Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Hạnh phúc là khi những gì bạn suy nghĩ, nói ra và thực hiện đều hòa hợp với nhau. (Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.)Mahatma Gandhi
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Viên Thông Tự »»
(大愚良寬, Daigu Ryōkan, 1758-1831): ca nhân, thư gia, vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Giang Hộ, húy Lương Khoan (良寬), tự Văn Hiếu (文孝), đạo hiệu Đại Ngu (大愚), xuất thân vùng Xuất Vân Khi (出雲崎, Izumozaki), Việt Hậu (越後, Echigo) trưởng nam của Sơn Bổn Tả Môn Thái Hùng (山本左門泰雄). Năm 1774, ông giao nhà lại cho người em là Do Chi (由之), theo xuất gia thọ giới với Phá Liễu (破了) ở Quang Chiếu Tự (光照寺, Kōshō-ji) vùng Ni Lại (尼瀬), Việt Hậu. Đến năm 1779, ông kế thừa dòng pháp của Quốc Tiên (國仙) ở Viên Thông Tự (圓通寺, Entsū-ji) vùng Bị Trung (僃中, Bicchū). Vào năm 1796, ông trở về cố hương, dừng chân trú tại Ngũ Hợp Am (五合庵) trên Quốc Thượng Sơn (國上山). Ông sống một đời thanh bần, thường hay đùa giỡn với con nít, và vui thú với rượu. Ông rất tinh thông thi ca, tương truyền đến cuối đời ông được thỉnh đến ở tại biệt trang của dòng họ Mộc Thôn (木村, Kimura) ở Đảo Khi (島崎, Shimazaki). Trước tác của ông có Lương Khoan Đạo Nhân Di Cảo (良寬道人遺稿) 1 quyển, Lương Khoan Vịnh Ca (良寬詠歌) 1 quyển, Thảo Đường Tập (草堂集) 2 quyển, Lương Khoan Toàn Tập (良寬全集) 2 quyển, v.v.
(大忍國仙, Dainin Kokusen, 1723-1791): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa và cuối thời Giang Hộ (江戸, Edo), húy là Quốc Tiên (國仙), thông xưng là Đại Nhẫn (大忍); xuất thân vùng Cương Thôn (岡村, Okamura), Võ Tàng (武藏, Musashi, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣]), họ Tùng Nguyên (松原). Năm lên 13 tuổi, ông theo xuất gia và thọ giới với Toàn Quốc (全國) ở Thanh Lương Tự (清涼寺) vùng Cận Giang (近江, Ōmi). Sau đó, ông từng đến tham học với các bậc cao đức như Tông Hiếu (宗孝), Tào Hải (曹海), Ngoan Cực (頑極), Duyệt Nghiêm (悅嚴), Đạo Sát (道察), và cuối cùng thì kế thừa dòng pháp của Toàn Quốc. Ông đã từng làm trú trì đời thứ 25 của Đại Tuyền Tự (大泉寺, Daisen-ji) ở vùng Võ Tàng và đời thứ 10 của Viên Thông Tự (圓通寺, Entsū-ji) ở Bị Trung (僃中, Bicchū). Trong khoảng thời gian đó, ông có khai sơn một số nơi như Chơn Như Am (眞如庵), Đại Phước Tự (大福寺), Bát Nhã Am (般若庵). Pháp từ của ông có một bậc Thiền kiệt nổi tiếng là Đại Ngu Lương Khoan (大愚良寛, Daigu Ryōkan).
(覺浪道盛, Kakurō Dōsei, 1592-1659): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Giác Lãng (覺浪), hiệu Trượng Nhân (杖人), xuất thân Phố Thành (浦城), Kiến Ninh (建寧, Tỉnh Phúc Kiến), họ Trương (張). Năm 19 tuổi, ông xuất gia ở Thoại Nham (瑞巖), rồi đến tham vấn Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經) ở Thọ Xương Tự (壽昌寺) và thọ Cụ Túc giới ở Bác Sơn (博山). Sau đó, ông lại đến hầu hạ Hối Đài Nguyên Kính (晦臺元鏡) ở Đông Uyển (東苑), pháp từ của Huệ Kinh, và có chỗ sở ngộ. Vào năm thứ 47 (1619) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), ông bắt đầu khai đường thuyết giáo ở Quốc Hoàn Tự (國懽寺). Từ đó trở đi, ông sống qua một số nơi khác như Linh Cốc Tự (靈谷寺) ở Kim Lăng (金陵, Tỉnh Giang Tô), Long Hồ Tự (龍湖寺) ở Ma Thành (麻城, Tỉnh Hồ Bắc), Thọ Xương Tự (壽昌寺) ở Tân Thành (新城, Tỉnh Giang Tây), Khuông Sơn Viên Thông Tự (匡山圓通寺), v.v. Đến năm thứ 3 (1646) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông làm trú trì Thiên Ninh Tự (天寧寺) ở Giang Nam (江南, Tỉnh Giang Tô) và xiển dương Thiền phong nơi đây. Vào ngày mồng 7 tháng 9 năm thứ 16 (1659) cùng niên hiệu trên, ông thị tịch, hưởng thọ 68 tuổi đời và 49 hạ lạp. Pháp từ của ông có 29 vị. Lưu Dư Mô (劉余謨) soạn văn bia tháp, Trúc Am Thành (竺菴成) biên tập hành trạng của ông. Suốt trong hơn 40 năm thuyết pháp của ông đều được thâu lục vào trong Thiên Giới Giác Lãng Thạnh Thiền Sư Toàn Lục (天界覺浪盛禪師全錄) 33 quyển, Thiên Giới Giác Lãng Thiền Sư Ngữ Lục (天界覺浪盛禪師語錄) 12 quyển, Thiên Giới Giác Lãng Thiền Sư Gia Hòa Ngữ Lục (天界覺浪盛禪嘉禾語錄) 1 quyển, v.v. Đặc biệt, ông còn để lại một số trước tác như Lẫm Sơn Trung Công Truyện (廩山忠公傳) 1 quyển, Phật Tổ Nguyên Lưu Tán (佛祖源流贊), Truyền Đăng Chánh Tông (傳燈正宗), Tôn Chánh Quy (尊正規), Động Tông Tiêu Chánh (洞宗標正).
(隆本良德, Ryūpon Ryōtoku, ?-?): vị Tăng của Tịnh Độ Tông sống giữa vào hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Lương Đức (良德), tự là Long Bổn (隆本), hiệu là Pháp Liên Xã (法蓮社). Ông theo học Tịnh Độ Giáo với Lương Vinh (良榮) ở Viên Thông Tự (圓通寺) vùng Hạ Dã (下野, Shimotsuke), rồi kế thừa dòng pháp của vị này và làm vị Tổ đời thứ 3 của chùa. Môn hạ của ông có Lương Hiến (良憲), Lương Điều (良調).
(梵音): còn gọi là phạm thanh (s: brahma-svara, 梵聲), một trong 32 tướng tốt của đức Phật, là âm thanh vi diệu, thanh tịnh của chư Phật, Bồ Tát, tiếng nói tròn đầy như tiếng vang của trống trời, cũng giống như tiếng chim Ca Lăng Tần Già (s:渠 karaviṅka; p: karavīka, 迦陵頻伽). Nhờ nói lời chân thật, lời nói hay, chế ngự hết thảy những lời nói xấu ác mà có được tướng tốt như vậy. Người nghe được tiếng nói như vậy, tùy theo căn cơ của mình mà có được lợi ích, sanh khởi điều tốt, cảm nhận và đoạn trừ được quyền thật lớn nhỏ, tiêu trừ mọi nghi ngờ. Tại Viên Thông Điện (圓通殿) của Giang Tâm Tự (江心寺), Ôn Châu (溫州), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có câu đối: “Quán hạnh viên thông từ quán bi quán thanh tịnh quán, âm văn tự tại diệu âm phạm âm hải triều âm (觀行圓通慈觀悲觀清淨觀、音聞自在妙音梵音海潮音, hạnh quán tròn đầy từ quán bi quán thanh tịnh quán, tiếng nghe tự tại tiếng mầu tiếng phạm tiếng hải triều).” Hay như trong Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm (觀世音菩薩普門品) thứ 25 của Kinh Pháp Hoa có đoạn: “Diệu âm quán thế âm, phạm âm hải triều âm, thắng bỉ thế gian âm, thị cố tu thường niệm (妙音觀世音、梵音海潮音、勝彼世間音、是故須常念, diệu âm, quán thế âm, phạm âm, hải triều âm, hơn cả âm thế gian kia, cho nên phải thường nhớ đến).”
(禪昌寺, Zenshō-ji): ngôi chùa của Phái Diệu Tâm Tự (妙心寺派) thuộc Lâm Tế Tông; hiệu núi là Long Trạch Sơn (龍澤山); hiện tọa lạc tại Gero-shi (下呂市), Gifu-ken (岐阜縣). Tượng thờ chính là Thích Ca Như Lai, Dược Sư Như Lai, Quan Thế Âm Bồ Tát. Huệ Tâm Tăng Đô Nguyên Tín (惠心僧都源信) là người khai sáng ra chùa. Đến khoảng niên hiệu Vĩnh Hòa (永和, 1375-1379), Trúc Xử Sùng Viên (竹處崇圓) là người khai sơn, lấy tên là Đại Hùng Sơn Viên Thông Tự (大雄山圓通寺). Sau đó, do vì gặp hỏa tai nên chùa trở thành hoang phế; nhưng đến năm 1716 thì Tam Mộc Trực Lại (三木直賴, Mitsuki Naoyori) mới cung thỉnh Minh Thục Khánh Tuấn (明叔慶俊) đến tái kiến lại chùa này, rồi đổi tên hiệu chùa và lưu truyền cho đến nay.
(園太曆, Entairyaku): bộ nhật ký của nhà công khanh Động Viện Công Hiền (洞院公賢, Tōin Kinkata, 1291-1360), hơn 120 quyển. Chánh bản hiện tồn chỉ có 1 quyển ghi năm 1311 (Ứng Trường [應長] nguyên niên). Ngoài ra, còn có lưư truyền những bản sao lục của hai nhà công khanh khác là Cam Lồ Tự Thân Trường (甘露寺親長, Kanroji Chikanaga, 1425-1500) và Tam Điều Tây Thật Long (三條西實隆, Sanjōnishi Sanetaka, 1455-1537); ghi lại các ký sự từ năm 1344 (Khang Vĩnh [康永] thứ 3) đến 1360 (Diên Văn [延文] thứ 5). Đây là bộ ký lục rất quan trọng của thời đại Nam Bắc Triều. Tên gọi Viên Thái Lịch vốn phát xuất từ xưng hiệu của Công Hiền là Viên Thái Chính Đại Thần (園太政大臣). Sau khi tác giả qua đời, tác phẩm này cũng đã trãi qua bao thăng trầm. Đến năm 1482 (Văn Minh [文明] thứ 14), hơn 120 quyển nhật ký này được chuyển nhượng cho Trung Viện Thông Tú (中院通秀) để đổi lấy hơn 1.000 xấp vải lụa. Nội dung các năm của tác phẩm này được ghi rõ trong bộ nhật ký của Trung Viện Thông Tú là Thập Luân Viện Nhập Đạo Nội Phủ Ký (十輪院入道內府記).
(圓通): lý của thật tướng chứng được diệu trí gọi là viên thông; tánh thể cùng khắp là viên, diệu dụng không ngăn ngại là thông; biến mãn cùng khắp tất cả, dung thông vô ngại. Vì chân như ngộ được nhờ trí tuệ, bản chất tồn tại của nó là tròn đầy cùng khắp, tác dụng của nó tự tại, nên được gọi là viên thông. Hoặc lấy trí tuệ để thông đạt đạo lý cũng như thật tiễn của chân như, cũng được gọi là viên thông. Như trong Tam Tạng Pháp Số (三藏法數) 46 có giải thích rằng: “Tánh thể châu biến viết viên, diệu dụng vô ngại viết thông; nãi nhất thiết chúng sanh bổn hữu chi tâm nguyên, chư Phật Bồ Tát sở chứng chi thánh địa dã (性體周徧曰圓、妙用無礙曰通、乃一切眾生本有之心源、諸佛菩薩所證之聖境也, thể tánh cùng khắp gọi là viên, diệu dụng không ngăn ngại là thông, là nguồn tâm vốn có của hết thảy chúng sanh, là thánh địa chứng được của chư Phật, Bồ Tát).” Hay trong Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ (楞嚴經正脈疏, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 12, No. 275) quyển 5 có câu: “Viên thông tức Lục Căn hỗ dụng, châu biến viên dung chi quả (圓通卽六根互用、周遍圓融之果, viên thông tức là sáu căn cùng tác dụng lẫn nhau, là quả cùng khắp viên dung).” Trong bài thơ Vãn Tập Nam Lâu (晚集南樓) của Phạm Thành Đại (范成大, 1126-1193) nhà Tống có câu: “Lãn chuyết dĩ thành Tam Muội giải, thử sanh hoàn ký nhất viên thông (懶拙已成三昧解、此生還記一圓通, lười vụng đã thành Tam Muội rõ, đời này rốt cuộc một viên thông).” Hoặc trong bài thơ Phụng Tặng Hành Sư Tham Thận Thiền Sư (奉贈行師參愼禪師) của Thẩm Liêu (沉遼, 1032-1085) nhà Tống lại có câu: “Quan Âm nhị thập ngũ viên thông, chỉ tại Thiền sư nhất chỉ trung (觀音二十五圓通、止在禪師一指中, Quan Âm hai mươi lăm viên thông, ngay tại Thiền sư ngón tay trong).” Trong hàng ngũ 25 vị Thánh của Hội Lăng Nghiêm, Nhĩ Căn Viên Thông (耳根圓通, lỗ tai nghe thông suốt cùng khắp) của Bồ Tát Quan Thế Âm (s: Avalokiteśvara, 觀世音) được xem như là trên hết, nên được gọi là Viên Thông Tôn (圓通尊), Viên Thông Đại Sĩ (圓通大士). Như có bài tán về vị Bồ Tát này rằng: “Quan Âm Đại Sĩ, tất hiệu viên thông, thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm, khổ hải độ mê tân, cứu khổ tầm thanh, vô sát bất hiện thân (觀音大士、悉號圓通、十二大願誓宏深、苦海度迷津、救苦尋聲、無剎不現身, Quan Âm Đại Sĩ, hiệu là viên thông, mười hai nguyện lớn thệ khắp cùng, biển khổ độ bến mê, cứu khổ tầm thanh, khắp chốn đều hiện thân).”
(圓通): biến mãn cùng khắp tất cả, dung thông vô ngại; tức chỉ cho lý của thật tướng chứng được nhờ trí tuệ vi diệu của bậc thánh. Do nhờ trí tuệ ngộ được chơn như, bản chất tồn tại của vị ấy tròn đầy cùng khắp, tác dụng tự tại; đó gọi là viên thông. Hơn nữa, lấy trí tuệ để thông đạt đạo lý hay thực tiễn của chơn như, cũng có thể gọi là viên thông. Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂首楞嚴經) quyển 5 cho rằng 25 vị Bồ Tát đều có đủ viên thông; có 25 loại viên thông như Sáu Trần, Sáu Căn, Sáu Thức, Bảy Đại, v.v. Ngoài ra, trong số 25 vị thánh của Hội Lăng Nghiêm, Quan Thế Âm được xem như là vị Bồ Tát có Nhĩ Căn Viên Thông bậc nhất; nên được gọi là Viên Thông Tôn (圓通尊), Viên Thông Đại Sĩ (圓通大士). Trong bài kệ xưng tán Bồ Tát Quan Thế Âm có câu: “Quan Âm Đại Sĩ, tất hiệu Viên Thông, Thập Nhị Đại Nguyện thệ hoằng thâm, khổ hải độ mê tân, cứu khổ tầm thanh, vô sát bất hiện thân (觀音大士、悉號圓通、十二大願誓弘深、苦海度迷津、救苦尋聲、無剎不現 身, Quan Âm Đại Sĩ, ấy hiện Viên Thông, Mười Hai Nguyện Lớn thệ rộng sâu, biển khổ độ quần mê, cứu khổ tìm thanh, không đâu chẳng hiện thân).” Hay như tại Viên Thông Điện (圓通殿) của Giang Tâm Tự (江心寺) ở Ôn Châu (溫州), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có câu đối rằng: “Quán hạnh viên thông từ quán bi quán thanh tịnh quán, âm văn tự tại diệu âm Phạm âm hải triều âm (觀行圓通慈觀悲觀清淨觀、音聞自在妙音梵音海潮音, quán hạnh tròn suốt quán từ quán bi quán thanh tịnh, tiếng nghe tự tại tiếng mầu tiếng Phạm tiếng tự tại).” Hoặc như tại Quan Âm Tự (觀音寺), vùng Tân Đô (新都), Tỉnh Tứ Xuyên (四川省) cũng có câu đối tương tợ như vậy: “Quán ngã quán nhân quán tự tại, (觀我觀人觀自在、大悲大願大圓通, quán ta quán người quán tự tại, đại bi đại nguyện đại viên thông).” Câu “nhân nhân ngộ Tự Tại chi âm, các cá nhập Viên Thông chi cảnh (人人悟自在之音、个个入圓通之境)” ở trên có nghĩa là mỗi người đều ngộ được âm thanh một cách tự tại vô ngại, và ai ai cũng được thể nhập vào cảnh giới tròn đầy thông suốt của chơn như.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.231 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập