Hầu hết mọi người đều cho rằng sự thông minh tạo nên một nhà khoa học lớn. Nhưng họ đã lầm, chính nhân cách mới làm nên điều đó. (Most people say that it is the intellect which makes a great scientist. They are wrong: it is character.)Albert Einstein
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vãn Tham »»

(小參, shōsan): còn gọi là Gia Huấn (家訓) hay Gia Giáo (家敎), nghĩa là tại Phương Trượng, người đệ tử thọ pháp từ vị Trú Trì. Tiểu Tham đối với Đại Tham (大參, daisan), vốn thọ pháp nơi Pháp Đường. Chính vì nói về những lời dạy trong nhà, nên pháp này được tiến hành rất tinh tế, nhỏ nhặt, từ pháp thoại, Tông yếu cho đến những sinh hoạt hằng ngày. Khi cả đại chúng cùng đến tham vấn thì được gọi là Quảng Tham (廣參); còn đứng nghe thuyết pháp là Lập Tham (立參). Như trong Thiền Môn Quy Thức (禪門規式) có dạy rằng: “Kỳ hạp viện đại chúng, triêu tham tịch tụ (其闔院大眾、朝參夕聚, toàn thể đại chúng trong chùa, cùng nhau sáng chiều tập trung tham vấn)”; dưới thời nhà Đường (唐, 618-907) thì tùy thời mà tiến hành nghi thức này; nhưng đến thời nhà Tống (宋, 960-1279) thì được gọi là Vãn Tham (晩參), và theo Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規) thì nó được tiến hành mang tính định kỳ vào tối ngày mồng 3 và 8 mỗi tháng. Theo Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規), tùy theo chúng ít hay nhiều mà pháp Tiểu Tham được tiến hành tại Pháp Đường. Trường hợp đến tham vấn vào sáng sớm thì được gọi là Tảo Tham (早參), Triêu Tham (朝參). Hiện tại trong Tào Động Tông, mỗi tháng vào ngày mồng 1 và 15, người ta tiến hành pháp này ở Pháp Đường. Như trong Ứng Am Đàm Hoa Thiền Sư Ngữ Lục (應菴曇華禪師語錄, CBETA No. 1359) quyển 4 có đoạn: “Tăng vấn: 'bất điểm đăng, Đức Sơn Tiểu Tham bất đáp thoại, vị thẩm ý chỉ như hà' (僧問、藥山小參不點燈、德山小參不答話、未審意旨如何, có vị tăng hỏi rằng: 'Dược Sơn Tiểu Tham không thắp đèn, Đức Sơn Tiểu Tham chẳng đáp lời, chưa rõ ý chỉ như thế nào ?').” Hay như trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, CBETA No. 1571), quyển 101, phần Tùy Châu Phổ Chiếu Chúc Phong Thiện Thiền Sư (隨州普照祝峰善禪師) cũng có đoạn: “Trừ Tịch Tiểu Tham, kim triêu Phật pháp bất tương đồng, niên nguyệt tuế thiên vật vật cùng, duy hữu nạp tăng phân thượng sự, minh thần y cựu chúc Nghiêu phong (除夕小參、今朝佛法不相同、年月歲遷物物窮、惟有衲僧分上事、明晨依舊祝堯風, vào đêm Trừ Tịch, Thiền Sư hành pháp Tiểu Tham, bảo rằng sáng nay Phật pháp chẳng tương đồng, năm tháng đất trời vạn vật cùng, chỉ có lão tăng biết rõ thảy, mai này như cũ chúc bình yên).”
(住持, jūji): nguyên ban đầu có ý nghĩa là sống lâu, hộ trì Phật pháp; nhưng sau này chuyển sang nghĩa chỉ cho vị tăng chưởng quản một ngôi chùa; còn gọi là Trú Trì Chức (住持職), gọi tắt là Trú Chức (住職, jūshoku); hay gọi là Duy Na (維那), Tự Chủ (寺主). Từ sau thời nhà Tống (宋, hay Lưu Tống [劉宋], 420-479) trở đi, chức danh Trú Trì được dùng rộng rãi trong Thiền Lâm. Khi Phật Giáo đầu tiên mới du nhập vào Trung Quốc, những người tu Thiền lấy đạo truyền trao cho nhau, hoặc là sống trong hang động núi rừng, hoặc nương nơi các ngôi chùa Luật; và thưở ấy chưa có tên gọi Trú Trì. Mãi đến thời nhà Đường (唐, 618-907), Thiền phong dần dần hưng thịnh, đồ chúng mỗi ngày một tăng, Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海, 749-814) mới bắt đầu chế ra chức Trú Trì; sau này được tôn xưng là Trưởng Lão (長老), hay Phương Trượng (方丈). Như trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 5 có ghi rằng: “Thiền Tông Trú Trì, nhi xưng chi viết Trưởng Lão, dĩ xỉ đức cụ tôn dã (禪宗住持、而稱之曰長老、以齒德俱尊也, vị Trú Trì trong Thiền Tông được gọi là Trưởng Lão, vì coi trọng đức của vị ấy đủ tôn kính).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 2, phần Trú Trì Nhật Dụng (住持日用) có giải thích chi tiết 16 pháp vị Trú Trì phải hành trì bao quát hằng ngày, gồm:
(1) Thượng đường (上堂, thuyết pháp cho đại chúng tại Pháp Đường),
(2) Vãn Tham (晚參, buổi chiều thuyết pháp, giáo huấn cho đại chúng tại Pháp Đường),
(3) Tiểu tham (小參, thuyết pháp không phải theo thời gian quy định),
(4) Cáo hương (告香, thuyết pháp khai thị cho vị tăng mới đến),
(5) Phổ thuyết (普說, thuyết pháp),
(6) Nhập thất (入室),
(7) Niệm tụng (念誦),
(8) Tuần liêu (巡寮, tuần tra các liêu phòng của chúng tăng),
(9) Túc chúng (肅眾, giám sát và đốc thúc đại chúng),
(10) Huấn đồng hành (訓童行, dạy cho chúng điệu nhỏ mới vào tu),
(11) Vị hành giả phổ thuyết (爲行者普說, thuyết pháp cho hành giả),
(12) Thọ Pháp Y (受法衣, nhận Pháp Y),
(13) Nghênh thị tôn túc (迎侍尊宿, nghinh tiếp chư tôn túc đến thăm),
(14) Thí chủ thỉnh thăng tòa Trai Tăng (施主請陞座齋僧, thí chủ cung thỉnh lên tòa chứng minh, thọ nhận lễ Trai Tăng),
(15) Thọ từ pháp nhân tiên điểm (受嗣法人煎點, châm trà tiếp đãi những vị đến thọ nhận từ pháp),
(16) Từ pháp sư di thư chí (嗣法師遺書至, vị thầy truyền pháp mang từ thư đến).
Trú Trì là người phải đầy đủ đức hạnh kiêm toàn, nên trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 30 có câu: “Tương dục Trú Trì Tam Bảo, tất tu đức hạnh nội sung (將欲住持三寶、必須德行內充, nếu muốn Trú Trì Tam Bảo, tất phải có đầy đủ đức hạnh bên trong).” Hay trong Thiền Lâm Bảo Huấn Hợp Chú (禪林寶訓合註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1263) quyển 4 có nêu ra 4 yếu tố cần thiết cho vị Trú Trì: “Trú Trì chi thể hữu tứ yên, nhất đạo đức, nhị ngôn hạnh, tam nhân nghĩa, tứ lễ pháp; đạo đức ngôn hạnh, nãi giáo chi bổn, nhân nghĩa lễ pháp, nãi giáo chi mạt dã; vô bổn bất năng lập, vô mạt bất năng thành (住持之體有四焉、一道德、二言行、三仁義、四禮法、道德言行、乃敎之本也、仁義禮法、乃敎之末也、無本不能立、無末不能成, thể của Trú Trì có bốn điều, một là đạo đức, hai là ngôn hạnh, ba là nhân nghĩa, bốn là lễ pháp; đạo đức ngôn hạnh là gốc của giáo pháp; nhân nghĩa lễ pháp là rễ của giáo pháp; không gốc thì không đứng vững được, không rễ thì không hình thành được).” Cho nên, Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký quyển 1 còn khẳng định thêm rằng: “Khả kiến vi tăng giả, toàn lại tu hành vi bổn, sở vị trú trì giả hữu đạo đức, tắc tùng lâm nhật an, vô tắc tùng lâm nhật nguy (可見爲僧者、全賴修行爲本、所謂住持有道德、則叢林日安、無則叢林日危, có thể thấy rằng làm tăng sĩ toàn bộ đều lấy việc tu hành làm gốc, gọi là vị Trú Trì có đạo đức thì tùng lâm ngày một yên ổn, nếu không thì tùng lâm ngày một nguy khốn).” Quyển 5 của tác phẩm trên còn cho biết rằng: “Linh Sơn trú trì, Đại Ca Diếp thống chi; Trúc Lâm trú trì, Xá Lợi Phất chủ chi (靈山住持、大迦葉統之、竹林住持、舍利弗主之, trù trì Linh Sơn do Đại Ca Diếp thống quản, trú trì Trúc Lâm Tinh Xá do Xá Lợi Phất làm chủ).” Hay trong Niệm Phật Tam Muội (念佛三昧, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1190) cũng nêu rõ rằng: “Ta Bà thế giới, Thích Tôn trú trì, Hoa Tạng Thế Giới, Lô Xá Na Thế Tôn trú trì (娑婆世界、釋尊住持、華藏世界、盧舍那世尊住持, thế giới Ta Bà do đức Thích Tôn trú trì, thế giới Hoa Tạng do đức Thế Tôn Lô Xá Na trú trì).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập