Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Từ Không »»
(s: guṇa, 功德): âm dịch là Cụ Nẵng (懼曩), Ngu Nẵng (麌曩), Cầu Na (求那); ý dịch là công đức, phước đức; cũng chỉ cho quả báo có được nhờ làm việc thiện. Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 3 có ghi lại đoạn vua Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) nhà Lương hỏi Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma (菩提達磨) rằng: “Trẫm tức vị dĩ lai, tạo tự tả kinh độ tăng bất khả thắng kỷ, hữu hà công đức ? Sư viết: 'Tinh vô công đức.' Đế viết: 'Hà dĩ vô công đức ?' Sư viết: 'Thử đản nhân thiên tiểu quả hữu lậu chi nhân, như ảnh tùy hình tuy hữu phi thật.' Đế viết: 'Như hà thị chơn công đức ?' Đáp viết: 'Tịnh trí diệu viên thể tự không tịch, như thị công đức bất dĩ thế cầu' (朕卽位已來、造寺寫經度僧不可勝紀、有何功德、師曰、幷無功德、帝曰、何以無功德、師曰、此但人天小果有漏之因、如影隨形雖有非實、帝曰、如何是眞功德、答曰、淨智妙圓體自空寂、如是功德不以世求, Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, lập chùa, chép kinh, độ tăng chúng, không thể tính hết, vậy có công đức gì không ? Tổ sư đáp rằng: 'Đều không có công đức gì cả.' Vua hỏi: 'Vì sao không có công đức ?' Tổ sư đáp: 'Đây chỉ là quả báo nhỏ của trời người, có nhân hữu lậu, như bóng theo hình tuy có mà không thật.' Vua hỏi: 'Thế nào là công đức chân thật ?' Trả lời rằng: 'Trí trong sạch tròn đầy, thể tự vắng lặng, công đức như vậy không lấy thế gian mà cầu được).” Trong Thắng Man Bảo Quật (勝鬘寶窟, Taishō Vol. 37, No. 1744) quyển Thượng giải thích về nghĩa công đức rằng: “Ác tận viết công, thiện mãn viết đức; hựu đức giả đắc dã, tu công sở đắc, cố danh công đức dã (惡盡曰功、善滿稱德、又德者得也、修功所得、故名功德也, điều ác hết gọi là công, việc thiện tròn đầy gọi là đức; lại nữa đức có nghĩa là đắc [có được], nhờ công năng tu tập mà có được, nên gọi là công đức vậy).” Sự sâu xa, rộng lớn của công đức được ví như biển, nên được gọi là công đức hải (s: guṇa-sāgara, 功德海, biển công đức); rất quý trọng như báu vật nên có tên là công đức bảo (s: guṇa-ratna, 功德寶); và một số từ khác đi với công đức như công đức lâm (功德林, rừng công đức), công đức tụ (功德聚, sự tích lũy công đức), (功德莊嚴, trang nghiêm công đức), công đức tạng (功德藏, kho tàng công đức), v.v.
(九界): Chín Cõi. Trừ Phật Giới (佛界) trong Thập Pháp Giới (十法界), tức còn Cửu Giới; gồm: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, A Tu La, Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Sáu cõi đầu là Lục Phàm (六凡), và ba cõi sau là Tam Thánh (三聖). Trong Tịnh Độ Tùy Học (淨土隨學, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1187) quyển Hạ có đoạn: “Mê chi tắc Cửu Giới tạp trần, sanh tử bất tuyệt; ngộ chi tắc Phật đạo viên thành, tịch thường chơn tịnh (迷之則九界雜陳、生死不絕、悟之則佛道圓成、寂常眞淨, khi mê thì Chín Cõi tạp nhiễm, sanh tử không dứt; khi ngộ thì Phật đạo viên thành, vắng lặng thanh tịnh).” Hay trong bài Quan Âm Đại Sĩ Tán (觀音大士贊) của Vi Lâm Thiền Sư Lữ Bạc Am Cảo (爲霖禪師旅泊菴稿, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1442) quyển 4 có câu: “Diệu tướng từ dung đoan nghiêm tự tại, xứ xứ phân hình biến ư Cửu Giới, như nhật phổ nhiệt như nguyệt phổ lương, tầm thanh cứu khổ ứng hiện vô phương (玅相慈容端嚴自在、處處分形遍於九界、如日普熱如月普涼、尋聲救苦應現無方, tướng mầu dung từ đoan nghiêm tự tại, chốn chốn phân thân biến khắp Chín Cõi, như trời rực nóng như trăng mát tươi, tầm thanh cứu khổ ứng hiện cùng nơi).”
(九界): Chín Cõi. Trừ Phật Giới (佛界) trong Thập Pháp Giới (十法界), tức còn Cửu Giới; gồm: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, A Tu La, Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Sáu cõi đầu là Lục Phàm (六凡), và ba cõi sau là Tam Thánh (三聖). Trong Tịnh Độ Tùy Học (淨土隨學, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1187) quyển Hạ có đoạn: “Mê chi tắc Cửu Giới tạp trần, sanh tử bất tuyệt; ngộ chi tắc Phật đạo viên thành, tịch thường chơn tịnh (迷之則九界雜陳、生死不絕、悟之則佛道圓成、寂常眞淨, khi mê thì Chín Cõi tạp nhiễm, sanh tử không dứt; khi ngộ thì Phật đạo viên thành, vắng lặng thanh tịnh).” Hay trong bài Quan Âm Đại Sĩ Tán (觀音大士贊) của Vi Lâm Thiền Sư Lữ Bạc Am Cảo (爲霖禪師旅泊菴稿, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1442) quyển 4 có câu: “Diệu tướng từ dung đoan nghiêm tự tại, xứ xứ phân hình biến ư Cửu Giới, như nhật phổ nhiệt như nguyệt phổ lương, tầm thanh cứu khổ ứng hiện vô phương (玅相慈容端嚴自在、處處分形遍於九界、如日普熱如月普涼、尋聲救苦應現無方, tướng mầu dung từ đoan nghiêm tự tại, chốn chốn phân thân biến khắp Chín Cõi, như trời rực nóng như trăng mát tươi, tầm thanh cứu khổ ứng hiện cùng nơi).”
(s: mahāvīra, 大雄): ý chỉ bậc anh hùng vĩ đại, là đức hiệu của đức Phật, vì Ngài là đấng anh hùng, có đủ năng lực trí tuệ lớn, có thể hàng phục ma chướng, chiến thắng tự thân mình. Vì vậy, tại Chánh Điện tôn thờ đức Phật được gọi là “Đại Hùng Bảo Điện (大雄寶殿, ngôi điện báu của đấng Đại Hùng).” Như trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262), Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (從地踊出品) thứ 15, có câu: “Thiện tai ! Thiện tai ! Đại hùng Thế Tôn ! (善哉、善哉、大雄世尊, Lành thay ! Lành thay ! Đức Thế Tôn đại hùng !).” Hay trong Phụ Tử Hợp Tập Kinh (父子合集經, Taishō Vol. 11, No. 320) quyển 13, Phẩm Tịnh Cư Thiên Thuyết Kệ Tán Phật (淨居天子說偈讚佛品) thứ 24, có đoạn: “Đại hùng mãnh Thế Tôn, xả sanh tử trọng đảm, cần tu vô thối khuất, tốc chí ư Bồ Đề (大雄猛世尊、捨生死重擔、勤修無退屈、速至於菩提, Thế Tôn đại hùng mãnh, bỏ sống chết gánh nặng, siêng tu không thối chuyển, mau đến nơi Bồ Đề).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 7, phần Trú Kim Lăng Thiên Giới Thiền Tự Ngữ Lục (住金陵天界禪寺語錄), lại có câu: “Đại Hùng Điện niêm hương, hoàng kim điện thượng Tam Tôn Phật, bạch ngọc quang trung nhất cá tăng (大雄殿拈香、黃金殿上三尊佛、白玉光中一箇僧, nơi Điện Đại Hùng niêm hương, vàng ròng trên điện Ba Đấng Phật, ngọc trắng hào quang một lão tăng).”
(道元, Dōgen, 1200-1253): vị tăng sống vào đầu thời kỳ Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), tổ sư khai sáng ra Tào Động Tông Nhật Bản, húy là Hy Huyền (希玄), xuất thân vùng Kyoto (京都), họ là Nguyên (源), con của vị Nội Đại Thần Cửu Ngã Thông Thân (內大臣久我通親), mẹ là con gái của Cửu Điều Cơ Phòng (九條基房). Năm lên 3 tuổi, ông mất cha, rồi đến 8 tuổi thì mất mẹ. Năm lên 13 tuổi, ông theo xuất gia với Lương Quán (良觀) trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), ở tại Bát Nhã Cốc Thiên Quang Phòng (般若谷千光房) thuộc Thủ Lăng Nghiêm Viện (首楞嚴院) vùng Hoành Xuyên (横川, Yokogawa), đến năm sau ông thọ giới với vị Tọa Chủ Công Viên (公圓). Sau đó, ông đến tham học với Trường Lại Công Dận (長吏公胤) ở Viên Thành Tự (圓城寺), và thể theo lời dạy của vị này, ông đến Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), theo hầu môn hạ của Vinh Tây (榮西, Eisai) là Minh Toàn (明全, Myōzen). Vào năm thứ 2 (1223) niên hiệu Trinh Ứng (貞應), ông cùng với Minh Toàn sang nhà Tống cầu pháp, dừng chân ở Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức Tự (天童山景德寺), rồi lại đi tham bái các chùa khác như Dục Vương Sơn Quảng Lợi Tự (育王山廣利寺), nhưng cuối cùng rồi cũng quay về Thiên Đồng Sơn. Chính nơi đây ông gặp được Trưởng Ông Như Tịnh (長翁如淨) và được vị này ấn khả cho. Vào năm đầu (1227) niên hiệu An Trinh (安貞), ông trở về nước. Sau khi trở về, ông tạm thời lưu trú tại Kiến Nhân Tự một thời gian, rồi đến năm đầu (1229) niên hiệu Khoan Hỷ (寬喜), ông đến trú tại An Dưỡng Viện (安養院) ở vùng Thâm Thảo (深草, Fukakusa) ở kinh đô Kyoto. Vào năm đầu (1233) niên hiệu Thiên Phước (天福), thể theo lời thỉnh cầu của Đằng Nguyên Giáo Gia (藤原敎家) và vị ni Chánh Giác (正覺), ông khai sáng Quan Âm Đạo Lợi Viện Hưng Thánh Bảo Lâm Tự (觀音道利院興聖寳林寺) ở vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro) và sống tại đây hơn 10 năm. Đến năm đầu (1243) niên hiệu Khoan Nguyên (寬元), đáp ứng lời thỉnh cầu của Ba Đa Dã Nghĩa Trọng (波多野義重), ông lên Chí Tỉ Trang (志比莊) ở vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), dừng chân ở tại thảo am Cát Phong Cổ Tự (吉峰古寺). Năm sau ông phát triển nơi đây thành Đại Phật Tự (大佛寺, Daibutsu-ji) và bắt đầu khai đường thuyết pháp giáo hóa, và hai năm sau nữa ông đổi tên chùa thành Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji). Hậu Tha Nga Pháp Hoàng (後嵯峨法皇) có ban tặng Tử Y cho ông, nhưng ông cố Từ Không nhận. Vào mùa hè năm thứ 4 niên hiệu Kiến Trường (建長), ông nhuốm bệnh, rồi đến tháng 7 năm sau ông giao hết mọi chuyện lại cho đệ tử Cô Vân Hoài Trang (孤雲懷奘), và vào ngày 28 tháng 8 năm này (1253), ông thị tịch trên kinh đô, hưởng thọ 54 tuổi. Trước tác của ông có bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng (正法眼藏) 95 quyển, Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi (普勸坐禪儀) 1 quyển, Học Đạo Dụng Tâm Tập (學道用心集) 1 quyển, Vĩnh Bình Thanh Quy (永平清規) 2 quyển, Vĩnh Bình Quảng Lục (永平廣錄) 10 quyển, Tản Tùng Đạo Vịnh (傘松道詠), v.v. Vào năm thứ 7 (1854) niên hiệu Gia Vĩnh (嘉永), ông được Hiếu Minh Thiên Hoàng (孝明天皇) ban cho thụy hiệu là Phật Tánh Truyền Đông Quốc Sư (佛性傳東國師), rồi đến năm thứ 11 niên hiệu Minh Trị (明治), ông lại được ban cho thụy hiệu là Thừa Dương Đại Sư (承陽大師). Trong Tào Động Tông Nhật Bản, ông được gọi là Cao Tổ.
(東林常聰, Tōrin Jōsō, 1025-1091): vị tăng của Phái Hoàng Long (黃龍派) thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, người vùng Diên Bình (延平, Nam Bình, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Thí (施). Sau khi xuất gia, ông đến tham học với Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南) trong suốt 20 năm trường, được trao truyền cho huyền chỉ đại pháp, rồi đến trú tại Lặc Đàm Tự (泐潭寺), sau đó chuyển đến Đông Lâm Tự (東林寺) ở Giang Châu (江州, Cửu Giang, Tỉnh Giang Tây). Ngôi chùa này xưa kia vốn là Luật Viện, nhưng theo chiếu chỉ của vua Thần Tông vào năm thứ 3 (1080) niên hiệu Nguyên Phong (元豐), thì được đổi thành ngôi Thiền tự. Khi ấy vị Thái Thú Nam Xương (南昌, Tỉnh Giang Tây) là Vương Thiều (王韶) mới cung thỉnh Hối Đường Tổ Tâm (晦堂祖心) về đây trú trì, thế nhưng Hối Đường lại cử Thường Thông đến thay thế. Chính nơi đây ông đã tuyên xướng tông phong của mình, tiếp độ rất nhiều học đồ và suốt 60 năm trường nỗ lực nuôi dưỡng nhân tài. Sau đó, có chiếu chỉ mời ông đến trú trì Trí Hải Thiền Viện (智海禪院) ở Tướng Quốc Tự (相國寺), nhưng ông cố Từ Không nhận. Sau ông được ban cho Tử Y cùng với hiệu là Quảng Huệ Thiền Sư (廣慧禪師). Hơn nữa, vào năm thứ 3 niên hiệu Nguyên Hựu (元祐), thể theo lời trình tấu của Từ Vương (徐王), ông được ban cho hiệu khác là Chiếu Giác Thiền Sư (照覺禪師). Vào ngày 30 tháng 9 năm thứ 6 (1091) đồng niên hiệu trên, ông thị tịch, hưởng thọ 67 tuổi.
(覺法, Kakubō, 1091-1153): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Tổ đời thứ 4 của Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), Tổ của Dòng Nhân Hòa Ngự (仁和御流), húy là Giác Pháp (覺法), thông xưng là Cao Dã Ngự Thất (高野御室), Thắng Liên Hoa Tự Sư Tử Vương Cung (勝蓮華寺獅子王宮); tự là Chơn Hành (眞行), Hành Chơn (行眞); Hoàng Tử thứ 4 của Bạch Hà Thiên Hoàng (白河天皇, Shirakawa Tennō, tại vị 1072-1086). Năm 1104, ông theo xuất gia và thọ giới với anh mình là Giác Hạnh (覺行) ở Nhân Hòa Tự. Sau khi anh qua đời, ông theo học pháp với Khoan Trợ (寬助) ở Thành Tựu Viện (成就院); rồi đến năm 1109 thì thọ phép Quán Đảnh ở Quan Âm Viện (觀音院) và trở thành Nhất Thân A Xà Lê (一身阿闍梨). Năm sau, ông nhận Dòng Tiểu Dã (小野流) từ Phạm Tuấn (範俊); đến năm 1125, ông nhậm chức Kiểm Hiệu của Nhân Hòa Tự; năm 1130 thì làm Đại A Xà Lê cho lễ cúng dường của Pháp Kim Cang Viện (法金剛院), và năm 1137 thì làm Chứng Minh Đạo Sư cho buổi lễ khánh thành An Lạc Thọ Viện (安樂壽院). Đến năm 1139, ông biến Quan Âm Viện thành ngôi chùa phát nguyện của triều đình và được phép tiến hành Quán Đảnh Hội tại đây. Năm 1141, ông truyền trao giới pháp cho Điểu Vũ Thiên Hoàng (鳥羽天皇, Toba Tennō, tại vị 1107-1123) tại Giới Đàn Viện (戒壇院) của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Năm 1144, ông tu Khổng Tước Kinh Pháp (孔雀經法) để cầu nguyện cho cận vệ của Thiên Hoàng được lành bệnh. Ông rất giỏi về sự tướng, và khai sáng Dòng Nhân Hòa Ngự. Đệ tử phú pháp của ông có Giác Thành (覺成), Giác Tánh (覺性), Kiêm Trợ (兼助), Thánh Huệ (聖惠), v.v.
(s: Śītavana, p: Sītavana, j: kanrin, 寒林): căn cứ vào Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (一切經音義) quyển 7 của cao tăng Thích Huyền Ứng (玄應, ?-?) nhà Đường giải thích rằng: “Thi Đà Lâm, chánh ngôn Thi Đa Bà Na, thử danh Hàn Lâm; kỳ lâm u thúy nhi hàn, nhân dĩ danh dã, tại Vương Xá Thành trắc, tử nhân đa tống kỳ trung, kim tổng chỉ khí thi chi xứ danh Thi Đà Lâm giả, thủ bỉ danh chi dã (屍陀林、正言屍多婆那、此名寒林、其林幽邃而寒、因以名也、在王舍城側、死人多送其中、今總指棄屍之處名屍陀林者、取彼名之也, Thi Đà Lâm, gọi cho đúng là Thi Đa Bà Na, ở đây [Trung Quốc] gọi là Hàn Lâm; khu rừng này thâm u mà lạnh lẽo, nên có tên như vậy, nằm một bên Vương Xá Thành; phần lớn người chết đều được tống vào trong rừng này; nay chỉ chung cho những nơi vất bỏ thi thể người chết là Thi Đà Lâm, lấy đó làm tên gọi).” Như vậy, Thi Đa Bà Na (尸多婆那), Thi Đà Lâm (屍陀林、尸陀林), là âm dịch của Hàn Lâm, khu mộ địa nằm gần Vương Xá Thành (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城), là khu rừng vứt bỏ xác người chết cho cầm thú ăn. Người vào khu rừng này cảm thấy rùng rợn, lạnh lùng, sợ hãi, nên được gọi là Hàn Lâm (khu rừng lạnh lẽo). Từ đó, nó được gọi là nghĩa trang, khu mộ địa. Cho nên Hàn Lâm ở đây có nghĩa là khu rừng lạnh lẽo với những xác người chết, vì vậy các hồn phách vất vưởng mới đến nương tựa. Trong bài Phụng Hòa Tập Mỹ Thương Sử Củng Sơn Nhân (奉和襲美傷史拱山人) của Lục Quy Mông (陸龜蒙, ?-khoảng 876) nhà Đường có câu: “Tằng thuyết sơn thê dục khứ tầm, khởi tri sương cốt táng Hàn Lâm (曾說山棲欲去尋、豈知霜骨葬寒林, từng sống rừng sâu muốn đi tìm, nào hay sương cốt chôn Hàn Lâm).” Hay trong bài Dữ Lý Sanh Luận Thi Thư (與李生論詩書唐) của Tư Không Đồ (司空圖, 837-908) nhà Đường cũng có câu: “Đào nạn nhân đa phần khích địa, phóng sanh lộc đại xuất Hàn Lâm (逃難人多分隙地、放生鹿大出寒林, trốn nạn người đa phần chun đất, phóng sanh nai thường ra Hàn Lâm).”
(行狀): là một thể loại văn chương ghi lại sơ lược tất cả những việc làm, sinh hoạt, quê quán, ngày tháng năm sinh và năm mất của một người nào đó; còn gọi là Hành Trạng Ký (行狀記), Hành Thuật (行述), Hành Thật (行實), Hành Nghiệp (行業), Hành Nghiệp Ký (行業記). Dưới thời nhà Hán thì gọi là Trạng, và từ thời nhà Nguyên trở về sau thì gọi là Hành Trạng. Nguồn gốc của Hành Trạng khởi đầu vào thời Đông Hán (東漢, 25-220), đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều (魏晉南北朝, 220-589) thì bắt đầu thịnh hành; được tìm thấy trong phần trích dẫn về hành trạng của chư vị hiền đi trước của Truyện Viên Thiệu (袁紹), Ngụy Chí (魏志) 6 thuộc Tam Quốc Chí (三國志); hay trong Truyện Vương Ẩn (王隱) của Tấn Thư (晉書) quyển 82, cho biết rằng Vương Ẩn lúc nhỏ rất thích học, có chí viết ký thuật, thường ghi chép lại những sự việc nhà Tấn cũng như hành trạng của chư vị công thần. Có một số ký thuật hành trạng nổi tiếng qua các triều đại của Trung Quốc. Tỷ dụ như dưới thời nhà Đường (唐, 618-907) có Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀), 1 quyển, không rõ tác giả; Đổng Tấn Hành Trạng (董晉行狀) của Hàn Dũ (韓愈, 768-824); Hàn Lại Bộ Hành Trạng (韓吏部行狀) của Lý Cao (李翱, 774-836), v.v. Thời nhà Tống (宋, 960-1279) có Tư Mã Ôn Công Hành Trạng (司馬溫公行狀) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101); Phó Anh Châu Khất Đan Hành Trạng (赴英州乞舟行狀) cũng của Tô Thức; Minh Đạo Tiên Sinh Hành Trạng (明道先生行狀) của Trình Di (程頤, 1033-1107); Hoàng Khảo Lại Bộ Chu Công Hành Trạng (皇考吏部朱公行狀) của Chu Hy (朱熹, 1130-1200); Trương Ngụy Công Hành Trạng (張魏公行狀) của Chu Hy; Triều Phụng Đại Phu Văn Hoa Các Đãi Chế Tặng Bảo Mô Các Trực Học Sĩ Thông Nghị Đại Phu Thụy Văn Chu Tiên Sinh Hành Trạng (朝奉大夫文華閣待制贈寶謨閣直學士通議大夫諡文朱先生行狀) của Hoàng Càn (黃乾, 1152-1221), v.v. Thời nhà Nguyên (元, 1206-1368) có Cao Phong Thiền Sư Hành Trạng (高峰禪師行狀) của Triệu Mạnh Phủ (趙孟頫, 1254-1322). Dưới thời nhà Minh (明, 1368-1662) thì có Thành Ý Lưu Công Cơ Hành Trạng (誠意伯劉公基行狀) của Hoàng Bá Sanh (黃伯生, ?-?); Tự Tự Tiên Thế Hành Trạng (自敘先世行狀) của Hoàng Tá (黃佐, 1490-1566); Viên Trung Lang Hành Trạng (袁中郎行狀) của Viên Trung Đạo (袁中道, 1570-1623), v.v. Thời nhà Thanh (清, 1616-1911) có Ngô Đồng Sơ Hành Trạng (吳同初行狀) của Cố Viêm Võ (顧炎武, 1613-1682). Về hành trạng của Phật Giáo, trong Nghệ Văn Chí (藝文志) của Tân Đường Thư (新唐書) quyển 59 có Tăng Già Hành Trạng (僧伽行狀) do Tân Sùng (辛崇) soạn, 1 quyển; trong Thiên Tăng Hành (僧行篇) của Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集) quyển 23 có phần Chư Tăng Luy Hành Trạng (諸僧誄行狀). Trong Đại Tạng Kinh của Phật Giáo có Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀, Taishō Vol. 50, No. 2052), 1 quyển; Huyền Tông Triều Phiên Kinh Tam Tạng Thiện Vô Úy Tặng Hồng Lô Khanh Hành Trạng (玄宗朝翻經三藏善無畏贈鴻臚卿行狀, Taishō Vol. 50, No. 2055), do Lý Hoa (李華) soạn, 1 quyển; Đại Đường Cố Đại Đức Tặng Tư Không Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không Tam Tạng Hành Trạng (大唐故大德贈司空大辨正廣智不空三藏行狀, Taishō Vol. 50, No. 2056) do Triệu Thiên (趙遷) soạn, 1 quyển; Đại Đường Thanh Long Tự Tam Triều Cúng Phụng Đại Đức Hành Trạng (大唐青龍寺三朝供奉大德行狀, Taishō Vol. 50, No. 2057, không rõ tác giả), 1 quyển, v.v. Trong Kim Thạch Tụy Biên (金石萃編) quyển 134 có Truyền Ứng Pháp Sư Hành Trạng (傳應法師行狀); Tục Kim Thạch Tụy Biên (續金石萃編) quyển 17 có Chiêu Hóa Tự Chính Thiền Sư Hành Trạng (昭化寺政禪師行狀), v.v.
(花筵): nguyên nghĩa là chiếc chiếu mỹ lệ được trang trí những hoa văn trang nhã, tuyệt đẹp; loại chiếu này thường được dùng trong các buổi yến hội, tiệc tùng và đặc biệt để dọn bày các phẩm vật dâng cúng; từ đó, dọn mâm cúng được gọi là “thiết hoa diên (設花筵, dọn chiếu hoa).” Như trong bài Thất Tịch Phú (七夕賦) của Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường có câu: “Phất hoa diên nhi thảm trắc, phi diệp tự nhi thản dương, kết diêu tình ư Hán Mạch, phi vĩnh đệ ư Hà Trang (拂花筵而慘惻、披葉序而徜徉、结遥情於汉陌,飞永睇於霞庄。結遙情於漢陌、飛永睇於霞莊, bày chiếu hoa mà thảm thương, mang chùm lá mà đùa vui, kết tình xa nơi Hán Mạch, phóng mắt nhìn chốn Hà Trang).” Hay trong bài thơ Bệnh Trung Giá Nữ Kĩ (病中嫁女妓) của Tư Không Thự (司空曙, ?-?) nhà Đường lại có câu: “Vạn sự thương tâm tại mục tiền, nhất thân thùy lệ đối hoa diên (萬事傷心在目前、一身垂淚對花筵, vạn chuyện thương tâm trước mắt mình, một thân rơi lệ trước chiếu hoa).” Cũng như trong bài Cửu Nhật Phụng Bồi Thị Trung Yến Hậu Đình (九日奉陪侍中宴後亭) của Lô Luân (盧綸, 739-799) nhà Đường có câu: “Ngọc hồ khuynh cúc tửu, nhất cố đắc yêm lưu, thái bút chinh mai tẩu, hoa diên vũ mạc sầu, quản huyền năng trú cảnh, tùng quế bất đình thu, vi tạ bồng hao bối, như hà sương tản trù (玉壺傾菊酒、一顧得淹留、彩筆征枚叟、花筵舞莫愁、管弦能駐景、松桂不停秋、爲謝蓬蒿輩、如何霜霰稠, bình ngọc rót rượu cúc, ngoảnh nhìn còn ngâm mãi, bút màu lão đồ già, chiếu hoa múa thêm buồn, dây đàn dừng cảnh vật, tùng quế chẳng giữ thu, cám ơn hàng bèo cỏ, sao biết sương tuyết nhiều).” Câu “ngưỡng tuân giáo điển, kính thiết hoa diên (仰遵敎典、敬設花筵)” có nghĩa là cung kính tuân theo lời dạy của thánh hiền, thành tâm thiết bày lễ cúng.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.186 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập