Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vi Lâm Đạo Bái »»
(震旦, Shintan): tên gọi khác của Trung Quốc, người Ấn Độ cổ đại thường gọi người Trung Quốc là Cīna-sthāna. Từ này đôi khi cũng được viết là Chấn Đán (振旦) hay Chân Đan (眞丹). Như trong Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, CBETA No. 1594) quyển 20 có câu: “A Dục Vương tàng Như Lai Xá Lợi ư thiên hạ, phàm bát vạn tứ thiên sở, kim Chấn Đán cảnh trung, thập hữu cửu xứ (阿育王藏如來舍利於天下、凡八萬四千所、今震旦境中、十有九處, A Dục Vương lưu giữ xá lợi của đức Như Lai khắp thiên hạ, có tám vạn bốn ngàn nơi; nay trong nước Trung Quốc, có mười chín chỗ).” Hay như trong Bài Tặng Nhật Quốc Huyền Quang Thiền Sư (贈日國玄光禪師) của Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Hoàn Sơn Lục (爲霖道霈禪師還山錄, CBETA No. 1440) quyển 3 có đoạn: “Hào tướng phóng quang lai Chấn Đán, độc am độc ngữ biến tùng lâm, hà đảm đại pháp thi toàn lực, tông thuyết viên minh quán cổ kim (毫相放光來震旦、獨菴獨語遍叢林、荷擔大法施全力、宗說圓明貫古今, tướng tốt phóng quang về Chấn Đán, một am thuyết khắp chốn tùng lâm, nặng mang pháp lớn dốc toàn lực, truyền bá tông phong thấu cổ kim).”
(洞上古轍, Dōjōkotetsu): 2 quyển, trước tác của Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢) nhà Minh, do Vi Lâm Đạo Bái (爲林道霈) biên tập, san hành trong khoảng thời gian niên hiệu Khang Hy (康熙, 1662-1722). Đây là tác phẩm do Vĩnh Giác Nguyên Hiền―pháp từ của Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經)―viết vào năm thứ 17 (1644) niên hiệu Sùng Trinh (崇貞) để đính chính những sai lầm của chư vị cổ đức và truyền đạt cốt tủy tông chỉ của Tào Động Tông. Quyển thượng có Tham Đồng Khế Chú (參同契註), Bảo Kính Tam Muội Chú (寳鏡三昧註), Ngũ Vị Thuyết Chú (五位說註), Thập Huyền Đàm Chú (十玄談註), v.v.; quyển hạ có tựa đề là Tiên Đức Vi Ngôn (先德微言), nêu lên cương lĩnh tông môn của Vạn Tùng Hành Tú (萬松行秀) và thêm vào lời bình xướng.
(湧[涌]泉寺, Yūsen-ji): ngôi danh lam cổ sát hiện tọa lại dưới chân núi Bạch Vân Phong (白雲峰) thuộc Cổ Sơn (鼓山), phía Đông Huyện Mân (閩縣), Phủ Phúc Châu (福州府, Tỉnh Phúc Kiến). Xưa kia, trên Bạch Vân Phong có một hồ nước, có con độc long sống trong đó và thường xuyên nhiễu hại dân lành. Vào năm thứ 4 (783) niên hiệu Kiến Trung (建中) nhà Đường, vị quan Tùng Sự Bùi Trụ (裴冑) cung thỉnh tu sĩ Linh Kiệu (靈嶠) đến tụng Kinh Hoa Nghiêm (華嚴經) bên hồ, con rồng kia nhân nghe pháp mà bỏ đi nơi khác. Do đó, nơi đây một ngôi chùa được dựng lên với tên gọi ban đầu là Hoa Nghiêm Tự (華嚴寺). Về sau, nhân gặp phải nạn phá Phật Hội Xương (會昌), chúng tăng bỏ chạy tứ tán nên chùa trở thành hoang phế. Trải qua 70 năm, đến năm thứ 2 (908) niên hiệu Khai Bình (開平) nhà Lương, vua nhà Mân là Thẩm Tri (審知) trùng hưng lại chùa này, cung thỉnh Thần Yến (神晏, tức Hưng Thánh Quốc Sư [興聖國師])―pháp từ của Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存)―đến làm trú trì đời thứ nhất. Tại đây, Thần Yến bắt đầu cử xướng tông phong của thầy mình, tương truyền chúng hội thường có đến vạn người. Sau đó, các pháp từ của Thần Yến như Trí Nghiêm (智嚴, tức Liễu Giác Đại Sư [了覺大師]), Trí Nhạc (智岳, tức Liễu Tông Đại Sư [了宗大師]), Thanh Ngạc (清諤, tức Tông Hiểu Thiền Sư [宗曉禪師]), v.v., kế tiếp sự nghiệp tôn sư duy trì Thiền môn. Đến năm thứ 5 (915) niên hiệu Càn Hóa (乾化), chùa được ban sắc ngạch là Cổ Sơn Bạch Vân Phong Dũng Tuyền Viện (鼓山白雲峰湧泉院). Dưới thời nhà Tống, chùa lại được đổi thành Hoa Nghiêm Tự. Vào đầu niên hiệu Thuận Trị (順治, khoảng 1644) nhà Minh, Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢) đến trú nơi đây và tiến hành trùng tu toàn bộ; sau đó Vi Lâm Đạo Bái (爲霖道霈) cũng có trú trì nơi đây.
(禪海十珍, Zenkaijicchin): 1 quyển, do Vi Lâm Đạo Bái (爲霖道霈) nhà Minh biên tập, san hành năm thứ 26 (1687) niên hiệu Khang Hy (康熙) nhà Thanh. Vi Lâm Đạo Bái—pháp từ của Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢)—đặc biệt soạn ra 10 thiên từ trong Thiền Hải Pháp Bảo (禪海法寶), ghi lời niêm vào trong cương tông và luận bình về yếu chỉ của chúng với mục đích làm sách gối đầu cho những người sơ tâm tham học. Mười thiên gồm: Thất Phật Truyền Pháp Kệ (七佛傳法偈), Nhập Đạo Tứ Hành (入道四行) của Bồ Đề Đạt Ma (菩提達磨), Tín Tâm Minh (信心銘) của Tam Tổ Tăng Xán (僧璨), Nhị Chủng Tam Muội (二種三昧) của Lục Tổ Huệ Năng (慧能), Chứng Đạo Ca (證道歌) của Vĩnh Gia (永嘉), Tham Đồng Khế (參同契) của Thạch Đầu (石頭), pháp ngữ của Lâm Tế (臨濟), Bảo Kính Tam Muội (寶鏡三昧) của Động Sơn (洞山), Thập Huyền Đàm (十玄談) của Đồng An (同安), và Cửu Đới (九帯) của Phù Sơn (浮山). Tác phẩm này được san hành tại Thánh Tiễn Đường (聖箭堂) ở Cổ Sơn (鼓山) và tại Nhật có bản san hành vào năm thứ 8 (1695) niên hiệu Nguyên Lộc (元祿).
(坐化): tín đồ Phật Giáo ngồi ngay ngắn, an nhiên mà chết, gọi là tọa hóa. Thuật ngữ này thường xuất hiện trong các thư tịch Phật Giáo. Như trong Tây Quy Trực Chỉ (西歸直指, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1173) quyển 4, phần Cửu Pháp Hoa (久法華), có đoạn: “Cư Minh Châu, thường tụng Pháp Hoa, nguyện sanh Tịnh Độ, thời hiệu Cửu Pháp Hoa; Thiên Hựu bát niên, niên bát thập nhất, tọa hóa, tam nhật hậu phục tô (居明州、常誦法華、願生淨土、時號久法華、天祐八年、年八十一、坐化、三日後復蘇, ông sống ở Minh Châu, thường tụng kinh Pháp Hoa, nguyện sanh về Tịnh Độ, đương thời gọi ông là Cửu Pháp Hoa; vào năm thứ 8 [911] niên hiệu Thiên Hựu, lúc 81 tuổi, ông ngồi an nhiên ra đi, ba ngày sau thì sống lại).” Hay trong Chỉ Nguyệt Lục (指月錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 83, No. 1578) quyển 6, phần Ngưu Đầu Sơn Trí Uy Thiền Sư (牛頭山智威禪師), lại có đoạn: “Đại Lịch tứ niên lục nguyệt thập ngũ nhật, tập tăng Bố Tát ngật, mạng thị giả tịnh phát dục thân, chí dạ hữu thụy vân phú kỳ Tinh Xá, thiên nhạc tứ văn, cật đán di nhiên tọa hóa (大曆四年六月十五日、集僧布薩訖、命侍者淨髮浴身、至夜有瑞雲覆其精舍、天樂四聞、詰旦怡然坐化, vào ngày rằm tháng 6 năm thứ 4 [769] niên hiệu Đại Lịch, Thiền Sư tập trung tăng chúng Bố Tát xong, bảo thị giả cạo tóc tắm rửa thân thể sạch sẽ, đến đêm có đám mây lành che phủ Tinh Xá của ngài, nhạc trời nghe khắp bốn phía, sáng sớm hôm sau thì Thiền Sư ngồi an nhiên ra đi).” Hoặc trong Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Bỉnh Phất Ngữ Lục (爲霖道霈禪師秉拂語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1438) quyển Hạ, phần Tháp Chí (塔誌), lại có đoạn: “Ư Thanh Thuận Trị Đinh Dậu cửu nguyệt sơ nhất nhật thị vi dạng, thập nguyệt sơ thất nhật Tý thời thuyết kệ từ chúng, nguy nhiên tọa hóa, xuân thu bát thập, Lạp tứ thập hữu nhất (於清順治丁酉年九月初一日示微恙、十月初七日子時說偈辭眾、危然坐化、春秋八十、臘四十有一, vào ngày mồng một tháng 9 năm Đinh Dậu [1657] niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh, Thiền Sư nhuốm bệnh nhẹ; đến giờ Tý ngày mồng 7 tháng 10, sư nói kệ từ giã đại chúng, ngồi ngay ngắn an nhiên ra đi, hưởng thọ 80 tuổi đời, 41 Hạ Lạp).”
(塵剎): trần (塵) có nghĩa là bụi bặm, sát (s: kṣetra, 剎) chỉ cho quốc độ; như vậy trần sát có nghĩa là các quốc độ nhiều vô lượng vô biên, không thể tính đếm được như cát bụi. Trong thời công phu khuya của Thiền môn, có bài kệ tụng của Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú (大佛頂首楞嚴神咒) với câu: “Tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân (將此深心奉塵剎、是則名爲報佛恩, lấy thâm tâm này phụng sự khắp mọi nơi, đó mới đúng là báo ơn Phật).” Hay như trong Tục Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận (續淨土生無生論) của Vi Lâm Đạo Bái (爲霖道霈, 1615-1702) ở Mân Cổ Sơn (閩鼓山) có đoạn: “Ngã kim hiện tiền niệm Phật, nguyện sanh Tịnh Độ, mông Phật thọ ký, phân thân trần sát, nhiếp hóa chúng sanh, thị bồ tát pháp giới (我今現前念佛、願生淨土、蒙佛授記、分身塵剎、攝化眾生、是菩薩法界, ta nay trước mặt niệm Phật, nguyện sanh Tịnh Độ, mong Phật thọ ký, phân thân khắp chốn, nhiếp hóa chúng sanh, đó là pháp giới của Bồ Tát).” Lại nữa, trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集) quyển 22 cũng có đoạn: “Thiền sư kỳ ư tịch diệt định trung, chấn thanh nhất hát, trực sử đại địa nhĩ lung, chư hữu văn nhi bất kinh bố giả, tư tức khả vị tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân hỉ (禪師其於寂滅定中、振聲一喝、直使大地耳聾、諸有聞而不驚怖者、斯卽可謂將此深心奉塵剎、是則名爲報佛恩矣, trong khi nhập định tịch diệt, Thiền sư thét lên một tiếng chấn động, trực tiếp khiến cho đại địa điếc tai; nếu có ai nghe mà không sợ hãi, người đó có thể gọi là lấy thâm tâm này phụng sự khắp tất cả, đó mới gọi là báo ơn Phật vậy).” Ngoài ra, trong bài xưng tán Quán Thế Âm Bồ Tát có câu: “Quan Âm Bồ Tát diệu nan thù, thanh tịnh trang nghiêm lũy kiếp tu, Tam Thập Nhị Ứng biến trần sát, bách thiên vạn kiếp hóa Diêm Phù, bình trung Cam Lồ thường thời sái, thủ nội dương liễu bất kế thu, thiên xứ kỳ cầu thiên xứ hiện, khổ hải thường tác độ nhân chu (觀音菩薩妙難酬、清淨莊嚴累劫修、三十二應遍塵剎、百千萬劫化閻浮、瓶中甘露常時洒、手內楊柳不計秋、千處祈求千處現、苦海常作度人舟, Quan Âm Bồ Tát mầu khó bì, thanh tịnh trang nghiêm bao kiếp tu, ba mươi hai ứng khắp tất cả, trăm ngàn vạn kiếp hóa Diêm Phù, trong bình Cam Lồ thường lúc rưới, trong tay dương liễu chẳng kể thu, ngàn xứ có cầu ngàn xứ hiện, bể khổ thuyền từ độ người qua).”
(幽關): cõi tối tăm, u ám, thường được dùng để chỉ cho cõi Âm Ty, Địa Ngục của người chết. Trong tác phẩm Kim Bình Mai (金瓶梅), chương 66 Lan Lăng Tiếu Tiếu Sanh (蘭陵笑笑生) nhà Minh có đoạn: “Thái Ất từ tôn giáng giá lai, dạ hác u quan thứ đệ khai, đồng tử song song tiền dẫn đạo, tử hồn thọ luyện bộ vân giai (太乙慈尊降駕來、夜壑幽關次第開、童子雙雙前引導、死魂受煉步雲階, Thái Ất đức từ hạ xuống đây, hang tối cõi u dần dần khai, đồng tử hai bên trước dẫn lối, hồn chết thọ luyện lên tầng mây).” Hay như trong bài Thiền Quan Sách Tấn (禪關策進) của Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) nhà Minh có câu: “Cảnh sách tại thủ, tật khu nhi trường trì, phá tối hậu chi u quan (警策在手、疾驅而長馳、破最後之幽關, cảnh tỉnh và sách tấn vốn ở nơi tay mình, thúc chạy mau mà đuổi theo lâu dài, để phá cửa tối tăm cuối cùng).” Trong Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Xan Hương Lục (爲霖道霈禪師餐香錄CBETA No. 1439) cũng có câu: “U quan đốn phá, hiển thanh tịnh quang minh chi thân; Cực Lạc cao siêu, chứng A Bệ Bạt Trí chi địa (幽關頓破、顯清淨光明之身、極樂高超、證阿鞞跋致之地, nẻo u phá sạch, bày thanh tịnh sáng suốt ấy thân; Cực Lạc lên cao, chứng A Bệ Bạt Trí cảnh địa).” Cũng như trong Tục Truyền Đăng Lục (續傳燈錄, Taishō No. 2077) quyển 19 có đoạn: “Vụ khởi giao nguyên long ngâm thành tế, phong sanh hạm ngoại hổ khiếu đình tiền, mộc đồng chàng xuất u quan, thạch nữ phách khai kim tỏa (霧起郊源龍吟城際、風生檻外虎嘯亭前、木童撞出幽關、石女擘開金鎖, sương nổi đầu nguồn rồng gầm ngoài thành, gió sanh ngoài hiên cọp thét trước đình, người gỗ đánh ra cửa u, gái đá bữa tung khóa vàng).” Câu “mộng đoạn Nam Kha, vĩnh cách u quan chi lộ (夢斷南柯、永隔幽關之路)” có nghĩa là khi giấc mộng Nam Kha chấm dứt thì vĩnh viễn cách xa con đường dẫn đến cõi u tối của Địa Ngục, Âm Ty.
(永覺元賢, Yōkaku Genken, 1578-1657): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, hiệu là Vĩnh Giác (永覺), vì ông từng sống tại Cổ Sơn (鼓山) nên còn được gọi là Cổ Sơn Nguyên Hiền (鼓山元賢), xuất thân Kiến Dương (建陽), Tỉnh Phúc Kiến (福建省), họ Thái (蔡). Lúc nhỏ ông học Nho Giáo, đến năm 25 tuổi, nhân nghe vị tăng đọc kinh chợt cảm ngộ, bèn theo học với Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經) trong nhiều năm, đến năm 40 tuổi mới được thầy cho phép xuất gia và kế thừa dòng pháp. Không bao lâu sau, Huệ Kinh qua đời, ông theo thọ giới Cụ Túc với Bác Sơn Nguyên Lai (博山元來), rồi chuyển đến tu học trong mấy năm ở các nơi như Hương Lô Phong (香爐峰), Kim Tiên Am (金僊庵), Hà Sơn (荷山), v.v. Vào năm thứ 7 (1634) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), ông đến trú tại Cổ Sơn, lúc đó ông đã gần 50 tuổi. Ông từng quản lý các đạo tràng Khai Nguyên (開元), Chơn Tịch (眞寂), Bảo Thiện (寳善), v.v., và đến ngày mồng 7 tháng 10 năm thứ 14 niên hiệu Thuận Trị (順治), ông thị tịch, hưởng thọ 80 tuổi. Trước tác của ông có Động Thượng Cổ Triệt (洞上古轍), Bổ Đăng Lục (補燈錄), Kế Đăng Lục (繼燈錄), Tứ Hội Toàn Lục (四會全錄), Tịnh Từ Yếu Ngữ (淨慈要語), Kiến Châu Hoằng Thích Lục (建州弘釋錄), Chư Tổ Đạo Ảnh Tán (諸祖道影贊), Kim Cang Kinh Lược Sớ (金剛經略疏), Bát Nhã Tâm Kinh Chỉ Chưởng (般若心經指掌), v.v. Pháp từ Vi Lâm Đạo Bái (爲霖道霈) trùng biên bộ Vĩnh Giác Hòa Thượng Quảng Lục (永覺和尚廣錄).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập