Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Kim thằng »»
(寶筏): chiếc bè quý báu. Đây là thuật ngữ Phật Giáo, tỷ dụ cho Phật pháp vi diệu, cao quý có thể dẫn dắt chúng sanh vượt qua biển khổ đạt đến bờ bên kia. Trong bài thơ Xuân Nhật Quy Sơn Ký Mạnh Hạo Nhiên (春日歸山寄孟浩然) của thi sĩ Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Kim thằng khai giác lộ, bảo phiệt độ mê xuyên (金繩開覺路、寶筏渡迷川, thừng vàng bày nẻo giác, bè báu qua sông mê).” Hay trong bài Trùng Tu Viên Gia Sơn Bi Ký (重修袁家山碑記) của Phạm Dương Tuân (范陽詢, ?-?) nhà Thanh có đoạn rằng: “Thần tiên giả dĩ kim đan vĩnh bảo tánh mạng, dĩ bảo phiệt phổ độ chúng sanh (神仙者以金丹永保性命、以寶筏普渡眾生, đấng thần tiên lấy thuốc hay giữ tánh mạng lâu dài, lấy bè báu độ khắp chúng sanh).” Trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1215) lại có câu: “Tiêu nghi tức lự tuyệt phan duyên, trì danh ức niệm ưng như thị, bảo phiệt thường đình khổ hải biên, Tây phương thắng cảnh diệu nan lường (消疑息慮絕攀緣、持名憶念應如是、寶筏常停苦海邊、西方勝境妙難量, hết nghi dứt nghĩ bặt phan duyên, trì danh tưởng niệm nên như vậy, bè báu thường dừng biển khổ bên, Tây phương thắng cảnh tuyệt khó lường).” Hoặc trong Bát Nhã Tâm Kinh Giải Nghĩa (般若心經解義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 26, No. 570) lại có câu: “Thử kinh thành liệu chúng khổ chi linh đan, độ mê tân chi bảo phiệt dã (此經誠療眾苦之靈丹、渡迷津之寶筏也, kinh này thật là linh đơn chữa trị các bệnh khổ, là bè báu đưa người qua bến mê vậy).”
(寶筏): chiếc bè quý báu. Đây là thuật ngữ Phật Giáo, tỷ dụ cho Phật pháp vi diệu, cao quý có thể dẫn dắt chúng sanh vượt qua biển khổ đạt đến bờ bên kia. Trong bài thơ Xuân Nhật Quy Sơn Ký Mạnh Hạo Nhiên (春日歸山寄孟浩然) của thi sĩ Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Kim thằng khai giác lộ, bảo phiệt độ mê xuyên (金繩開覺路、寶筏渡迷川, thừng vàng bày nẻo giác, bè báu qua sông mê).” Hay trong bài Trùng Tu Viên Gia Sơn Bi Ký (重修袁家山碑記) của Phạm Dương Tuân (范陽詢) nhà Thanh có đoạn rằng: “Thần tiên giả dĩ kim đan vĩnh bảo tánh mạng, dĩ bảo phiệt phổ độ chúng sanh (神仙者以金丹永保性命、以寶筏普渡眾生, đấng thần tiên lấy thuốc hay giữ tánh mạng lâu dài, lấy bè báu độ khắp chúng sanh).” Trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1215) lại có câu: “Tiêu nghi tức lự tuyệt phan duyên, trì danh ức niệm ưng như thị, bảo phiệt thường đình khổ hải biên, Tây phương thắng cảnh diệu nan lường (消疑息慮絕攀緣、持名憶念應如是、寶筏常停苦海邊、西方勝境妙難量, hết nghi dứt nghĩ bặt phan duyên, trì danh tưởng niệm nên như vậy, bè báu thường dừng biển khổ bên, Tây phương thắng cảnh tuyệt khó lường).” Hoặc trong Bát Nhã Tâm Kinh Giải Nghĩa (般若心經解義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 26, No. 570) lại có câu: “Thử kinh thành liệu chúng khổ chi linh đan, độ mê tân chi bảo phiệt dã (此經誠療眾苦之靈丹、渡迷津之寶筏也, kinh này thật là linh đơn chữa trị các bệnh khổ, là bè báu đưa người qua bến mê vậy).”
(岱宗心泰, Daisū Shintai, 1327-1415): vị tăng của phái Dương Kì và Đại Huệ thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Đại Tông (岱宗) hay Phật Huyễn (佛幻), xuất thân vùng Thượng Ngu (上虞, Tỉnh Triết Giang), họ Tôn (孫). Năm 15 tuổi, ông theo xuất gia với Ốc Châu Đạt (沃洲達) ở Đẳng Từ Tự (等慈寺) cũng như Đồ Văn Tẩu Ái (徒聞叟愛). Sau ông đến thọ Cụ Túc giới tại Khai Nguyên Tự (開原寺) ở Quận Thành (郡城). Từ đó, ông bắt đầu đi du phương học đạo, đến an cư tại Tây Thiên Trúc Tự (西天竺寺) ở Hàng Châu (杭州), gặp được Cổ Đỉnh Tổ Minh (古鼎祖銘) ở Kính Sơn (徑山) nên theo hầu vị này suốt 10 năm. Nhân hay tin Mộng Đường Đàm Ngạc (夢堂曇噩) hiện đang ở tại Quốc Thanh Tự (國清寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山), ông bèn đến bái yết và cuối cùng được đắc pháp. Vào năm đầu (khoảng 1368) niên hiệu Hồng Võ (洪武), ông quản lý Long Tuyền Tự (龍泉寺) ở Diêu Giang (姚江), rồi đến trú trì Đông Sơn Quốc Khánh Tự (東山國慶寺) ở Thượng Ngu, cũng như Trung Thiên Trúc Tự (中天竺寺) và Kính Sơn vào năm đầu (1403) niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂). Đến năm thứ 4 (1406) cùng niên hiệu trên, ông nhận chiếu chỉ tu chỉnh bộ Vĩnh Lạc Đại Điển (永樂大典), năm sau thì trở về núi và lui về ẩn cư ở Tịch Chiếu Am (寂照庵). Vào năm thứ 9 cùng niên hiệu trên, theo lời thỉnh cầu ông lại trở về Vĩnh Lạc. Đến ngày 14 tháng 11 năm thứ 13 (1415), ông thị tịch, hưởng thọ 89 tuổi. Ông có viết bộ Phật Pháp Kim Thang Thiên (佛法金湯篇) 16 quyển vào năm thứ 24 (1391) niên hiệu Hồng Võ.
(混跡): trà trộn tung tích, dấu vết, không để lộ rõ ra; tức là hòa mình vào môi trường sống, không thể hiện hành tung của bậc Thánh, mai danh ẩn tích. Như trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 9 có câu: “Tổ ư Nghiệp Đô hóa đạo, Tứ Chúng quy y, phàm tam thập tứ niên, toại thao quang hỗn tích, biến dịch nghi tướng, nhân mạc chi trắc (祖於鄴都化導、四眾皈依、凡三十四年、遂韜光混跡、變易儀相、人莫之測, Tổ [Huệ Khả] hóa đạo ở Nghiệp Đô, Bốn Chúng quy y, được ba mươi bốn năm, bèn mai danh ẩn tích, thay đổi hình tướng, người đời không lường được).” Hay như trong Phật Pháp Kim Thang Biên (佛法金湯編, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1628) quyển 4, phần Lục Thùy (陸倕) có câu: “Pháp sư tự thuyết tánh Chu danh Bảo Chí, hỗn tích loạn từ, cư vô thường sở, y phục ẩm thực suyễn bác bất hằng, Tống Thái Thỉ trung xuất nhập Chung Sơn (法師自說姓朱名寶誌、混跡亂詞、居無常所、衣服飲食舛駁不恆、宋泰始中出入鍾山, Pháp sư [Lục Thùy] tự bảo họ là Chu, tên Bảo Chí, ẩn tích nói lung tung, sống nơi không cố định, áo quần, ăn uống xuề xòa chẳng bình thường; trong khoảng niên hiệu Thái Thỉ [466-471] nhà Tống, Pháp sư thường ra vào Chung Sơn).”
(金仙): có hai nghĩa. (1) Chỉ đức Phật. Trong Phật Pháp Kim Thang Biên (卍 Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1628 佛法金湯編) quyển 11 cho biết rằng: “Tuyên Hòa nguyên niên đế cảm ư Lâm Linh Tố chi thuyết, chiếu cải Phật vi Đại Giác Kim Tiên, tăng vi Đức Sĩ, tự vi cung quán (宣和元年帝惑於林靈素之說、詔改佛爲大覺金仙、僧爲德士、寺爲宮觀, vào năm đầu [1119] niên hiệu Tuyên Hòa [đời vua Huy Tông nhà Tống], nhà vua cảm được lời nói của Đạo sĩ Lâm Linh Tố, bèn hạ chiếu đổi Phật thành Đại Giác Kim Tiên, tăng là Đức Sĩ, chùa là cung quán).” Như trong bài thơ Dữ Nguyên Đan Khâu Phương Thành Tự Đàm Huyền Tác (與元丹丘方城寺談玄作) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Lãng ngộ tiền hậu tế, thỉ tri Kim Tiên diệu (朗悟前後際、始知金仙妙, biết rõ trước sau thảy, mới hay Phật vi diệu).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3, phần Thất Hiến Tổng Văn (七獻總文), cũng có câu: “Cửu long thân thổ dục Kim Tiên, vạn cổ Tào Khê vô tận duyên (九龍親吐浴金仙、萬古曹溪無盡綠, chín rồng phun nước tắm Kim Tiên, vạn cổ Tào Khê vô tận duyên).” (2) Tên gọi khác của thần tiên. Hai người con gái của vua Duệ Tông (睿宗, tại vị 684-690, 710-712) nhà Đường xuất gia làm nữ Đạo sĩ, một người được phong là Kim Tiên Công Chúa (金仙公主), người kia là Ngọc Chân Công Chúa (玉眞公主). Nhà Phật cũng gọi những tiên nhân ngoại đạo tu hành tinh tấn là Kim Tiên.
(示寂): ý dịch của từ nirvāṇa (s.), nibbāna (p.), tức chỉ Niết Bàn; còn gọi là viên tịch (圓寂), quy tịch (歸寂), nhập tịch (入寂), tịch diệt (寂滅), tịch (寂). Đây là từ đặc biệt dùng cho việc thị hiện Niết Bàn, xả Báo Thân của chư Phật, Bồ Tát, cao tăng. Trong các thư tịch Phật Giáo, thuật ngữ này xuất hiện khá nhiều, như trong Thiền Đăng Thế Phổ (禪燈世譜, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1601) quyển 9, phần Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), có đoạn: “Đường Đức Tông Trinh Nguyên lục niên Canh Ngọ thị tịch, thụy Vô Tế, tháp viết Kiến Tướng (唐德宗貞元六年庚午示寂、諡無際、塔曰見相, sư thị tịch vào canh ngọ, Trinh Nguyên thứ 6 [790] đời vua Đức Tông [tại vị 779-805] nhà Đường, thụy hiệu là Vô Tế, tháp tên là Kiến Tướng).” Hay trong Phật Pháp Kim Thang Biên (佛法金湯編, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1628) quyển 4, phần Võ Đế (武帝), lại có đoạn: “Thập tam niên, Bảo Chí tương thị tịch, nghệ nội điện biệt đế, đế đại kinh (十三年、寶誌將示寂、詣內殿別帝、帝大驚, vào năm thứ 13 [514 niên hiệu Thiên Giám, đời vua Lương Võ Đế], Bảo Chí sắp thị tịch, bèn vào nội điện từ biệt nhà vua, vua vô cùng kinh ngạc).” Hoặc trong Tục Truyền Đăng Lục (續傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2077) quyển 23, phần Hoàng Long Thanh Thiền Sư Pháp Từ (黃龍清禪師法嗣), Đông Kinh Thiên Ninh Trường Linh Thủ Trác Thiền Sư (東京天寧長靈守卓禪師), cũng có đoạn: “Tuyên Hòa ngũ niên thập nhị nguyệt nhị thập thất nhật yểm nhiên thị tịch, Xà Duy nhật Hoàng Đế khiển Trung Sứ tứ hương (宣和五年十二月二十七日奄然示寂、闍維日皇帝遣中使賜香, vào ngày 27 tháng 12 năm Tuyên Hòa thứ 5 [1123], Thiền Sư đột nhiên thị tịch, ngày làm lễ Trà Tỳ [hỏa thiêu], Hoàng Đế [vua Huy Tông nhà Tống] sai Trung Sứ đến tặng hương).”
(圓寂): ý dịch của Phạn ngữ parinirvāṇa (s.); cựu dịch là diệt độ (滅度), nhập diệt (入滅); còn gọi là quy tịch (歸寂), thị tịch (示寂), nhập tịch (入寂); đồng nghĩa với Niết Bàn (涅槃), thiên hóa (遷化), thuận thế (順世), quy chơn (歸眞); nghĩa là tròn đầy các đức, diệt hết các điều ác. Sự qua đời của đức Phật nghĩ là thâu hóa dụng của cõi mê mà nhập vào cảnh giới giác ngộ; xả đi cảnh tạp nhiễm của Hữu Lậu mà nhập vào cảnh giới Niết Bàn vắng lặng Vô Lậu; nên gọi là viên tịch. Từ này cũng có nghĩa xa lìa cái khổ của sanh tử, đạt đến sự an lạc tịnh diệu. Về sau, chư vị tăng ni qua đời cũng gọi là viên tịch. Trong Bát Nhã Tâm Kinh Giải Nghĩa (般若心經解義, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 26, No. 570) định nghĩa rằng: “Niết Bàn, thử vân viên tịch, đức vô bất bị xưng viên, chướng vô bất tận xưng tịch (涅槃、此云圓寂、德無不僃稱圓、障無不盡稱寂, Niết Bàn, ở đây [Trung Hoa] gọi là viên tịch, đức không nơi nào mà không đầy đủ gọi là viên, chướng không chỗ nào mà không hết gọi là tịch).” Như trong Phật Pháp Kim Thang Biên (佛法金湯編, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1628) quyển 8, phần Lý Bạch (李白), có đoạn: “Bản tâm nhược hư không, thanh tịnh vô nhất vật, phần đãng dâm nỗ si, viên chiếu liễu kiến Phật (本心若虛空、清淨無一物、焚蕩淫怒癡、圓照了見佛, tâm gốc như hư không, trong sạch không một vật, đốt dâm đãng giận si, chiếu rõ rồi thấy Phật).” Hay trong Thiền Lâm Bị Dụng Thanh Quy (禪林僃用清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1250) quyển 9, phần Phúng Kinh (諷經), cũng có đoạn: “Thượng lai phúng kinh công đức, phụng vị tân viên tịch mỗ giáp Thượng Tọa (上來諷經功德、奉爲新圓寂某甲上座, khởi đầu tụng kinh công đức, kính vì Thượng Tọa … mới viên tịch).” Hoặc trong Thiền Đăng Thế Phổ (禪燈世譜, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1601) quyển 1, phần Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思), lại có đoạn rằng: “Ấu tuế xuất gia, cư Thanh Nguyên Sơn Tĩnh Cư Tự; Huyền Tông Khai Nguyên nhị thập bát niên thập nhất nguyệt thập tam nhật viên tịch, thụy Hoằng Tế, tháp viết Quy Tịch (幼歲出家、居青原山靜居寺、玄宗開元二十八年十一月十三日圓寂、諡弘濟、塔曰歸眞, sư tuổi nhỏ xuất gia, sống ở Tĩnh Cư Tự thuộc Thanh Nguyên Sơn; vào ngày 13 tháng 11 năm thứ 28 [740] niên hiệu Khai Nguyên đời vua Huyền Tông [tại vị 712-756], sư viên tịch, thụy hiệu là Hoằng Tế, tháp tên là Quy Tịch).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập