sư, Phật pháp long tượng, đồng chơn xuất gia, giới châu viên tịnh, niên tương nhĩ thuận, định thủy uyên trừng (天台智顗禪師、佛法龍象、童眞出家、戒珠圓淨、年將耳順、定水淵澄, Thiền Sư Thiên Thai Trí Khải, là bậc long tượng của Phật pháp, xuất gia lúc còn nhỏ, giới luật nghiêm trì, đến tuổi sáu mươi, nước định lắng sâu).” Hay trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) quyển 21, phần Chư Sư Tạp Truyện Đệ Thất (諸師雜傳第七), Nho Sĩ Thuật Am Tiết Trừng (儒士述菴薛澄), lại có đoạn: “Thám giới châu ư li hạm, phi huệ kiếm ư Long Môn, tảo du nhận ư Nho lâm, vô thư bất độc (探戒珠於驪頷、飛慧劍於龍門、早遊刃於儒林、無書不讀, tìm ngọc giới nơi hàm ngựa, vung kiếm tuệ ở Cửa Rồng, sớm tinh thông nơi rừng Nho, sách nào cũng đọc).” Hoặc trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Phục Hoàng Tinh Nguyên Chư Cư Sĩ (復黃惺源諸居士), cũng có đoạn khác: “Oánh giới châu vu Ngũ Trược, thị thủy khả thanh; xúc thiện đạo vu Bát Quan, hữu tình giai Phật (瑩戒珠于五濁、是水可清、趨善道于八關、有情皆佛, sáng ngọc giới nơi Năm Trược, nước ấy cũng trong; đẩy đường thiện về Tám Cửa [Bát Quan Trai], hữu tình thành Phật).”
(和羅飯): từ gọi tắt của Bát Hòa La Phạn (缽和羅飯). Bát Hòa La (缽和羅、鉢和羅、盋和羅) là âm dịch của từ Phạn ngữ pravāraṇā (s.) và pavāraṇā (p.); còn có một số âm dịch khác như Bát Lợi Bà Thích Noa (鉢利婆刺拏), Bát Hòa Lan (缽和蘭、鉢和蘭); ý dịch là đầy đủ, vui vẻ, việc tùy ý, tùy theo ý của người khác mà tự thân mình nêu ra những sai phạm, Tự Tứ (自恣). Theo Sa Môn Huyền Ứng (玄應, ?-?), nhân vật sống dưới thời nhà Đường, đệ tử của Huyền Trang (玄奘, 602-664), tu sĩ của Đại Tổng Trì Tự (大總持寺) ở Trường An (長安), người biên soạn bộ Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (一切經音義, 25 quyển), giải thích rằng sau An Cư là ngày Tự Tứ, tức nhằm vào Rằm tháng 7 (tại Việt Nam thường tổ chức vào ngày 16). Ngày này, món ăn cúng dường Tam Bảo được gọi là Hòa La Phạn, tức là món ăn Tự Tứ. Trong Vu Lan Bồn Kinh Tân Sớ (盂蘭盆經新疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 377) giải thích rõ rằng: “Thọ Bát Hòa La Phạn giả, lân mẫn thí chủ, vô trước vô tham, mỹ thực ố thực, bất sanh tăng giảm, cố danh nhất tâm (受缽和羅飯者、憐愍施主、無著無貪、美食惡食、不生增減、故名一心, người thọ nhận cơm Tự Tứ, phải biết thương xót thí chủ, không chấp trước không tham lam, thức ăn ngon hay thức ăn dở, không sinh cũng không giảm, nên gọi là nhất tâm).” Trong Tông Môn Niêm Cổ Vị Tập (宗門拈古彙集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 66, No. 1296 q.37) quyển 37 có câu: “Trai thời nhất Bát Hòa La Phạn, Thiền đạo thị phi tổng bất tri (齋時一缽和羅飯、禪道是非總不知, khi ăn một bát cơm Tự Tứ, Thiền đạo đúng sai thảy không hay).” Hay trong bài Nữ Tử Xuất Định (女子出定) của Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 11 có đoạn: “Xuất định mạn vân đàn chỉ gian, không lao thần lực bất tương quan, nhi kim quán khiết Hòa La Phạn, nhất nhật tam xan bão tiện nhàn (出定謾云彈指間、空勞神力不相關、而今慣喫和羅飯、一日三餐飽便閒, xuất định dối cho [trong khoảng] khảy móng tay, nhọc gì thần lực liên quan đây, như nay quen ăn cơm Tự Tứ, ba bữa một ngày no ngũ say).”
(慧日): mặt trời trí tuệ. Trí tuệ của Phật có thể chiếu sáng những nơi tối tăm, u ám của thế gian, cho nên được ví như là mặt trời. Như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) có câu: “Huệ nhật chiếu thế gian, tiêu trừ sanh tử vân (慧日照世間、消除生死雲, trời tuệ chiếu thế gian, tiêu trừ mây sanh tử).” Hay trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 7, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm (觀世音菩薩普門品) thứ 25, lại có câu: “Huệ nhật phá chư ám, năng phục tai phong hỏa (慧日破諸闇、能伏災風火, trời tuệ phá tối tăm, hàng phục tai gió lửa).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Trùng Khắc Ngũ Đăng Hội Nguyên Tự (重刻五燈會元序), cũng có đoạn: “Toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu (遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉, bèn khiến tông phong lan khắp, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đuốc soi, tối tăm sáng tỏ).”
(慧日): mặt trời trí tuệ. Trí tuệ của Phật có thể chiếu sáng những nơi tối tăm, u ám của thế gian, cho nên được ví như là mặt trời. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) có câu: “Huệ nhật chiếu thế gian, tiêu trừ sanh tử vân (慧日照世間、消除生死雲, trời tuệ chiếu thế gian, tiêu trừ mây sanh tử).” Hay trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 7, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm (觀世音菩薩普門品) thứ 25, lại có câu: “Huệ nhật phá chư ám, năng phục tai phong hỏa (慧日破諸闇、能伏災風火, trời tuệ phá tối tăm, hàng phục tai gió lửa).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Trùng Khắc Ngũ Đăng Hội Nguyên Tự (重刻五燈會元序), cũng có đoạn: “Toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu (遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉, bèn khiến tông phong lan khắp, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đuốc soi, tối tăm sáng tỏ).” Như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên Mục Lục (五燈會元目錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1564) lại có đoạn rằng: “Thích Ca bất xuất thế, Đạt Ma bất Tây lai, Phật pháp biến đại địa, đàm huyền khẩu bất khai; đương thử thời dã, ngữ ngôn văn tự tung tích bất lai, bổng hát cơ duyên phong mang bất lộ, đãi phù niêm hoa thị chúng, khiên khởi trần lận cát đằng, lập tuyết an tâm, đột xuất Hiện Tiền Công Án, toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu, niêm nhất hành chi thảo, pháp giới tề quan; giá xa tu thị đả ngưu, ma chuyên khởi năng tác kính, như linh đơn nhất lạp điểm thiết thành kim, chí lý nhất ngôn chuyển phàm thành Thánh (釋迦不出世、達磨不西來、佛法遍大地、譚玄口不開、當此時也、語言文字蹤跡不來、棒喝機緣鋒芒不露、逮夫拈花示眾、牽起陳爛葛藤、立雪安心、突出現前公案、遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉、拈一莖之草、法界齊觀、駕車須是打牛、磨磚豈能作鏡、如靈丹一粒點鐵成金、至理一言轉凡成聖, Thích Ca không xuất thế, Đạt Ma chẳng Tây đến, Phật pháp khắp đại địa, đàm đạo miệng chẳng bày; ngay chính lúc này, ngôn ngữ văn tự dấu tích chẳng có, đánh hét cơ duyên mũi đâm không hé, đến khi đưa hoa dạy chúng, liền khởi bày đốt dây leo, đứng tuyết an tâm, chợt xuất Hiện Tiền Công Án, bèn khiến tông phong rộng mở, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đèn soi, chúng mê hiểu ngộ; đưa một nhành cỏ dại, pháp giới cùng xem; cỡi xe nên tập đánh trâu, mài ngói làm sao thành kính; như linh đơn một viên điểm thép thành vàng, chí lý một lời chuyển phàm thành Thánh).” Trong Lễ Sám Văn (禮懺文, Taishō Vol. 85, No. 2854) có câu: “Nhược dục sám hối giả, đoan tọa quán thật tướng, chúng tội như sương lộ, huệ nhật năng tiêu trừ; thị cố ưng chí tâm, cần sám Lục Căn tội (若欲懺悔者、端坐觀實相、眾罪如霜露、慧日能消徐、是故應至心、懃懺六根罪, nếu muốn hành sám hối, ngồi ngay quán thật tướng, các tội như sương móc, trời tuệ thể tiêu trừ; cho nên phải chí tâm, siêng sám tội Sáu Căn).”
(明珠): viên ngọc sáng, còn gọi là Minh Nguyệt Châu (明月珠), Minh Nguyệt Ma Ni (明月摩尼); là viên ngọc báu sáng như mặt trăng, nên có tên gọi như vậy. Viên ngọc này có đức tánh của nước đục lắng trong. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 9, Phẩm Như Lai Tánh (如來性品) thứ 4, có đoạn: “Thí như minh châu trí trọc thủy trung, dĩ châu uy đức, thủy tức vi thanh (譬如明珠置濁水中、以珠威德、水卽爲清, ví như viên ngọc sáng đặt trong nước đục, nhờ oai đức của viên ngọc, nước liền trở thành trong).” Hay trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 16, bài Thị Hồ Băng Lăng Huyện Duẫn (示胡冰稜縣尹), lại có câu: “Ngạch thượng minh châu quang xán lạn, dạ vô ác mộng nhật vô kinh (額上明珠光燦爛、夜無惡夢日無驚, trên trán minh châu chiếu sáng rực, đêm không ác mộng ngày an tâm).” Hoặc trong Quốc Thanh Bách Lục (國清百錄, Taishō Vol. 46, No. 1934) quyển 4, phần Sắc Tạo Quốc Thanh Tự Bi Văn (敕造國清寺碑文) thứ 93, Thiên Thai Quốc Thanh Tự Trí Giả Thiền Sư Bi Văn (天台國清寺智者禪師碑文), cũng có câu: “Hộ giới như minh châu, an tâm như chỉ thủy (護戒如明珠、安心若止水, giữ giới như châu sáng, an tâm giống nước dừng).”
(吾燈嚴統, Gotōgentō): 25 quyển, 2 quyển mục lục, do Phí Ẩn Thông Dung (費隱通容) và Bách Si Hành Nguyên (百癡行元) nhà Thanh cùng soạn, san hành vào năm thứ 10 (1653) niên hiệu Thuận Trị (順治). Bất mãn với sự tồn tại của Ngũ Đăng Hội Nguyên Tục Lược (吾燈會元續略)―tác phẩm đặt trọng tâm thâu tập những Ngữ Lục của Tào Động Tông, Thông Dung cho rằng trong Ngũ Gia chỉ có Tào Động Tông là thuộc về pháp thống của hệ thống Thanh Nguyên (青原) và chủ trương các tông khác thuộc về hệ thống Nam Nhạc (南岳), cho nên ông biên tập thành bộ này. Nhân vật được thâu lục vào bộ này gồm từ 27 vị tổ của Tây Thiên, 6 vị tổ của Đông Độ cho đến những người môn hạ của phái Trạm Nhiên Viên Trừng (湛然圓澄) thuộc hệ thống Thanh Nguyên của Tào Động Tông, và những người môn hạ của phái Thiên Ẩn Viên Tu (天隱圓修) thuộc hệ thống Nam Nhạc. Nếu nhìn từ mặt lịch sử, tác phẩm này có nhiều vấn đề như điểm công nhận sự hiện hữu của Thiên Vương Đạo Ngộ (天王道悟) và cho 2 tông Vân Môn, Pháp Nhãn thuộc về môn hạ của Nam Nhạc; hay điểm thâu lục phần lớn dựa vào Ngũ Đăng Hội Nguyên (吾燈會元); hay điểm cho rằng sự kế thừa của Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經), Vô Dị Nguyên Lai (無異元來), v.v., là không rõ ràng, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập