Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lục Căn »»
(表): là một loại Tấu Chương thời xưa được quần thần dùng để trình cấp lên đế vương; như Xuất Sư Biểu (出師表) của Gia Cát Lượng (諸葛亮) nhà Thục Hán thời Tam Quốc (三國, 221-420), Trần Tình Biểu (陳情表) của Lý Mật (李密, 224-287), v.v. Trong bài tựa Văn Thể Minh Biện của Từ Sư Tằng có giải thích rằng: “Cổ giả hí ngôn ư quân, giai xưng thượng thư, Hán định lễ nghĩa, nãi hữu tứ phẩm, kỳ tam viết Biểu; nhiên đản dụng dĩ trần thỉnh nhi dĩ, hậu thế nhân chi, kỳ dụng tẩm quảng (古者獻言於君、皆稱上書、漢定禮儀、乃有四品、其三曰表、然但用以陳請而已、後世因之、其用寖廣, người xưa nói đùa với nhà vua, đều gọi là dâng thư lên, nhà Hán định ra lễ nghĩa, có bốn loại, loại thứ ba là Biểu; tuy nhiên chỉ dùng để bày tỏ thỉnh cầu mà thôi; đời sau nhân đó, dùng Biểu càng lúc càng rộng rãi).”
(平清盛, Taira-no-Kiyomori, 1118-1181): vị Võ Tướng sống vào cuối thời Bình An, trưởng tử của Bình Trung Thạnh (平忠盛, Taira-no-Tadamori), còn gọi là Bình Tướng Quốc (平將國), Tịnh Hải Nhập Đạo (淨海入道), Lục Ba La Mật Điện (六波羅蜜殿), v.v. Sau hai vụ loạn Bảo Nguyên (保元), Bình Trị (平治), ông thay thế dòng họ Nguyên (源, Minamoto) nắm toàn bộ thế lực, càng lúc càng thăng tiến, thậm chí làm quan cho đến chức Tùng Nhất Vị Thái Chính Đại Thần (從一位太政大臣). Con gái ông là Đức Tử (德子) được làm Hoàng Hậu của Cao Thương Thiên Hoàng (高倉天皇, Takakura Tennō, tại vị 1168-1180), rồi con trai người này là An Đức Thiên Hoàng (安德天皇, Antoku Tennō, tại vị 1180-1185) cũng được trao truyền ngôi vị; cho nên ông rất tự hào về thế lực ngoại thích của Hoàng Thất. Con cháu ông đều hiển đạt làm quan chức, cho nên đã có biết bao người rắp tâm muốn trừ khử thế lực của ông, nhưng không thành, mãi cho đến sau khi ông qua đời mấy năm, hàng cháu dòng họ Bình (平, Taira) mới thật sự diệt vong.
(葛飾北齋, Katsushika Hokusai, 1760-1849): nhà vẽ tranh Phù Thế, sống vào cuối thời Giang Hộ, sanh ra tại Giang Hộ (江戸, Edo), Tổ của Phái Cát Sức (葛飾). Ban đầu ông theo học với Thắng Xuyên Xuân Chương (勝川春章, Katsukawa Shunshō), lấy hiệu là Xuân Lãng (春朗); rồi thỉnh thoảng sau này ông đổi các hiệu khác như Tông Lý (宗理), Cuồng Họa Nhân (狂畫人), Đới Đẩu (戴斗), Vi Nhất (爲一), Vạn (卍), v.v., thông qua phong cách vẽ của ông. Ông còn học rất nhiều trường phái vẽ của phương Tây, và thành lập nên hình thức độc đáo có đặc sắc cấu thành táo bạo và sức miêu tả phi phàm. Ông còn để lại rất nhiều kiệt tác nổi tiếng về tranh phong cảnh, chim hoa, người đẹp, võ sĩ, v.v. Tác phẩm tiêu biểu của ông là Phú Nhạc Tam Thập Lục Cảnh (富嶽三十六景).
(九蓮): từ gọi tắt của Cửu Phẩm Liên Đài (九品蓮臺), là đài sen có 9 phẩm của hành giả ngồi lên khi được vãng sanh. Lúc hành giả lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng cầm đài sen đến tiếp rước, hành giả ngồi lên đài sen và hoa tự khắc dẫn đến cõi Tịnh Độ. Khi đến nơi, hoa nở ra, thân tướng đầy đủ. Phẩm vị của hành giả được phân làm 9 loại, được gọi là Cửu Phẩm Vãng Sanh (九品徃生), gồm Thượng Phẩm Thượng Sanh (上品上生), Thượng Phẩm Trung Sanh (上品中生), Thượng Phẩm Hạ Sanh (上品下生), Trung Phẩm Thượng Sanh (中品上生), Trung Phẩm Trung Sanh (中品中生), Trung Phẩm Hạ Sanh (中品下生), Hạ Phẩm Thượng Sanh (下品上生), Hạ Phẩm Trung Sanh (下品中生) và Hạ Phẩm Hạ Sanh (下品下生). Từ đó, đài sen cũng có 9 phẩm khác nhau. Các phẩm này được thuật rõ trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經). Trong đó, trừ Trung Phẩm Hạ Sanh không có tên gọi, còn lại các phẩm khác theo thứ tự có tên như sau: Kim Cang Đài (金剛臺), Tử Kim Đài (紫金臺), Kim Liên Hoa (金蓮華), Liên Hoa Đài (蓮華臺), Thất Bảo Lien Hoa (七寳蓮華), Bảo Liên Hoa (寳蓮華), Liên Hoa (蓮華) và Kim Liên Hoa (金蓮華). Như trong Huệ Lâm Tông Bổn Thiền Sư Biệt Lục (慧林宗本禪師別錄, CBETA No. 1450) có câu: “Thử phương thân dĩ tạ, Tịnh Quốc Cửu Liên khai (此方身已謝、淨國九蓮開, chốn này thân đã hết, Tịnh Độ Chín Sen khai).” Hay trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, CBETA No. 1215) cũng có câu: “Ức niệm Di Đà thanh triệt để, phản văn Phật hiệu tự ưu du, Lục Căn bất động thường điềm tĩnh, vạn pháp quy nguyên tận bãi hưu, phao khước nhân gian danh lợi sự, nhất tâm đốn nhập Cửu Liên chu (憶念彌陀清徹底、返聞佛號自優游、六根不動常恬靜、萬法歸源盡罷休、拋卻人閒名利事、一心頓入九蓮舟, nhớ niệm Di Đà trong triệt để, phản nghe Phật hiệu tự thong dong, Sáu Căn chẳng động thường điềm tĩnh, muôn pháp về nguồn dứt nghĩ luôn, vứt bỏ nhân gian danh lợi chuyện, nhất tâm vào thẳng Chín Sen thuyền).”
(s, p: Devadatta, 提婆達多): gọi tắt là Đề Bà (提婆), âm dịch là Đề Bà Đạt Đâu (提婆達兜), Địa Bà Đạt Đa (地婆達多), Đề Bà Đạt (提婆達), Điều Đạt (調達); dịch là Thiên Thọ (天壽), Thiên Nhiệt (天熱), Thiên Dữ (天與). Ông là người em họ của đức Thế Tôn, anh của A Nan (s, p: Ānanda, 阿難), con của trưởng giả Thiện Giác (善覺) và là em của công chúa Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅). Khi đức Thế Tôn về thăm cố hương của mình, ông đã cùng với những người thanh niên của dòng họ Thích Ca như A Nan, A Na Luật (s: Aniruddha, p: Anuruddha, 阿那律), Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離), v.v., đã xuất gia và theo làm đệ tử của đức Phật. Trong suốt 12 năm trường, ông thường có thiện tâm và nỗ lực tu tập, nhưng không chứng được thánh quả nên dần dần tâm ấy thối chuyển và sanh ra ác niệm. Ông càng ganh tỵ với thanh danh của Thế Tôn khi ấy càng lúc càng lên cao, nên đã kết hợp với Thái Tử A Xà Thế (s: Ajātaśatru, p: Ajātasattu, 阿闍世) nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), tìm cách chiếm đoạt ngôi vị quốc vương và pháp vương. Riêng A Xà Thế thì đã chiếm được ngôi vị quốc vương thay cho vua cha Tần Bà Sa La (s, p: Bimbisāra, 頻婆娑羅), nhưng Đề Bà Đạt Đa thì không đạt được nguyện vọng lãnh đạo giáo đoàn thay thế đức Thế Tôn. Hơn nữa, chính ông đã chủ trương thanh lọc hóa giáo đoàn và yêu cầu quy định về nếp sống sinh hoạt nghiêm túc của các Tỳ Kheo, nhưng rồi vẫn không được tán đồng, cho nên ông đã thống lãnh 500 vị Tỳ Kheo phụ họa theo ý kiến của ông để tiến hành ý định muốn biệt lập giáo đoàn, nhưng cuối cùng vẫn không đạt được mục đích của mình. Ông đã rắp tâm lăn đá từ trên Linh Thứu Sơn (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 靈鷲山) xuống để giết hại đức Thế Tôn, nhưng may thay những mảnh vụn đá chỉ làm tổn thương nhẹ ngón chân của đức Phật mà thôi. Bằng tất cả các phương kế của mình, Đề Bà Đạt Đa lại thả con voi say với ý đồ muốn sát hại đức Phật, nhưng con voi kia lại quy phục theo Phật. Với những việc làm như vậy, ông đã phạm vào các nghịch tội như phá hòa hợp tăng, làm cho thân Phật chảy máu, giết hại Tỳ Kheo Ni, v.v., cho nên khi qua đời, ông bị đọa xuống địa ngục Vô Gián.
(度牒, dochō): còn gọi là Độ Duyên (度緣), là giấy chứng nhận do quan phủ cấp khi Tăng Ni xuất gia, tức Chứng Điệp Tu Sĩ, trên đó có ghi ngày tháng năm xuất gia, tên các vị quan chứng minh và dấu ấn. Dưới thời Bắc Ngụy đã tồn tại chế độ này rồi. Vào năm thứ 17 (729) niên hiệu Khai Nguyên (開元) nhà Đường, nhà vua hạ chiếu ra lệnh tất cả Tăng Ni trong thiên hạ phải làm Tăng Tịch. Theo phần Từ Bộ Điệp Phụ (祠部牒附) của Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) quyển Trung, ở Trung Quốc, chế độ này được bắt đầu tiến hành vào năm thứ 6 (747) niên hiệu Thiên Bảo (天寳) đời vua Huyền Tông (玄宗), nhà vua ra lệnh cho tăng ni phải lệ thuộc vào vị quan sứ công đức, do Từ Bộ Ty (祠部司) của Thượng Thư Tỉnh (尚書省) cấp, cho nên nó được gọi là Từ Bộ Điệp (祠部牒). Các Tăng Ni lấy điệp này làm bằng chứng về thân phận của mình và có thể được miễn lao dịch. Vào năm thứ 10 (856) niên hiệu Đại Trung (大中) đời vua Tuyên Tông (宣宗), người ta bắt đầu tiến hành cấp giấy chứng nhận thọ giới cho các giới tử đã đăng đàn thọ giới. Nó được gọi là Giới Điệp (戒牒). Vị tăng nào không có Độ Điệp, được gọi là Tư Độ Tăng (私度僧), tức không được quan lại địa phương công nhận và chế độ này kéo dài cho đến thời nhà Thanh thì chấm dứt. Đến thời Dân Quốc, Hội Phật Giáo Trung Quốc có cấp cho Tăng Ni Giới Điệp, chứ không phải Độ Điệp. Tại Nhật Bản, nó cũng được thi hành từ sau thời Nại Lương (奈良, Nara), khi xuất gia thì được cấp Độ Điệp và khi thọ giới thì được cấp Giới Điệp. Về sau, chế độ này càng lúc càng lỏng lẻo. Dưới thời Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) của Nhật Bản, Thiền Sư Phật Thừa (佛乘, Busshō) đã cấp trong 1 ngày cả 2 điệp này. Từ sau thời Minh Trị (明治, Meiji) trở đi, vị Quản Trưởng của các tông phái chịu trách nhiệm cấp Chứng Điệp này.
(華夏): từ người Trung Quốc tự hào về đất nước mình và tự xưng như vậy, có nghĩa là đất nước to lớn, phát triển văn minh rực rỡ. Như trong Thích Môn Chánh Thống (釋門正統, CBETA No. 1513) quyển 4 có câu: “Ngã Tống nhân như thiên, Thần Võ nhi bất sát, Hoa Hạ cập man mạch, thai noãn kị hóa thấp, giai quy háo sanh đức, duy khủng nhất vật thất (我宋仁如天、神武而不殺、華夏及蠻貊、胎卵暨化濕、皆歸好生德、惟恐一物失, nhà Tống nước ta nhân từ như trời, vua Thần Võ không sát sanh, Trung Hoa và chư hầu, loài sanh bằng thai, trứng, hóa sanh và thấp sanh, đều có đức ham sống, chỉ sợ một vật mất đi).” Hay như trong Tỉnh Am Pháp Sư Ngữ Lục (省菴法師語錄, CBETA No. 1179) cũng có đoạn: “Cư ư Hoa Hạ, Lục Căn vô dạng, Tứ Đại khinh an, cụ hữu tín tâm, hạnh vô ma chướng, huống kim ngã đẳng hựu đắc xuất gia, hựu thọ cụ giới, hựu ngộ đạo tràng, hựu văn Phật pháp, hựu chiêm Xá Lợi, hựu tu sám pháp, hựu trị thiện hữu, hựu cụ thắng duyên (居於華夏、六根無恙、四大輕安、具有信心、幸無魔障、況今我等又得出家、又受具戒、又遇道塲、又聞佛法、又瞻舍利、又修懺法、又值善友、又具勝緣, sanh nơi Trung Hoa, sáu căn không bệnh, bốn đại nhẹ nhàng, có đủ tín tâm, may chẳng ma chướng, huống nay chúng ta lại được xuất gia, lại thọ giới pháp, lại gặp đạo tràng, lại nghe Phật pháp, lại thấy Xá Lợi, lại tu sám hối, lại gặp bạn tốt, lại đủ duyên lành).”
(慧眼): có ba nghĩa khác nhau. (1) Là thuật ngữ Phật Giáo, chỉ cho một trong Ngũ Nhãn (s: pañca cakṣūṃṣi, p: pañca cakkhūni, 五眼), tức là con mắt trí tuệ của Nhị Thừa; cũng chỉ chung cho trí tuệ có thể chiếu thấy rõ thật tướng của các pháp. Như trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475), quyển Trung, Phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn (入不二法門品) có giải thích về Huệ Nhãn rằng: “Thật kiến giả thượng bất kiến thật, hà huống phi thật, sở dĩ giả hà ? Phi nhục nhãn sở kiến, Huệ Nhãn nãi năng kiến, nhi thử Huệ Nhãn, vô kiến vô bất kiến, thị vi nhập Bất Nhị pháp môn (實見者尚不見實、何況非實、所以者何、非肉眼所見、慧眼乃能見、而此慧眼、無見無不見、是爲入不二法門, cái thấy thật còn không thấy thật thay, huống gì chẳng phải thật, vì cớ sao vậy ? Chẳng phải mắt thịt thấy được, mà Huệ Nhãn [con mắt trí tuệ] mới có thể thấy, mà Huệ Nhãn này, không thấy và không phải không thấy, đó là đi vào pháp môn Không Hai).” Hay trong bài thơ Tặng Am Trung Lão Tăng (贈庵中老僧) của Đường Thuận Chi (唐順之, 1507-1560) nhà Minh có câu: “Nghiệp tịnh Lục Căn thành Huệ Nhãn, thân vô nhất vật ký mao am (業淨六根成慧眼、身無一物寄茅庵, nghiệp sạch Sáu Căn thành Huệ Nhãn, thân không một vật gởi am tranh).” Trong Viên Giác Kinh Giáp Tụng Tập Giải Giảng Nghĩa (圓覺經夾頌集解講義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 10, No. 253) còn cho biết rằng: “Thâm ngộ luân hồi tức Huệ Nhãn, phân biệt tà chánh tức Pháp Nhãn; nhiên Huệ Nhãn chứng chơn, Pháp Nhãn đạt sự; hựu Huệ Nhãn tức Căn Bản Trí, Pháp Nhãn tức Hậu Đắc Trí (深悟輪迴卽慧眼、分別邪正卽法眼、然慧眼證眞、法眼達事、又慧眼卽根本智、法眼卽後得智, biết sâu luân hồi tức là Huệ Nhãn, phân biệt đúng sai tức là Pháp Nhãn; tuy nhiên Huệ Nhãn thì chứng chơn, Pháp Nhãn thì đạt về sự; lại nữa, Huệ Nhãn tức là Căn Bản Trí, Pháp Nhãn tức là Hậu Đắc Trí).” (2) Nhãn lực nhạy bén, tinh anh. Như trong tập Âu Bắc Thi Thoại (甌北詩話), bài Ngô Mai Thôn Thi (吳梅村詩) của Triệu Dực (趙翼, 1727-1814) nhà Thanh có câu: “Thử thi nhân huệ nhãn, thiện ư thủ đề xứ (此詩人慧眼、善於取題處, con mắt nhạy bén của nhà thơ này, khéo ở chỗ nắm bắt đề tài).” Hay trong tập Dạ Thu Vũ Đăng Lục (夜雨秋燈錄), Truyện A Hàn (阿韓傳) của tiểu thuyết gia Tuyên Đỉnh (宣鼎, 1832-1880) nhà Thanh lại có câu: “Nhi Hàn năng ư phong trần trung độc cụ tuệ nhãn, nữ hiệp dã (而韓能於風塵中獨具慧眼、女俠也, mà trong phong trần, riêng một mình A Hàn có thể có đủ con mắt tinh anh, đúng là nữ hiệp vậy).” (3) Chỉ cho tròng mắt đẹp. Như trong tập đề vịnh Hồng Vi Cảm Cựu Ký (紅薇感舊記) do Phó Truân Cấn (傅屯艮, 1883-1930, tự Văn Lương [文渠]) sáng tác, có câu: “Năng tương huệ nhãn khán tài tử, khảng khái bi ca úy tịch liêu (能將慧眼看才子、慷慨悲歌慰寂寥, thường lấy mắt đẹp nhìn tài tử, hăng hái buồn ca sợ tịch liêu).”
(慧日): mặt trời trí tuệ. Trí tuệ của Phật có thể chiếu sáng những nơi tối tăm, u ám của thế gian, cho nên được ví như là mặt trời. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) có câu: “Huệ nhật chiếu thế gian, tiêu trừ sanh tử vân (慧日照世間、消除生死雲, trời tuệ chiếu thế gian, tiêu trừ mây sanh tử).” Hay trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 7, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm (觀世音菩薩普門品) thứ 25, lại có câu: “Huệ nhật phá chư ám, năng phục tai phong hỏa (慧日破諸闇、能伏災風火, trời tuệ phá tối tăm, hàng phục tai gió lửa).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Trùng Khắc Ngũ Đăng Hội Nguyên Tự (重刻五燈會元序), cũng có đoạn: “Toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu (遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉, bèn khiến tông phong lan khắp, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đuốc soi, tối tăm sáng tỏ).” Như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên Mục Lục (五燈會元目錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1564) lại có đoạn rằng: “Thích Ca bất xuất thế, Đạt Ma bất Tây lai, Phật pháp biến đại địa, đàm huyền khẩu bất khai; đương thử thời dã, ngữ ngôn văn tự tung tích bất lai, bổng hát cơ duyên phong mang bất lộ, đãi phù niêm hoa thị chúng, khiên khởi trần lận cát đằng, lập tuyết an tâm, đột xuất Hiện Tiền Công Án, toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu, niêm nhất hành chi thảo, pháp giới tề quan; giá xa tu thị đả ngưu, ma chuyên khởi năng tác kính, như linh đơn nhất lạp điểm thiết thành kim, chí lý nhất ngôn chuyển phàm thành Thánh (釋迦不出世、達磨不西來、佛法遍大地、譚玄口不開、當此時也、語言文字蹤跡不來、棒喝機緣鋒芒不露、逮夫拈花示眾、牽起陳爛葛藤、立雪安心、突出現前公案、遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉、拈一莖之草、法界齊觀、駕車須是打牛、磨磚豈能作鏡、如靈丹一粒點鐵成金、至理一言轉凡成聖, Thích Ca không xuất thế, Đạt Ma chẳng Tây đến, Phật pháp khắp đại địa, đàm đạo miệng chẳng bày; ngay chính lúc này, ngôn ngữ văn tự dấu tích chẳng có, đánh hét cơ duyên mũi đâm không hé, đến khi đưa hoa dạy chúng, liền khởi bày đốt dây leo, đứng tuyết an tâm, chợt xuất Hiện Tiền Công Án, bèn khiến tông phong rộng mở, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đèn soi, chúng mê hiểu ngộ; đưa một nhành cỏ dại, pháp giới cùng xem; cỡi xe nên tập đánh trâu, mài ngói làm sao thành kính; như linh đơn một viên điểm thép thành vàng, chí lý một lời chuyển phàm thành Thánh).” Trong Lễ Sám Văn (禮懺文, Taishō Vol. 85, No. 2854) có câu: “Nhược dục sám hối giả, đoan tọa quán thật tướng, chúng tội như sương lộ, huệ nhật năng tiêu trừ; thị cố ưng chí tâm, cần sám Lục Căn tội (若欲懺悔者、端坐觀實相、眾罪如霜露、慧日能消徐、是故應至心、懃懺六根罪, nếu muốn hành sám hối, ngồi ngay quán thật tướng, các tội như sương móc, trời tuệ thể tiêu trừ; cho nên phải chí tâm, siêng sám tội Sáu Căn).”
(s: ṣaḍ-pāramitā, ṣaṭ-pāramitā, 六度): tức Lục Ba La Mật (六波羅蜜), Lục Ba La Mật Đa (六波羅蜜多), Lục Độ Ba La Mật (六度波羅蜜), còn gọi là Lục Độ Vô Cực (六度無極), Lục Đáo Bỉ Ngạn (六到彼岸). Ba La Mật (s, p: pāramitā, 波羅蜜) dịch là Độ (度), nghĩa là đáo bỉ ngạn (到彼岸, đến bờ bên kia), tức là đạt thành, hoàn thành lý tưởng. Đây là 6 pháp tu hành thật tiễn để thành Phật đạo của vị Bồ Tát, được giải thích rất rõ trong Phật Thuyết Bồ Tát Nội Tập Lục Ba La Mật Kinh (佛說菩薩內習六波羅蜜經, Taishō No. 778), gồm:
(1) Bố Thí Ba La Mật (s, p: dāna-pāramitā, 布施波羅蜜), còn gọi là Thí Ba La Mật (施波羅蜜), Đàn Ba La Mật (檀波羅蜜), Đàn Na Ba La Mật (檀那波羅蜜), Bố Thí Độ Vô Cực (布施度無極); có 3 loại bố thí là Tài Thí (財施, bố thí về tiền tài, vật chất), Pháp Thí (法施, bố thí lời dạy, giáo lý để tu tập và đạt được chân lý) và Vô Úy Thí (無畏施, bố thí sự không sợ hãi, giúp cho mọi người an tâm), để đối trị với sự tham lam, keo kiệt và tiêu trừ sự bần cùng.
(2) Trì Giới Ba La Mật (s: śīla-pāramitā, p: sīla-pāramitā, 持戒波羅蜜), còn gọi là Giới Ba La Mật (戒波羅蜜), Thi La Ba La Mật (尸羅波羅蜜), Giới Độ Vô Cực (戒度無極); giữ gìn giới luật đã lãnh thọ, thường tự tỉnh thức, có thể đối trị ác nghiệp, khiến cho thân tâm thanh tịnh.
(3) Nhẫn Nhục Ba La Mật (s: kṣānti-pāramitā, p: khantī-pāramitā, 忍辱波羅蜜), hay Nhẫn Ba La Mật (忍波羅蜜), Sàn Đề Ba La Mật (孱提波羅蜜), Nhẫn Nhục Độ Vô Cực (忍辱度無極); nghĩa là nhẫn nại, chịu đựng các sự bức hại, đối trị sân hận, nóng nảy, giúp cho tâm an trú.
(4) Tinh Tấn Ba La Mật (s: vīrya-pāramitā, p: virya-pāramitā, 精進波羅蜜), hay Tấn Ba La Mật (進波羅蜜), Tỳ Lê Da Ba La Mật (毘梨耶波羅蜜), Tinh Tấn Độ Vô Cực (精進度無極), nỗ lực tinh tấn tiến lên, bất khuất, không thối chí; giúp đối trị sự lười biếng, sinh trưởng các pháp lành.
(5) Thiền Định Ba La Mật (s: dhyāna-pāramitā, p: jhāna-pāramitā, 禪定波羅蜜), hay Thiền Ba La Mật (禪波羅蜜), Thiền Na Ba La Mật (禪那波羅蜜), Thiền Độ Vô Cực (禪度無極); nghĩa là tu tập Thiền định, có thể đối trị sự loạn tâm, giúp cho tâm được an định.
(6) Trí Tuệ Ba La Mật (s: prajñā-pāramitā, p: paññā-pāramitā, 智慧波羅蜜), hay Tuệ Ba La Mật (慧波羅蜜), Bát Nhã Ba La Mật (般若波羅蜜), Minh Độ Vô Cực (明度無極).
Sáu pháp này được thuyết đầu tiên trong kinh Bát Nhã và một số kinh điển Đại Thừa khác và được xem như là hạnh lý tưởng của Phật Giáo Đại Thừa. Đặc biệt, căn bản của các hạnh này có trong Bát Nhã Ba La Mật, và hạnh từ bi vốn căn cứ trên cở sở của Bát Nhã là nội dung của Lục Độ. Trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論) có đoạn: “Lục Ba La Mật giả, tức tịnh Lục Căn dã; Hồ danh Ba La Mật, Hán danh Đạt Bỉ Ngạn, dĩ Lục Căn thanh tịnh, bất nhiễm Lục Trần, tức thị độ phiền não hà, chí Bồ Đề ngạn, cố danh Lục Ba La Mật (六波羅蜜者、卽淨六根也、胡名波羅蜜、漢名達彼岸、以六根清淨、不染六塵、卽是度煩惱河、至菩提岸、故名六波羅蜜, Sáu Ba La Mật tức là làm trong sạch Sáu Căn; người Hồ [Ấn Độ] gọi là Ba La Mật, người Hán [Trung Quốc] gọi là đạt đến bờ bên kia; vì Sáu Căn trong sạch, không nhiễm Sáu Trần, tức là qua được sông phiền não, đến bờ Bồ Đề; cho nên có tên là Sáu Ba La Mật).” Hay như trong Duy Tâm Tập (唯心集, CBETA No. 1208) có đoạn: “Nhất cú A Di Đà, vạn thiện đồng đăng; nhất cú A Di Đà, Lục Độ tề hành; nhất cú A Di Đà, tịnh uế trừng thanh; nhất cú A Di Đà, Đông Tây hợp tinh; nhất cú A Di Đà, bao quát cổ kim; nhất cú A Di Đà, hàm cái càn khôn; nhất cú A Di Đà, chứng nhập vô sanh (一句阿彌陀、萬善同登、一句阿彌陀、六度齊行、一句阿彌陀、淨穢澄清、一句阿彌陀、東西合并、一句阿彌陀、包括古今、一句阿彌陀、函蓋乾坤、一句阿彌陀、證入無生, một câu A Di Đà, vạn thiện cùng lên; một câu A Di Đà, Lục Độ cùng hành; một câu A Di Đà, sạch nhớp lắng trong; một câu A Di Đà, Đông Tây hợp lại; một câu A Di Đà, bao quát cổ kim; một câu A Di Đà, trùm khắp càn khôn; một câu A Di Đà, chứng vào vô sanh).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập