Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Kim chi »»
(寶樹): cây báu. Từ này thường thấy xuất hiện trong kinh điển Phật Giáo. Người ta dùng bày loại trân báu để tạo thành hình dáng cây; tỷ dụ như vàng vòng (黃金) làm gốc cây, Bạch Ngân (白銀) làm thân cây, Lưu Ly (琉璃) làm cành cây, Thủy Tinh (水晶) làm ngọn cây, Hổ Phách (琥珀) làm lá cây, Mỹ Ngọc (美玉) làm hoa và Mã Não (瑪瑙) làm trái cây. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō No. 360) có đoạn rằng: “Thiết ngã đắc Phật, quốc trung Bồ Tát, tùy ý dục kiến thập phương vô lượng nghiêm tịnh Phật độ, ứng thời như nguyện, ư bảo thọ trung, giai tất chiếu kiến, do như minh kính, đỗ kỳ diện tượng (設我得佛、國中菩薩、隨意欲見十方無量嚴淨佛土、應時如願、於寶樹中、皆悉照見、猶如明鏡、睹其面像, nếu như ta thành Phật, các Bồ Tát trong nước, tùy ý muốn thấy mười phương vô lượng Phật độ nghiêm tịnh, tùy thời được như nguyện; trong hàng cây báu, tất đều chiếu thấy, giống như gương sáng, thấy rõ hình mặt).” Hay như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛說觀無量壽佛經, Taishō No. 365) cũng có đoạn: “Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: 'Địa tưởng thành dĩ, thứ quán bảo thọ; quán bảo thọ giả, nhất nhất quán chi, tác thất trùng hàng thọ tưởng, nhất nhất thọ cao bát thiên do tuần, kỳ chư bảo thọ, thất bảo hoa diệp, vô bất cụ tục (佛告阿難及韋提希:地想成已、次觀寶樹、觀寶樹者、一一觀之、作七重行樹想、一一樹高八千由旬、其諸寶樹、七寶華葉、無不具足, Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy rằng: 'Quán tưởng về đất xong rồi, kế đến quán cây báu; quán cây báu thì quán từng cây một, tưởng tượng bảy hàng lớp cây, mỗi một cây cao tám ngàn do tuần; các cây báu ấy, hoa và lá bằng bảy thứ báu, không cây nào không đầy đủ').” Ngoài ra, trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 64 lại có đoạn: “Trượng tích Tây lai bái Pháp Vương, nguyện cầu diệu điển viễn truyền dương, Kim chi tam tú thi đàn thoại, bảo thọ thiên hoa liên nhụy hương, bách xích cán đầu tu tấn bộ, thập phương thế giới lập hành tàng, tu thành ngọc tượng trang nghiêm thể, Cực Lạc môn tiền thị đạo trường (杖錫西來拜法王、願求妙典遠傳揚、金芝三秀诗坛瑞,宝树千花莲蕊香。金芝三秀詩壇瑞、寶樹千花蓮蕊香、百尺竿头须进步,十方世界立行藏。百尺竿頭須進步、十方世界立行藏、修成玉象庄严体,极乐门前是道场。修成玉象莊嚴體、極樂門前是道塲, quảy trượng qua Tây lễ Pháp Vương, nguyện mong kinh điển khắp truyền dương, cành vàng tam tú thơ đàn lạ, cây báu ngàn hoa sen nhụy hương, trăm bộ đầu sào nên bước tiếp, mười phương thế giới vững trụ thường, tu thành voi ngọc trang nghiêm dáng, Cực Lạc cửa này chính đạo trường).” Câu “thường du bảo thọ chi giai (常遊寳樹之堦)” có nghĩa là thường rong chơi nơi thềm ngọc có hàng cây báu, tức chỉ cho thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật Di Đà.
(s: kalaviṅka, p: karavika, 迦陵頻伽): còn gọi là Ca La Tần Già (歌羅頻伽), Ca Lan Già (加蘭伽), Ca Lan Tần Già (迦蘭頻伽), Yết La Tần Già (羯羅頻迦), Ca Lăng Tần Già (迦楞頻伽), Ca Lăng Tỳ Già (迦陵毘伽), Ca Lăng Già (迦陵伽), Yết Lăng Già (羯陵伽), Yết Tỳ Già La (羯毘伽羅), Yết Lăng Già La (羯陵伽羅), Ca Tỳ Già La (迦毘伽羅), Hạt Thất Già La (鶡鵯伽羅), Ca Vĩ La (迦尾羅), v.v.; ý dịch là hảo thanh điểu (好聲鳥, chim có tiếng hót hay), mỹ dung điểu (美容鳥, chim có hình dáng đẹp), diệu thanh điểu (妙聲鳥, chim có âm thanh tuyệt diệu). Đây là tên của một loài chim, thường thấy chủ yếu ở Ấn Độ, xuất xứ từ trên Tuyết Sơn (s, p: Himālaya, 雪山); nó sắc màu đen mượt giống như chim sẻ, bộ lông rất đẹp, ở phần cổ có màu đỏ. Khi còn trong trứng, chim đã có thể cất tiếng hót, âm thanh trong trẻo, hòa nhã, vi diệu, so với tiếng của Trời, người, Khẩn Na La (s: kiṃnara, 緊那羅) cũng như tất cả những loài chim khác đều thua xa. Như trong A Di Đà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao (阿彌陀經要解便蒙鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 430) quyển Trung có giải thích rằng: “Sơn cốc khoáng dã, kỳ trung đa hữu Ca Lăng Tần Già, xuất diệu âm thanh, nhược thiên nhược nhân, Khẩn Na La đẳng, vô năng cập giả (山谷曠野、其中多有迦陵頻伽、出妙音聲、若天若人、緊那羅等、無能及者, nơi hang núi đồng rộng, trong đó có nhiều chim Ca Lăng Tần Già, phát ra tiếng hót vi diệu, dẫu Trời dẫu người, Khẩn Na La vân vân, không thể sánh bằng).” Trong kinh điển Phật Giáo, thường lấy âm thanh của loài chim này để ví cho tiếng vi diệu của chư Phật, Bồ Tát; hoặc xem Ca Lăng Tần Già như là loài chim của thế giới Cực Lạc. Trong đồ hình Mạn Trà La Tịnh Độ, Ca Lăng Tần Già được vẽ dưới hình dạng đầu người thân chim. Trong Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận (大乘集菩薩學論, Taishō Vol. 32, No. 1636) quyển 23 có câu: “Mâu Ni Tam Nghiệp siêu Tam Hữu, thí nhược phù cừ bất trước thủy, Ca Lăng Tần Già tịnh diệu thanh, thị cố ngã kim khể cụ lễ (牟尼三業超三有、譬若芙蕖不著水、迦陵頻伽淨妙聲、是故我今稽具禮, Mâu Ni Ba Nghiệp vượt Ba Cõi, giống như hoa sen chẳng thấm nước, Ca Lăng Tần Già tiếng vi diệu, vì vậy con nay cúi đầu lạy).” Hay trong Phật Thuyết Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Đại Thừa Kinh (佛說護國尊者所問大乘經, Taishō Vol. 12, No. 321) quyển 3 có đoạn: “Phước Quang Thái Tử viên uyển chi nội, hữu chủng chủng phi điểu, Anh Vũ, Cù Dục, Uyên Ương, Nga Áp, Khổng Tước Xá Lợi, Câu Chỉ La Điểu, Câu Nỗ La Điểu, Ca Lăng Tần Già, Mạng Mạng Điểu đẳng (福光太子園苑之內、有種種飛鳥、鸚鵡、鴝鵒、鴛鴦、鵝鴨、孔雀舍利、俱枳羅鳥、俱拏羅鳥、迦陵頻伽、命命鳥等, trong vườn của Thái Tử Phước Quang có nhiều loại chim bay, như chim vẹt, sáo, uyên ương, vịt trời, chim sẻ Xá Lợi, chim Câu Chỉ La, chim Câu Nỗ La, chim Ca Lăng Tần Già, chim Mạng Mạng, vân vân).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Nghi Quỹ (三時繫念儀範, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1465) lại có đoạn: “Lục thời hành đạo bảo lâm gian, Cửu Phẩm tiêu danh Kim chiểu nội, thủy điểu thọ lâm năng thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già cọng đàm Thiền, bảo lan bảo can ảnh linh lung, bảo tọa bảo tràng quang xán lạn (六時行道寶林間、九品標名金沼內、水鳥樹林能說法、迦陵頻伽共談禪、寶欄寶網影玲瓏、寶座寶幢光燦爛, sáu thời hành đạo nơi rừng báu, Chín Phẩm đề danh trong hồ vàng, chim nước rừng cây còn thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già thảy bàn Thiền, lan can quý báu ảnh lung linh, tòa báu tràng phan sáng rực rỡ).”
(s: Paramārtha, j: Shindai, 眞諦, 499-569): vị tăng dịch kinh trứ danh sống vào khoảng thế kỷ thứ 6, âm dịch Tác Ba La Mạt Tha (作波羅末他), Ba La Mạt Đà (波羅末陀), còn gọi là Câu La Na Đà (s: Kulanātha, 拘羅那陀), xuất thân vùng Ưu Thiền Ni (s: Ujjainī, 優禪尼) ở Tây Bắc Ấn Độ, thuộc dòng dõi Bà La Môn, họ Phả La Đọa (s: Bhārata, 頗羅墮), tánh chất thông minh, ghi nhớ sâu sắc, biện tài vô ngại. Lúc nhỏ ngao du khắp các nơi, từng hầu qua nhiều bậc thầy, nghiên cứu hết các điển tịch, quán thông cả tam tạng, 6 bộ, hiểu rõ diệu lý Đại Thừa. Vào năm đầu (546) niên hiệu Đại Đồng (大同) dưới thời nhà Lương, ông mang kinh điển sang vùng Nam Hải (南海), Trung Quốc. Đến năm thứ 2 (548) niên hiệu Thái Thanh (太清), ông vào Kiến Nghiệp (建業, tức Nam Kinh [南京]) yết kiến Võ Đế; nhưng lúc bấy giờ lại gặp phải loạn Hầu Cảnh (候景) bèn phải lánh nạn về phương Nam, du lịch các địa phương như Tô Châu (蘇州), Triết Châu (浙州), Mân Châu (閩州), Cám Châu (贛州), Quảng Châu (廣州), v.v., nhưng vẫn không hề xao lãng chuyện dịch kinh của mình. Vào năm đầu (569) niên hiệu Thái Kiến (太建) nhà Trần, ông thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi. Từ cuối thời Lương Võ Đế cho đến khi qua đời, ông đã dịch được tất cả 64 bộ và 278 quyển kinh luận, hiện chỉ còn lại 30 bộ, phần lớn là những điển tịch quan trọng để nghiên cứu Phật Giáo. Ông cùng với Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413), Huyền Trang (玄奘, 602-664) và Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) được xem như là 4 nhà phiên dịch vĩ đại trong văn học Phật Giáo Trung Quốc. Phương pháp và học thức phiên dịch của ông là kim chỉ nam dẫn đường cho lịch sử truyền dịch của Phật Giáo Trung Quốc. Ngoài Chuyển Thức Luận (轉識論), Đại Thừa Duy Thức Luận (大乘唯識論) và các điển tịch về Duy Thức ra, còn có Kim Quang Minh Kinh (金光明經), Nhiếp Đại Thừa Luận (攝大乘論), Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (攝大乘論釋), Luật Nhị Thập Nhị Minh Liễu Luận (律二十二明了論), Trung Biên Phân Biệt Luận (中邊分別論), Thập Thất Địa Luận (十七地論), Câu Xá Luận Thích (倶舍論釋), Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論), v.v. Trong số đó, Nhiếp Đại Thừa Luận và Nhiếp Đại Thừa Luận Thích có ảnh hưởng lớn nhất, trở thành căn cứ lý luận chủ yếu cho học phái Nhiếp Luận dưới thời Nam Triều. Vì vậy, Chơn Đế được tôn sùng là vị tổ của Nhiếp Luận Tông.
(讀禮): có hai nghĩa chính:
(1) Học tập lễ tiết. Như trong Tuân Tử (荀子), phần Khuyến Học (勸學) có câu: “Thỉ hồ tụng kinh, chung hồ độc lễ (始乎誦經、終乎讀禮, trước hết là tụng kinh, sau cùng học lễ tiết).” Hay trong Hạc Lâm Ngọc Lộ (鶴林玉露) quyển 5 của La Đại Kinh (羅大經, 1196-1242) nhà Tống có đoạn: “Nhi học hiệu chi sở giảng, phùng dịch chi sở đàm, kỉ hữu nhược đồ nhi chi lễ Phật, xướng gia chi độc lễ giả, thị khả thán dã (而學校之所講、逢掖之所談、幾有若屠兒之禮佛、娼家之讀禮者、是可嘆也, vậy trường học được giảng, Nho học được luận bàn, có mấy kẻ đồ tể đến lễ Phật, bao nhà điếm học lễ nghi, thật đáng buồn thay).”
(2) Người xưa trong thời gian cư tang tại nhà, thường đọc những thư tịch lễ nghi liên quan đến việc Tang Tế, vì vậy cư tang còn được gọi là độc lễ. Như trong Lễ Ký (禮記), phần Khúc Lễ (曲禮) có giải thích rằng: “Cư tang vị táng, độc tang lễ; ký táng, độc tế lễ (居喪未葬、讀喪禮、既葬、讀祭禮, thời gian cư tang chưa an táng thì đọc sách Tang Lễ, đã an táng rồi thì đọc sách Tế Lễ).” Sau này có vài tác phẩm liên quan đến độc lễ như Độc Lễ Nhật Tri (讀禮日知), 2 quyển, do Kim chiết (金淛, ?-?) nhà Minh soạn; hay Độc Lễ Thông Khảo (讀禮通考), 120 quyển, của Từ Càn Học (徐乾學, 1631-1694) nhà Thanh, v.v. Trong Tam Giáo Bình Tâm Luận (三敎平心論, Taishō Vol. 52, No. 2117) quyển Thượng có câu: “Tăng can triều hiến, Ni phạm tục hình, thí tụng Luật nhi xuyên du, như độc lễ nhi kiêu cứ (僧干朝憲、尼犯俗刑、譬誦律而穿窬、如讀禮而憍倨, Tăng làm sai hiến pháp triều đình, Ni thì vi phạm hình phạt thế tục, giống như tụng Luật mà đào tường (trộm cắp), đọc lễ nghi mà kiêu ngạo).”
(獨湛性瑩, Dokutan Shōkei, 1628-1706): vị tăng của Hoàng Bá Tông Trung Quốc, tự là Độc Trạm (獨湛), xuất thân Huyện Bồ Điền (莆田), Phủ Hưng Hóa (興化府, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Trần (陳). Năm 16 tuổi, ông theo xuất gia với Y Châu (衣珠) ở Tích Vân Tự (積雲寺), Ngộ Sơn (悟山). Sau đó, vào năm thứ 7 (1650) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông đến tham học với Hoàn Tín Hành Di (亘信行彌) ở Thừa Thiên Tự (承天寺), rồi năm sau thì đến tham vấn Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山). Đến năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), ông theo Ẩn Nguyên sang Nhật. Vào năm thứ 3 (1663) niên hiệu Khoan Văn (寛文), khi Vạn Phước Tự (萬福寺, Manfuku-ji) ở Hoàng Bá Sơn, Vũ Trị (宇治, Uji) khánh thành, ông được cử làm chức quản lý Tây Đường. Đến tháng 5 năm sau, ông kế thừa dòng pháp của Ẩn Nguyên. Sau đó, thể theo lời cung thỉnh của Cận Đằng Trinh Dụng (近藤貞用) ở Kỳ Bổn (旗本), ông đến vùng Kim Chỉ (金指), Viễn Giang (遠江, Tōtōmi, thuộc Shizuoka-ken [靜岡縣]). Vào tháng 11 năm sau, cũng tại địa phương này ông sáng lập Sơ Sơn Bảo Lâm Tự (初山寶林寺). Sống nơi đây được 18 năm, vào năm đầu (1673) niên hiệu Diên Bảo (延寶), ông kiến lập Quốc Thoại Tự (國瑞寺) ở Phụng Dương Sơn (鳳陽山), Tân Điền (新田), Thượng Dã (上野, Ueno, thuộc Gunma-ken [群馬縣]). Đến tháng giêng năm thứ 2 (1682) niên hiệu Thiên Hòa (天和), ông làm trú trì đời thứ 4 của Vạn Phước Tự. Vào tháng 3 năm thứ 2 (1685) niên hiệu Trinh Hưởng (貞享) và tháng 9 năm thứ 3 (1689) niên hiệu Nguyên Lộc (元祿), ông mở Giới Đàn. Đến tháng giêng năm thứ 5 (1691) cùng niên hiệu trên, ông lui về ẩn cư tại Sư Tử Lâm (獅子林). Tuy nhiên, vào năm thứ 8 (1694) cùng niên hiệu trên, ông chuyển đến Bảo Lâm Tự, rồi đến năm thứ 10 thì thiết lập Giới Đàn Bồ Tát và trở về lại Sư Tử Lâm. Vào ngày 26 tháng giêng năm thứ 3 (1706) niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永), ông thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi. Ông là vị Thiền tăng có hành trì pháp môn Niệm Phật, cho nên được gọi là Niệm Phật Độc Trạm (念佛獨湛). Trước tác của ông để lại có Sơ Sơn Độc Trạm Thiền Sư Ngữ Lục (初山獨湛禪師語錄) 1 quyển, Sơ Sơn Lệ Hiền Lục (初山勵賢錄) 1 quyển, Sơ Sơn Độc Trạm Thiền Sư Hành Do (初山獨湛禪師行由) 1 quyển, Vĩnh Tư Tổ Đức Lục (永思祖德錄) 2 quyển, Ngô Sơn Cựu Cảo (梧山舊稿) 4 quyển, Khai Đường Pháp Ngữ (開堂法語) 1 quyển, Thí Thực Yếu Quyết (施食要訣) 1 quyển, Đương Ma Hóa Phật Chức Tạo Ngẫu Ty Tây Phương Cảnh Đồ Thuyết (當麻化佛織造藕絲西方境圖說) 1 quyển, Thọ Thủ Đường Tịnh Độ Thi (授手堂淨土詩) 1 quyển, Khuyến Tu Tác Phước Niệm Phật Đồ (勸修作福念佛圖), Xưng Tán Tịnh Độ Vịnh (稱讚淨土詠) 1 quyển, Độc Trạm Hòa Thượng Hành Lược (獨湛和尚行略) 1 quyển, Phù Tang Ký Quy Vãng Sanh Truyện (扶桑寄歸徃生傳) 2 quyển, Độc Trạm An Tâm Pháp Ngữ (獨湛安心法語) 1 quyển, Độc Trạm Thiền Sư Ngữ Lục (獨湛禪師語錄) 9 quyển, v.v. Môn nhân kế thừa dòng pháp của ông có 39 người như Viên Thông Thành Đạo (圓通成道), Duyệt Phong Đạo Chương (悅峰道章)—vị trú trì đời thứ 8 của Vạn Phước Tự, v.v.
(虛堂集, Kidōshū): 6 quyển, có lời bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân (林泉從倫), san hành vào năm đầu (1295) niên hiệu Nguyên Trinh (元貞) nhà Nguyên. Nguyên văn là Lâm Tuyền Lão Nhân Bình Xướng Đơn Hà Thuần Thiền Sư Tụng Cổ Hư Đường Tập (林泉老人評唱丹霞淳禪師頌古虛堂集, Rinsenrōjinhyōshōtankajunzenjijukokidōshū). Đây là tập thâu lục 100 tắc tụng cổ của Đơn Hà Tử Thuần (丹霞子淳) nhà Tống để làm kim chỉ nam cho hàng hậu học biện đạo. Từ các bài tụng cổ được thâu lục trong Đơn Hà Ngữ Lục (丹霞語錄), mỗi tắc có lời dạy chúng của Lâm Tuyền Lão Nhân, rồi được thêm vào trước ngữ cho cổ tắc do Đơn Hà nêu lên, kế đến thêm vào tụng cổ của Đơn Hà, cuối cùng có lời bình xướng của riêng tác giả. Bộ này bắt chước hình thức biên tập của Bích Nham Lục (碧巖錄) và Tùng Dung Lục (從容錄).
(金精): có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Chỉ cho khí ở phương Tây, như trong Văn Tuyển (文選), phần Di Hành (彌衡) có câu: “Thể Kim Tinh chi diệu chất hề, hợp Hỏa Đức chi minh huy (體金精之妙質兮、合火德之明輝, thể Kim Tinh là chất mầu chừ, cùng với ánh sáng của Hỏa Đức).” Lý Thiện (李善) chú rằng: “Tây phương vi Kim, mao hữu bạch giả, cố viết Kim Tinh (西方爲金、毛有白者、故曰金精, phương Tây là Kim, lông có màu trắng, nên gọi là Kim Tinh).”
(2) Chỉ nước Tần, như trong bài Cao Tổ Tứ Thủy Đình Bi Minh (高祖泗水亭碑銘) của Ban Cố (班固, 32-92) nhà Hán, có câu: “Dương uy trảm xà, Kim Tinh tồi thương (揚威斬蛇、金精摧傷, dương oai chém rắn, nước Tần hết thương).”
(3) Chỉ cho sao Thái Bạch (太白), như trong bài Ai Giang Nam Phú (哀江南賦) của Dữu Tín (庾信, 513-581) thời Bắc Chu có câu: “Địa tắc thạch cổ sơn minh, thiên tắc Kim Tinh động tú (地則石鼓山鳴、天則金精動宿, đất ắt trống đá núi vang, trời tất Thái Bạch chuyển sao).”
(4) Tên một loại thuốc tiên trong truyền thuyết của Đạo Giáo, như trong bài thơ Nhập Cổ Lãi Kinh Tùng Môn Quán Thạch Kính Miến Hoài Tạ Khang Lạc (入彭蠡經松門觀石鏡緬懷謝康樂) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Thủy Bích hoặc khả thái, Kim Tinh bí mạc luận (水碧或可采、金精秘莫論, Ngọc Bích còn lấy được, Kim Tinh chớ luận bàn).”
(5) Chỉ mặt trăng (nghĩa trong bài), như trong Sơ Học Ký (初學記) có dẫn phần Hà Đồ Đế Lãm Hi (河圖帝覽嬉) câu: “Nguyệt giả, Kim chi tinh dã (月者、金之精也, mặt trăng là Kim Tinh).” Hay như trong Lữ Bạc Đồ Giang (旅泊塗江) của Trần Đào (陳陶, khoảng 812-885) cũng có câu: “Đoạn sa nhạn khởi Kim Tinh xuất, cô lãnh viên sầu mộc khách quy (斷沙雁起金精出、孤嶺猿愁木客歸, cát sụt nhạn biến mặt trăng hiện, đỉnh non vượn sầu dã nhân về).”
(6) Tên gọi khác của Cam Cúc (甘菊, tức Thu Cúc), như trong (小園賦) của Dữu Tín thời Bắc Chu có câu: “Vân khí ấm vu tùng thi, Kim Tinh dưỡng vu Thu Cúc (雲氣蔭于叢蓍、金精養于秋菊, khí mây che rợp bụi lá, Kim Tinh dưỡng nơi Thu Cúc).” Nghê Phan (倪璠, ?-?) nhà Thanh chú dẫn trong Ngọc Hàm Phương (玉函方) rằng: “Cam Cúc, cửu nguyệt thượng Dần nhật thái, danh viết Kim Tinh (甘菊、九月上寅日採、名曰金精, Cam Cúc, hái vào ngày Dần đầu tháng 9, tên gọi là Kim Tinh).”
(冥府): còn gọi là Âm Phủ (陰府), là cơ sở hành chánh của thế giới bên kia sau khi chết, văn phòng của vua Diêm Ma. Người thống trị Minh Phủ là Minh Vương Áo Tây Lí Tư (冥王奧里斯); vị này là đại thần của toàn quốc, sau A Mông (阿蒙). Vị trí của Áo Tây Lí Tư thậm chí còn cao hơn cả ông cố là Thái Dương Thần (太陽神). Theo nghiên cứu cho biết rằng ban đầu ông là Hồng Thủy Thần (洪水神, Thần Nước Lũ) của Sông Ni La (尼羅河, Nile), và về sau được cách hóa thành Minh Vương. Đồng thời, ông cũng có thần cách như Thái Dương Thần; tuy nhiên vẫn giữ thân Minh Vương. Mặt khác, ông không phải là đại diện cho sự tối tăm, mà là thần của ánh sáng. Về sau, A Nỗ Tỷ Tư (阿努比斯), người giữ gìn các vong linh, được xem như là con của Áo Tây Lí Tư, được phong chức trợ lý cho cha. Sở dĩ Áo Tây Lí Tư được xem như là vị đại thần của toàn quốc, vì nó có liên quan đến quan điểm tử vong của người Ai Cập. Họ cho rằng chết đi không phải là kết thúc sinh mạng, mà đạt đến con đường sống mãi; cho nên người chết được sống lại nơi thế giới do Áo Tây Lí Tư thống trị và vĩnh viễn sinh tồn. Đó là lý do vì sao người Ai Cập cổ xưa đã xây dựng các Kim Tự Tháp cũng như mộ đế vương cho những vị quốc vương họ. Căn cứ vào thuyết của Kim chi (金枝), Áo Tây Lí Tư cùng với vợ là Y Hy Tư (伊希斯) trở lại làm thần cây. Sự phục hoạt của Áo Tây Lí Tư có ý nghĩa tương đồng với sự phục hoạt thần cây của Tây Á và Hy Lạp. Theo quan điểm tín ngưỡng của Trung Quốc, dưới Minh Phủ có 10 vị Minh Vương cai quản 10 ngôi điện, được gọi là Thập Điện Minh Vương (十殿冥王) hay Thập Điện Từ Vương (十殿慈王). Theo Địa Phủ Thập Vương Bạt Độ Nghi (地府十王拔度儀) thuộc kinh điển của Đạo Giáo, dưới Minh Phủ có 10 cung, mỗi cung có 1 vị Chơn Quân cai quản, gồm:
(1) Cung thứ nhất của Tần Tố Diệu Quảng Chơn Quân (秦素妙廣眞君), còn gọi là Tần Quảng Đại Vương (秦廣大王);
(2) Cung thứ hai của Âm Đức Định Hưu Chơn Quân (陰德定休眞君), còn gọi là Sơ Giang Đại Vương (初江大王);
(3) Cung thứ ba của Động Minh Phổ Tĩnh Chơn Quân (洞明普靜眞君), còn gọi là Tống Đế Đại Vương (宋帝大王);
(4) Cung thứ tư của Huyền Đức Ngũ Linh Chơn Quân (玄德五靈眞君), còn gọi là Ngỗ Quan Đại Vương (仵官大王);
(5) Cung thứ năm của Tối Thánh Diệu Linh Chơn Quân (最聖妙靈眞君), còn gọi là Diêm La Đại Vương (閻羅大王);
(6) Cung thứ sáu của Bảo Túc Chiêu Thành Chơn Quân (寳肅昭成眞君), còn gọi là Biến Thành Đại Vương (變成大王);
(7) Cung thứ bảy của Thái Sơn Huyền Diệu Chơn Quân (泰山玄妙眞君), còn gọi là Thái Sơn Đại Vương (泰山大王);
(8) Cung thứ tám của Vô Thượng Chánh Độ Chơn Quân (無上正度眞君), còn gọi là Bình Đẳng Đại Vương (平等大王);
(9) Cung thứ chín của Phi Ma Diễn Hóa Chơn Quân (飛魔演化眞君), còn gọi là Đô Thị Đại Vương (都市大王);
(10) Cung thứ mười của Ngũ Linh Uy Đức Chơn Quân (五靈威德眞君), còn gọi là Chuyển Luân Đại Vương (轉輪大王).
Qua đó, ta thấy rằng 10 cung này tương đương với 10 điện và tên gọi của các vị chủ quản các cung cũng gần tương tự với 10 vị Minh Vương (xin xem thêm chi tiết ở phần Minh Vương và Diêm Ma Thập Điện). Trong Hiện Quả Tùy Lục (現果隨錄) quyển 2 có câu: “Ngô tinh phi tà, tiền tại Minh Phủ kiến nhất kỳ sự, cấp dục vãng bỉ khám nghiệm nhĩ (吾並非邪、前在冥府見一奇事、急欲徃彼一勘驗耳, tôi chẳng nói bậy đâu, trước kia ở dưới Minh Phủ có thấy một việc kỳ lạ, muốn mau đến ông ấy khám nghiệm thử đúng không).” Hay Trong Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện (禪林僧寶傳) quyển 8, truyện Nam An Nham Nghiêm Tôn Giả (南安巖嚴尊者) lại có đoạn: “Hữu tăng tự Huệ Châu lai, viết: 'Hà Nguyên hữu cự chu trước sa, vạn ngưu hoán bất khả động, nguyện đắc dĩ tải chuyên, kiến tháp vu nam hải, vi chúng sanh phước điền.' Công viết: 'Thử Âm Phủ chi vật' (有僧自惠州來、曰河源有巨舟著沙、萬牛挽不可動、願得以載磚、建塔于南海、爲眾生福田、公曰此陰府之物, có vị tăng từ Huệ Châu đến bảo rằng: 'Tại Hà Nguyên có một chiếc thuyền lớn bị mắc cát, vạn con trâu kéo cũng không nhúc nhích, xin ngài đến chở ngói gạch, xây tháp nơi Nam Hải để làm ruộng phước cho chúng sanh.' Ông [Nham Nghiêm Tôn Giả] nói rằng: 'Đó là đồ của Âm Phủ').”
(南柯): cành cây chầu về hướng nam. Bên cạnh đó, nó có nghĩa là giấc mộng Nam Kha, vốn xuất xứ từ Nam Kha Thái Thú Truyện (南柯太守傳) của Lý Công Tả (李公佐, ?-?) nhà Đường. Chuyện kể rằng có một chàng hiệp sĩ tên Thuần Vu Phần (淳于棼), nhà ở phía đông Quận Quảng Lăng (廣陵郡, nay là Dương Châu [揚州], Giang Tô [江蘇]). Tại phía nam nhà anh có một cây hòe cổ thụ lớn, anh thường cùng bạn bè ngâm nga uống rượu dưới gốc cây này. Có một hôm nọ, do uống quá say, hai người bạn phải dẫn anh về nhà, giữa đường anh hôn mê ngủ thiếp đi lúc nào không hay; chợt thấy có hai sứ giả mặc Tử Y, tự xưng là phụng mạng vua Hòe An Quốc (槐安國) đến mời anh đi. Họ dẫn anh lên xe, nhắm hướng cây hòe mà đi, vào trong động sâu, thấy núi sông, đường sá, hoàn toàn một thế giới riêng. Khi đến Hòe An Quốc, chàng hiệp sĩ vào bái kiến quốc vương, được phong chức Phò Mã và nhậm chức Thái Thú Quận Nam Kha (南柯郡). Nhà vua lại gả con gái Kim chi Công Chúa (金枝公主) cho Thuần Vu Phần, cho nên tại Hòe An Quốc, chàng tận hưởng vinh hoa phú quý. Tại chức trong vòng 20 năm, anh đã lập được nhiều công trạng, được nhà vua rất tín nhiệm. Sau có quân nước Đàn La (檀蘿) đến xâm chiếm, Thuần Vu Phần điều binh khiển tướng nghênh địch, nhưng đại bại và được nhà vua tha tội chết. Tuy nhiên, không bao lâu sau, vợ anh bị bệnh nặng qua đời; Vu Phần vô cùng đau xót, cáo bệnh từ quan và trở về kinh thành. Vì ông giao du rộng rãi, kẻ ra người vào tấp nập, tiếng tăm vang dậy, làm cho nhà vua nghi kỵ, ra lệnh tước đoạt hết các thị vệ và nghiêm cấm không cho giao du. Vu Phần uất ức không được vui trong lòng; cuối cùng nhà vua cho sứ giả đưa ông trở về nhà cũ. Khi về đến nơi, anh tỉnh giấc mộng, thấy hai người bạn vẫn còn đó, bóng tà dương vẫn chưa khuất về Tây. Nhớ đến câu chuyện trong mộng, anh cùng hai bạn tìm huyệt động nơi gốc cây hòe, thì thấy bầy kiến lúc nhúc bên trong, tích chứa đất làm thành hình dáng giống như thành quách, cung điện, rất khớp với cảnh trong mộng. Hòe An Quốc là quốc gia kiến, Quận Nam Kha cũng như các nơi anh đã từng đi qua đều hiện rõ. Anh giật mình kinh hoàng, mới hay tất cả chỉ là một giấc mộng, cuộc đời và mạng người vô thường, ngắn ngủi; nhân đó, anh quy y với đạo môn, dứt tuyệt không uống rượu nữa và ba năm sau thì qua đời. Tác phẩm Nam Kha Thái Thú Truyện này cũng tương tự với Chẩm Trung Ký (枕中記) với câu chuyện Hoàng Lương Mộng (黃梁夢, Mộng Kê Vàng) của Lô Sanh (盧生). Dựa trên tác phẩm Nam Kha Thái Thú Truyện, sau này Thang Hiển Tổ (湯顯祖) nhà Minh có sáng tác Nam Kha Ký (南柯記). Bạch Ẩn Huệ Hạc (白隱慧鶴, 1685-1768), vị Thiền tăng của Lâm Tế Tông Nhật Bản cũng có trước tác bộ Hòe An Quốc Ngữ (槐安國語, Kaiankokugo, 2 quyển). Trong bài thơ Đề Thành Sơn Vãn Đối Hiên Bích (題城山晚對軒壁) của Phạm Thành Đại (范成大, 1126-1193) nhà Tống có câu: “Nhất chẩm thanh phong mộng lục la, nhân gian tùy xứ thị Nam Kha (一枕清風夢綠蘿、人間隨處是南柯, tựa gối gió thanh mơ lục la, trên đời có chỗ ấy Nam Kha).” Hay như trong Ngọc Trâm Ký (玉簪記), phần Trùng Hiệu (重效) của Cao Liêm (高濂, ?-?) nhà Minh cũng có câu: “Tùng giáo phân thủ xứ, hữu mộng thác Nam Kha (從敎分手處、有夢托南柯, theo lời đi khắp chốn, vói mộng gởi Nam Kha).” Viên Nhân Pháp Sư (圓因法師, 1910-2002) có sáng tác bài Nam Kha Nhất Mộng (南柯一夢) trong Mao Bồng Trát Ký (茅篷札記): “Tảo lộ phong đăng thiểm điện quang, tổng thị Nam Kha nhất mộng trường, nhân quy hà xứ thanh sơn tại, thanh sơn vô ngữ thán nhân vong (草露風燈閃電光、總是南柯夢一塲、人歸何處青山在,青山無語嘆人亡, sương sớm gió trong ánh chớp loang, thảy đều Nam Kha giấc mộng trường, người về nào chốn núi xanh đó, núi xanh lặng lẽ khóc người thương).” Về phía Việt Nam, trong tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) lại có câu: “Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không.” Hoặc trong bài Lạc Đường của Tú Xương (1871-1907) có câu: “Giấc mộng Nam Kha khéo chập chờn.” Trong Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) của Nguyễn Du (1765-1820) cũng có câu: “Tiếng sen sẽ động giấc hòe, bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.” Ngoài ra, trong các bài tán cúng cầu siêu cho hương linh quá cố có bài: “Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai (南柯一夢斷、西域九蓮開、飜身歸淨土、合掌禮如來, Nam Kha giấc mộng dứt, Tây phương chín sen khai, chuyển thân về Tịnh Độ, chấp tay lễ Như Lai).”
(玉葉): lá ngọc, là kính ngữ dùng cho những người cao quý xuất thân hoàng thân quốc thích, thường đi chung với Kim chi (金枝, cành vàng). Như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi 93 có đoạn rằng: “Bần tăng thị cá xuất gia dị giáo chi nhân, chẩm cảm dữ ngọc diệp Kim chi vi ngẫu (貧僧是個出家異敎之人、怎敢與玉葉金枝爲偶, bần tăng là người xuất gia khác tôn giáo, nào dám sánh đôi cùng với cành vàng lá ngọc).” Như trong Lịch Triều Thích Thị Tư Giám (歷朝釋氏資鑑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 76, No. 1517) có đoạn: “Kim chi nhi chi chi đĩnh tú, ngọc diệp nhi diệp diệp tương thừa, pháp luân đại chuyển ư Chi Na, đế nhật trường huy ư Chấn Đán (金枝而枝枝挺秀、玉葉而葉葉相承、法輪大轉於支那、帝日長輝於震旦, cành vàng mà cành cành rực rỡ, lá ngọc mà lá lá truyền thừa, xe pháp chuyển lớn nơi Chi Na, ngày vua sáng mãi nơi Trung Quốc).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.10 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập