Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vãn Tham »»
(鴒原): vốn phát xuất từ trong Thi Kinh (詩經), Chương Tiểu Nhã (小雅), Đường Lệ (棠棣): “Tích linh tại nguyên, huynh đệ cấp nạn (鶺鴒在原、兄弟急難, chim chìa vôi ở đồng, anh em có hoạn nạn cùng cứu nhau).” Về sau, người ta thường dùng từ “tích linh tại nguyên (鶺鴒在原)” hay “tích linh nguyên (鶺鴒原)” “linh nguyên” để chỉ ví dụ tình cảm thương yêu đùm bọc của anh em ruột thịt. Như trong bài thơ Nhập Hạp Ký Đệ (入峽寄弟) của Mạnh Hạo Nhiên (孟浩然, 689-740) nhà Đường có câu: “Lệ triêm minh nguyệt hạp, tâm đoạn tích linh nguyên (淚沾明月峽、心斷鶺鴒原, lệ tuôn trăng sáng núi, tâm dứt tình anh em).” Hay như trong bài thơ Tống Tạ Võ Tuyển Thiếu An Khao Sư Cố Nguyên Nhân Hoàn Thục Hội Huynh Táng (送謝武選少安犒師固原因還蜀會兄葬) của Tạ Chăn (謝榛, 1495-1575) nhà Minh cũng có câu: “Nhất đối Bì Đồng trường dục đoạn, tích linh nguyên thượng thảo tiêu tiêu (一對郫筒腸欲斷、鶺鴒原上草蕭蕭, khi đến Bì Đồng ruột muốn đứt, anh em chia cách cỏ tiêu điều).” Trong bài Cát Tiên Ông Chước Đài (葛仙翁釣臺) của Hoa Trấn (華鎮, 1051-?) lại có câu: “Văn thuyết phong lưu tạ khách nhi, linh nguyên tương ứng nhật minh phi, tiên ông di tích vân thâm xứ, huề thủ hành ngâm tống lạc huy (聞說風流謝客兒、鴒原相應日鳴飛、仙翁遺跡雲深處、携手行吟送落暉, nghe bảo phong lưu tạ khách hay, anh em cùng ứng ngày xa bay, tiên ông lưu dấu mây cùng chốn, tay thỏng ngâm nga tiễn chiều về).”
(日本徃生極樂記, Nihonōjōgokurakuki): truyền ký về những người có dị tướng vãng sanh, được biên tập vào giữa thời đại Bình An, do Khánh Tư Bảo Dận (慶滋保胤, Yoshishige-no-Yasutane, 931-1002) trước tác, 1 quyển; còn gọi là Nhật Bản Vãng Sanh Truyện (日本徃生傳). Từ việc ký thuật câu chuyện của Thiên Quán (千觀) qua đời năm 983 (Vĩnh Quán [永觀] nguyên niên), tác phẩm này được xem như thành lập trong khoảng thời gian từ năm đó cho đến năm 986 (Khoan Hòa [寛和] thứ 2), khi Bảo Dận xuất gia. Rồi sau đó, ông còn ghi thêm truyện của Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi), Hành Cơ (行基, Gyōki) cũng như của 5, 6 người vãng sanh khác. Tác phẩm này bắt chước theo Tịnh Độ Luận (淨土論) của Ca Tài (迦才) nhà Đường, Vãng Sanh Tây Phương Tịnh Độ Thoại Ứng San Truyện (徃生西方淨土瑞應删傳) của Văn Thẩm (文諗), Thiếu Khang (少康), thâu lục các biệt truyện của mọi người, hay hạnh nghiệp của người vãng sanh từ những truyền văn xa xưa. Ký lục về những người vãng sanh có 45 trường hợp, bao hàm cả nam nữ, tăng tục, người tu hạnh Niệm Phật, tụng Kinh Pháp Hoa hay hành trì Chơn Ngôn, v.v. Thư tịch này được thâu lục vào trong phần Truyện Bộ của Quần Thư Loại Đồ (群書類圖), Tục Tịnh Độ Tông Toàn Thư (續淨土宗全書) 17, Đại Nhật Bản Phật Giáo Toàn Thư (大日本佛敎全書), Nhật Bản Vãng Sanh Toàn Truyện (日本徃生全傳), Nhật Bản Tư Tưởng Đại Hệ (日本思想大系) 7.
(小參, shōsan): còn gọi là Gia Huấn (家訓) hay Gia Giáo (家敎), nghĩa là tại Phương Trượng, người đệ tử thọ pháp từ vị Trú Trì. Tiểu Tham đối với Đại Tham (大參, daisan), vốn thọ pháp nơi Pháp Đường. Chính vì nói về những lời dạy trong nhà, nên pháp này được tiến hành rất tinh tế, nhỏ nhặt, từ pháp thoại, Tông yếu cho đến những sinh hoạt hằng ngày. Khi cả đại chúng cùng đến tham vấn thì được gọi là Quảng Tham (廣參); còn đứng nghe thuyết pháp là Lập Tham (立參). Như trong Thiền Môn Quy Thức (禪門規式) có dạy rằng: “Kỳ hạp viện đại chúng, triêu tham tịch tụ (其闔院大眾、朝參夕聚, toàn thể đại chúng trong chùa, cùng nhau sáng chiều tập trung tham vấn)”; dưới thời nhà Đường (唐, 618-907) thì tùy thời mà tiến hành nghi thức này; nhưng đến thời nhà Tống (宋, 960-1279) thì được gọi là Vãn Tham (晩參), và theo Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規) thì nó được tiến hành mang tính định kỳ vào tối ngày mồng 3 và 8 mỗi tháng. Theo Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規), tùy theo chúng ít hay nhiều mà pháp Tiểu Tham được tiến hành tại Pháp Đường. Trường hợp đến tham vấn vào sáng sớm thì được gọi là Tảo Tham (早參), Triêu Tham (朝參). Hiện tại trong Tào Động Tông, mỗi tháng vào ngày mồng 1 và 15, người ta tiến hành pháp này ở Pháp Đường. Như trong Ứng Am Đàm Hoa Thiền Sư Ngữ Lục (應菴曇華禪師語錄, CBETA No. 1359) quyển 4 có đoạn: “Tăng vấn: 'bất điểm đăng, Đức Sơn Tiểu Tham bất đáp thoại, vị thẩm ý chỉ như hà' (僧問、藥山小參不點燈、德山小參不答話、未審意旨如何, có vị tăng hỏi rằng: 'Dược Sơn Tiểu Tham không thắp đèn, Đức Sơn Tiểu Tham chẳng đáp lời, chưa rõ ý chỉ như thế nào ?').” Hay như trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, CBETA No. 1571), quyển 101, phần Tùy Châu Phổ Chiếu Chúc Phong Thiện Thiền Sư (隨州普照祝峰善禪師) cũng có đoạn: “Trừ Tịch Tiểu Tham, kim triêu Phật pháp bất tương đồng, niên nguyệt tuế thiên vật vật cùng, duy hữu nạp tăng phân thượng sự, minh thần y cựu chúc Nghiêu phong (除夕小參、今朝佛法不相同、年月歲遷物物窮、惟有衲僧分上事、明晨依舊祝堯風, vào đêm Trừ Tịch, Thiền Sư hành pháp Tiểu Tham, bảo rằng sáng nay Phật pháp chẳng tương đồng, năm tháng đất trời vạn vật cùng, chỉ có lão tăng biết rõ thảy, mai này như cũ chúc bình yên).”
(住持, jūji): nguyên ban đầu có ý nghĩa là sống lâu, hộ trì Phật pháp; nhưng sau này chuyển sang nghĩa chỉ cho vị tăng chưởng quản một ngôi chùa; còn gọi là Trú Trì Chức (住持職), gọi tắt là Trú Chức (住職, jūshoku); hay gọi là Duy Na (維那), Tự Chủ (寺主). Từ sau thời nhà Tống (宋, hay Lưu Tống [劉宋], 420-479) trở đi, chức danh Trú Trì được dùng rộng rãi trong Thiền Lâm. Khi Phật Giáo đầu tiên mới du nhập vào Trung Quốc, những người tu Thiền lấy đạo truyền trao cho nhau, hoặc là sống trong hang động núi rừng, hoặc nương nơi các ngôi chùa Luật; và thưở ấy chưa có tên gọi Trú Trì. Mãi đến thời nhà Đường (唐, 618-907), Thiền phong dần dần hưng thịnh, đồ chúng mỗi ngày một tăng, Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海, 749-814) mới bắt đầu chế ra chức Trú Trì; sau này được tôn xưng là Trưởng Lão (長老), hay Phương Trượng (方丈). Như trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 5 có ghi rằng: “Thiền Tông Trú Trì, nhi xưng chi viết Trưởng Lão, dĩ xỉ đức cụ tôn dã (禪宗住持、而稱之曰長老、以齒德俱尊也, vị Trú Trì trong Thiền Tông được gọi là Trưởng Lão, vì coi trọng đức của vị ấy đủ tôn kính).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 2, phần Trú Trì Nhật Dụng (住持日用) có giải thích chi tiết 16 pháp vị Trú Trì phải hành trì bao quát hằng ngày, gồm:
(1) Thượng đường (上堂, thuyết pháp cho đại chúng tại Pháp Đường),
(2) Vãn Tham (晚參, buổi chiều thuyết pháp, giáo huấn cho đại chúng tại Pháp Đường),
(3) Tiểu tham (小參, thuyết pháp không phải theo thời gian quy định),
(4) Cáo hương (告香, thuyết pháp khai thị cho vị tăng mới đến),
(5) Phổ thuyết (普說, thuyết pháp),
(6) Nhập thất (入室),
(7) Niệm tụng (念誦),
(8) Tuần liêu (巡寮, tuần tra các liêu phòng của chúng tăng),
(9) Túc chúng (肅眾, giám sát và đốc thúc đại chúng),
(10) Huấn đồng hành (訓童行, dạy cho chúng điệu nhỏ mới vào tu),
(11) Vị hành giả phổ thuyết (爲行者普說, thuyết pháp cho hành giả),
(12) Thọ Pháp Y (受法衣, nhận Pháp Y),
(13) Nghênh thị tôn túc (迎侍尊宿, nghinh tiếp chư tôn túc đến thăm),
(14) Thí chủ thỉnh thăng tòa Trai Tăng (施主請陞座齋僧, thí chủ cung thỉnh lên tòa chứng minh, thọ nhận lễ Trai Tăng),
(15) Thọ từ pháp nhân tiên điểm (受嗣法人煎點, châm trà tiếp đãi những vị đến thọ nhận từ pháp),
(16) Từ pháp sư di thư chí (嗣法師遺書至, vị thầy truyền pháp mang từ thư đến).
Trú Trì là người phải đầy đủ đức hạnh kiêm toàn, nên trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 30 có câu: “Tương dục Trú Trì Tam Bảo, tất tu đức hạnh nội sung (將欲住持三寶、必須德行內充, nếu muốn Trú Trì Tam Bảo, tất phải có đầy đủ đức hạnh bên trong).” Hay trong Thiền Lâm Bảo Huấn Hợp Chú (禪林寶訓合註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1263) quyển 4 có nêu ra 4 yếu tố cần thiết cho vị Trú Trì: “Trú Trì chi thể hữu tứ yên, nhất đạo đức, nhị ngôn hạnh, tam nhân nghĩa, tứ lễ pháp; đạo đức ngôn hạnh, nãi giáo chi bổn, nhân nghĩa lễ pháp, nãi giáo chi mạt dã; vô bổn bất năng lập, vô mạt bất năng thành (住持之體有四焉、一道德、二言行、三仁義、四禮法、道德言行、乃敎之本也、仁義禮法、乃敎之末也、無本不能立、無末不能成, thể của Trú Trì có bốn điều, một là đạo đức, hai là ngôn hạnh, ba là nhân nghĩa, bốn là lễ pháp; đạo đức ngôn hạnh là gốc của giáo pháp; nhân nghĩa lễ pháp là rễ của giáo pháp; không gốc thì không đứng vững được, không rễ thì không hình thành được).” Cho nên, Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký quyển 1 còn khẳng định thêm rằng: “Khả kiến vi tăng giả, toàn lại tu hành vi bổn, sở vị trú trì giả hữu đạo đức, tắc tùng lâm nhật an, vô tắc tùng lâm nhật nguy (可見爲僧者、全賴修行爲本、所謂住持有道德、則叢林日安、無則叢林日危, có thể thấy rằng làm tăng sĩ toàn bộ đều lấy việc tu hành làm gốc, gọi là vị Trú Trì có đạo đức thì tùng lâm ngày một yên ổn, nếu không thì tùng lâm ngày một nguy khốn).” Quyển 5 của tác phẩm trên còn cho biết rằng: “Linh Sơn trú trì, Đại Ca Diếp thống chi; Trúc Lâm trú trì, Xá Lợi Phất chủ chi (靈山住持、大迦葉統之、竹林住持、舍利弗主之, trù trì Linh Sơn do Đại Ca Diếp thống quản, trú trì Trúc Lâm Tinh Xá do Xá Lợi Phất làm chủ).” Hay trong Niệm Phật Tam Muội (念佛三昧, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1190) cũng nêu rõ rằng: “Ta Bà thế giới, Thích Tôn trú trì, Hoa Tạng Thế Giới, Lô Xá Na Thế Tôn trú trì (娑婆世界、釋尊住持、華藏世界、盧舍那世尊住持, thế giới Ta Bà do đức Thích Tôn trú trì, thế giới Hoa Tạng do đức Thế Tôn Lô Xá Na trú trì).”
(徃生傳, Ōjōden): tập thâu lục truyền ký của những người vãng sanh Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà nhờ tu tập các thiện nghiệp, đặc biệt là niệm Phật. Như trong lời tựa bản Nhật Bản Vãng Sanh Cực Lạc Ký (日本徃生極樂記, Nihonōjōgokurakuki) của Khánh Tư Bảo Dận (慶滋保胤, Yoshishige-no-Yasutane, 931-1002) có dẫn các truyền ký trong Tịnh Độ Luận (淨土論) của Ca Tài (迦才) nhà Đường, cũng như Vãng Sanh Tây Phương Tịnh Độ Thoại Ứng San Truyện (徃生西方淨土瑞應删傳) của Văn Thẩm (文諗), Thiếu Khang (少康), những truyện vãng sanh dưới thời đại Bình An (平安, Heian, 794-1185) lấy truyện vãng sanh của Trung Quốc được biên tập dưới thời nhà Đường, Tống làm mô phạm; bất kể pháp môn tu tập khác nhau như Thiên Thai, Chơn Ngôn, Pháp Hoa, Niệm Phật, v.v., tác phẩm này thâu lục toàn bộ các trường hợp có dị tướng vãng sanh, có nhiều đoạn chấp bút thêm. Dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333), do Thiền Tông khai tông, môn đồ Nhất Hướng của Nhật Liên Tông phát triển, v.v., việc biên tập hành trạng vãng sanh của chư vị Tông tổ bị đứt đoạn. Tuy nhiên, sang đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo, 1600-1867), nhờ sự hỗ trợ của chính quyền Mạc Phủ, truyện vãng sanh của thời đại nhà Minh, Thanh bên Trung Quốc cũng ảnh hưởng mạnh; nhờ vậy phong trào thâu lục truyện vãng sanh tái hưng khởi. Thêm vào đó, với bối cảnh hướng thượng thể chế của chính quyền Mạc Phủ, việc biên tập chỉ giới hạn trong phạm vi nữ giới. Hơn nữa, các sách chú thích như Nhật Bản Vãng Lai Truyện Hòa Giải (日本徃來傳和解) do Tăng Thuần (僧純) trước tác vào năm 1851 (Gia Vĩnh [嘉永] thứ 4), cũng như một số tác phẩm thuộc loại sách dẫn như Thập Di Vãng Sanh Truyện Tế Mục (拾遺徃生傳細目), Thập Di Vãng Sanh Truyện Loại Tiêu (拾遺徃生傳類標), v.v., nói về truyện vãng sanh dưới thời Bình An, bắt đầu xuất hiện.
(s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗): một trong 10 vị đệ tử lớn của đức Phật, còn gọi là Xá Lợi Phất Đa (舍利弗多), Xá Lợi Phất La (舍利弗羅), Xá Lợi Phất Đát La (舍利弗怛羅), Xá Lợi Phất Đa La (舍利弗多羅), Xà Lợi Phú Đa La (闍利富多羅), Xà Lợi Phất Đa La (闍利弗多羅); ý dịch là Thu Lộ Tử (鶖鷺子、秋露子), Cù Dục Tử (鴝鵒子、鸜鵒子), Thu Tử (鶖子); thường gọi là Xá Lợi Tử (舍利子), cựu dịch là Thân Tử (身子). Mẹ ông là con gái của một vị luận sư Bà La Môn ở Thành Vương Xá (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城) thuộc nước Già Đà (伽陀). Khi vừa mới sanh ra, con mắt ông giống như mắt con chim Xá Lợi, nên ông được đặt tên là Xá Lợi Phất (con của chim Xá Lợi). Hay ông có tên khác là Ưu Ba Để Sa (s: Upatiṣya, p: Upatīṣya, 優波底沙), Ưu Ba Đế Tu (優波), v.v.; ý dịch là Đại Quang (大光), được lấy theo tên cha. Theo Bản Hạnh Tập Kinh (本行集經) quyển 48, Phẩm Xá Lợi Mục Liên Nhân Duyên (舍利目連因緣品), từ nhỏ tướng mạo của Xá Lợi Phất đã đoan nghiêm; đến khi lớn lên, rèn luyện các kỹ năng, thông hiểu các bộ kinh Phệ Đà. Năm lên 16 tuổi, ông đã có thể hàng phục các luận nghị của người khác, mọi người đều quy phục ông. Thời niên thiếu, ông từng kết giao với Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連) ở làng bên cạnh, thường đến tham dự những buổi tế lễ ngoài Thành Vương Xá, thấy mọi người vui chơi hỗn tạp, chợt cảm ngộ lẽ vô thường, bèn cắt bỏ râu tóc, theo xuất gia học đạo với một trong 6 vị thầy ngoại đạo là San Xà Da Tỳ La Chi Tử (s: Sañjayavairaṭṭiputra, 删闍耶毘羅胝子), chỉ trong 7 ngày đêm mà có thể thông suốt toàn bộ giáo nghĩa của vị này, hội chúng có 250 người đều tôn kính ông là bậc thượng thủ, song Xá Lợi Phất vẫn thâm cảm được rằng mình chưa được giải thoát. Lúc bấy giờ, đức Phật thành đạo không được bao lâu, hiện đang trú tại Tinh Xá Trúc Lâm (竹林精舍) ở Thành Vương Xá. Đệ tử Ngài là A Thuyết Thị (s: Aśvajit, Aśvaka; p: Assaji, 阿說示, còn gọi là Tỳ Kheo Mã Thắng [馬勝比丘]) đắp y, cầm bình bát vào trong thành khất thực. Xá Lợi Phất thấy vị này oai nghi đoan chính, bước đi khoan thai, bèn đến hỏi xem thầy là ai và thực hành pháp môn gì ? A Thuyết Thị bèn lấy pháp nhân duyên do đức Phật thuyết giảng để chỉ cho Xá Lợi Phất, để hiểu được lý các pháp là vô ngã. Nghe xong, Xá Lợi Phất cùng với Mục Kiền Liên, mỗi người thống lãnh 250 đệ tử, cùng đến Tinh Xá Trúc Lâm quy y với đức Phật. Theo Thập Nhị Du Kinh (十二遊經), sau khi quy y với đức Phật, ông thường tùy tùng theo Ngài, giúp giáo hóa mọi người, là bậc thượng thủ trong đại chúng. Ông là người thông minh xuất chúng, được tôn xưng là Trí Tuệ Đệ Nhất (Trí Tuệ Số Một). Lại căn cứ vào Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經) quyển 11, 12, Hiền Ngu Kinh (賢愚經) quyển 10, Phẩm Tu Đạt Khởi Tinh Xá (須達起精舍品), v.v., Xá Lợi Phất tinh thông ngoại điển, từng dùng biện tài siêu tuyệt để hàng phục ngoại đạo Mắt Đỏ; hay sự việc trưởng giả Tu Đạt Đa (p: Sudatta, 須達) quy y theo đức Phật, phát tâm kiến tạo Kỳ Viên Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍), v.v., cũng nhờ sự khuyến hóa tài tình và đầy trí tuệ của Xá Lợi Phất. Hơn nữa, theo Tứ Phần Luật (四分律) quyển 46, Thập Tụng Luật (十誦律) quyển 37, v.v., vào cuối đời của đức Phật, Đề Bà Đạt Đa (s, p: Devadatta, 提婆達多) tuyên xướng về 5 điều không đúng pháp, muốn phá hoại tăng đoàn, thống lãnh 500 Tỳ Kheo vào trong núi Già Da (伽耶); khi ấy Xá Lợi Phất cùng với Mục Kiền Liên đến ngọn núi này, khiến cho 500 Tỳ Kheo kia nhận ra sai lầm của mình, quay trở về với Phật. Suốt cả đời Xá Lợi Phất luôn được mọi người tôn kính, lại được đức Phật tán dương. Ông nhập diệt trước đức Phật, sau 7 ngày thì làm lễ Trà Tỳ (茶毘); y bát và di cốt của ông được an táng tại Kỳ Viên. Trưởng giả Tu Đạt Đa dựng tháp cho ông. Theo Phẩm Thí Dụ của Kinh Pháp Hoa cho biết rằng Xá Lợi Phất được đức Phật thọ ký cho rằng vào thời tương lai sẽ làm Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai (華光如來).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.159 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập