Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lỗ Thị »»

(柏子): tức Bá Tử Hương (柏子香), tên một loại hương. Như trong Tú Nhu Ký (繡襦記), bài Trúc Lâm Kỳ Từ (竹林祈嗣), của Từ Lâm (徐霖, 1462-1538) nhà Minh có đoạn: “Thụy thảo mãn dao giai, bạch hạc phi lai, hương phần bá tử bích vân khai (瑞草滿瑤階、白鶴飛來、香焚柏子碧雲開, cỏ lành đầy thềm ngọc, hạc trắng về đây, đốt hương Bá Tử mây xanh bày).” Hay trong bài thơ Túc Giới Đường Phật Từ (宿芥塘佛祠) của Hạ Chú (賀鑄, 1052-1125) nhà Tống cũng có đoạn: “Khai môn vị tảo mai hoa vũ, đãi vãn tiên thiêu Bá Tử hương (開門未掃梅花雨、待晚先燒柏子香, mở cửa mưa hoa mai chưa quét, đợi tối mới xông Bá Tử hương).” Hoặc trong Thiền Tông Tạp Độc Hải (禪宗雜毒海, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1278) lại có câu: “Lô thiêu Bá Tử đoan nhiên tọa, đối nguyệt tàn kinh hựu triển khai (爐燒柏子端然坐、對月殘經又展開, lò xông Bá Tử an nhiên tọa, trăng dưới hết kinh lại mở xem).”
(鎌倉大佛, Kamakuradaibutsu): tức là Cao Đức Viện (高德院, Kōtoku-in), ngôi chùa của Phái Trấn Tây Nghĩa (鎭西義派), thuộc Tịnh Độ Tông, hiện tọa lạc tại số 4-2-28 Hase (長谷), Kamakura-shi (鎌倉市), Kanagawa-ken (神奈川縣); hiệu núi là Đại Dị Sơn (大異山), sau đổi thành Sư Tử Hống Sơn (獅子吼山); hiệu chùa là Thanh Tịnh Tuyền Tự (清淨泉寺); người đời thường gọi là Chùa Đại Phật Liêm Thương. Tượng thờ chính là A Di Đà Như Lai. Theo quy định của chính quyền Mạc Phủ Liêm Thương, Tịnh Quang (淨光, Jōkō) được phong làm Thánh Khuyến Tấn, rồi vào năm 1238 (Lịch Nhân [曆仁] nguyên niên), ông tiến hành xây dựng Điện Phật chùa, và đến năm 1243 thì làm lễ lạc thành chùa. Tiếp theo năm 1252 (Kiến Trường [建長] 4), ông tiến hành đúc tượng Phật A Di Đà Như Lai bằng đồng vàng thay cho tượng gỗ. Tương truyền vào mấy năm 1335 (Kiến Võ [建武] 2), 1369 (Ứng An [應安] 2), 1498 (Minh Ứng [明應] 7), Chánh Điện của chùa đã mấy lần bị gió cuốn bay; mãi cho đến cuối thời đại Thất Đinh, tượng Đại Phật trở thành nằm lộ thiên. Cao Đức Viện này ban đầu thuộc về Chơn Ngôn Tông, và Nhẫn Tánh (忍性, Ninshō) của Chơn Ngôn Luật Tông đã từng trú trì tại đây. Song đến thời đại Nam Bắc Triều, chùa lại thuộc về sự quản lý của Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji) thuộc Lâm Tế Tông; và đến vào khoảng giữa thời đại Giang Hộ thì chùa được chuyển sang Tịnh Độ Tông.
(魯般、魯班): xem Lỗ Thị (魯氏) bên dưới.
(南天): có mấy nghĩa. (1) Chỉ bầu trời ở phương Nam. Như trong bài thơ Bồi Tộc Thúc Diệp Du Động Đình (陪族叔曄游洞庭) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Động Đình Tây vọng Sở giang phân, thủy tận Nam thiên bất kiến vân (洞庭西望楚江分、水盡南天不見雲, Động Đình Tây ngắm sông Sở chia, nước tận trời Nam chẳng thấy mây).” (2) Chỉ cho đất nước ở phương Nam, hay Việt Nam (nghĩa trong bài). Như Thiền sư Pháp Thuận (法順, 915-990) có làm bài thơ rằng: “Quốc tộ như đằng lạc, Nam thiên lí thái bình, vô vi cư điện các, xứ xứ tức đao binh (國祚如藤絡、南天裏太平、無爲居殿閣、處處息刀兵, vận nước như dây quấn, trời Nam hưởng thái bình, an nhiên nơi điện các, chốn chốn hết đao binh).” (3) Chỉ phương Nam. Như trong bài thơ Tống Lô Thiếu Phủ Phó Diên Lăng (送盧少府赴延陵) của Lý Kì (李頎, 690-751) nhà Đường có câu: “Bắc cố ba đào hiểm, Nam thiên phong tục thù (北固波濤險、南天風俗殊, núi Bắc sóng cồn hiểm, phương Nam phong tục lạ).”
(齋壇): có hai nghĩa chính:
(1) Chỉ cho nơi cúng tế trời đất của đế vương thời cổ đại. Như trong bài thơ Tặng Trần Thương (贈陳商) của Lý Hạ (李賀, 790-816) nhà Đường có câu: “Phong tuyết trực trai đàn, mặc kinh quán đồng thụ (風雪直齋壇、墨經貫銅綬, gió tuyết thẳng đến trai đàn, chỉ đen xuyên suốt dây đồng).”
(2) Nơi các Đạo Sĩ tụng kinh, lễ bái thần linh. Như trong bài thơ Đề Chu Luyện Sư Sơn Phòng (題朱煉師山房) của Vương Xương Linh (王昌齡, 698-756) nhà Đường có câu: “Khấu xỉ phần hương xuất thế trần, trai đàn minh khánh bộ hư nhân (叩齒焚香出世塵、齋壇鳴磬步虛人, đánh răng xông hương thoát bụi trần, trai đàn tiếng khánh vọng người âm).” Theo như nghi lễ của Đạo Giáo lúc ban đầu, không chuyên thiết lập trai đàn. Theo các tư liệu cho biết rằng, thời xưa người ta thiết lập ngoài lộ thiên một đài cao bằng đất hình vuông, trên ấy đặt lò hương, cúng tế rượu, và các đạo sĩ trong núi hành lễ trên đài đó. Đến thời Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589), nghi lễ Đạo Giáo bắt đầu phát triển mạnh. Theo bản Động Huyền Linh Bảo Ngũ Cảm Văn (洞玄靈寶五感文) của đạo sĩ Lục Tu Tĩnh (陸修靜, 406-477) nhà Lưu Tống (劉宋), lễ Kim Lục Trai (金籙齋) và Hoàng Lục Trai (黃籙齋) thì cần phải thiết đàn, và đàn có nhiều tầng. Từ thời nhà Đường (唐, 618-907) và Tống (宋, 960-1279) trở về sau, nghi lễ Đạo Giáo lại càng phong phú, phức tạp hơn; cho nên đàn tràng thiết trí lại càng phồn hoa hơn. Sau thời nhà Nguyên (元, 1206-1368) và Minh (明, 1368-1662), do vì nghi lễ cúng tế rượu của Đạo Giáo dần dần thay thế cho nghi lễ cúng chay; do vậy trai đàn còn gọi là tiếu đàn (醮壇). Phật Giáo cũng lấy hình thức trai đàn này để thiết lập những đàn tràng Giải Oan Bạt Độ, Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn, v.v. Trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 17, truyện Thích Trí Khải (釋智顗, 538-597) có đoạn: “Khải hựu suất lữ kiến trai thất nhật, hành Kim Quang Minh Sám chí đệ lục tịch, hốt giáng dị điểu phi nhập trai đàn, uyển chuyển nhi tử, tu du phi khứ, hựu văn thỉ ngâm chi thanh, chúng tinh đồng chúc (顗又率侶建齋七日、行金光明懺至第六夕、忽降異鳥飛入齋壇、宛轉而死、須臾飛去、又聞豕吟之聲、眾幷同矚, Trí Khải lại cùng bạn bè thiết lập trai đàn trong bảy ngày, tiến hành pháp sám hối Kim Quang Minh đến đêm thứ sáu, chợt có một con chim lạ bay vào trong trai đàn, lượn quanh mà chết, thoáng chốc bay đi mất, rồi lại nghe tiếng lợn rên rỉ, mọi người đều trố mắt nhìn).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập