Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc là khi những gì bạn suy nghĩ, nói ra và thực hiện đều hòa hợp với nhau. (Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.)Mahatma Gandhi
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tùng Bình »»
(大樹寺, Daiju-ji): ngôi tự viện của Tịnh Độ Tông, sơn hiệu là Thành Đạo Sơn (成道山); tên chính thức là Thành Đạo Sơn Tùng An Viện Đại Thọ Tự (成道山松安院大樹寺); hiện tọa lạc tại số 5-1 Hiromoto (廣元), Kamoda-chō (鴨田町), Okazaki-shi (岡崎市), Aichi-ken (愛知縣). Tượng thờ chính là Thiên Quang Thiên Thể A Di Đà Như Lai (千光千体阿彌陀如來) và Như Ý Luân Quan Thế Âm Bồ Tát (如意輪觀世音菩薩). Đây là ngôi chùa cầu nguyện cho dòng họ Đức Xuyên (德川, Tokugawa, tức Tùng Bình [松平, Matsudaira]), cho nên bài vị cũng như mộ của lịch đại chư vị Tướng Quân đều an trí tại đây. Vào năm 1475 (Văn Minh [文明] 7), chùa được kiến lập để cúng dường cầu nguyện siêu độ cho Võ Tướng Tùng Bình Thân Trung (松平親忠, Matsudaira Chikatada) vị chết trong chiến trận, và Hòa Thượng Thế Dự Ngu Để (勢譽愚底) được cung thỉnh đến làm Tổ khai sơn. Đến năm 1560 (Vĩnh Lộc [永祿] 3), trong trận chiến Dũng Hiệp Gian (桶狹間, Okehazama), quân Kim Xuyên (今川, Imagawa) bị bại trận, Tùng Bình Nguyên Khang (松平元康, tức Đức Xuyên Gia Khang [德川家康, Tokugawa Ieyasu]) chạy vào đây trốn nạn, rồi định tự vẫn trước mộ phần của tổ tiên; nhưng nhờ vị trú trì đương thời là Đăng Dự (登譽) khuyên răn, nên ông từ bỏ ý định đó. Năm 1602 (Khánh Trường [慶長] 7), nơi đây chính thức trở thành chùa sắc nguyện của hoàng tộc. Chùa hiện còn lưu giữ khá nhiều bảo vật quý giá như Tháp Đa Bảo, bức bích họa ở Đại Phương Trượng, tượng A Di Đà Như Lai bằng gỗ, v.v.
(道鏡慧端, Dōkyō Etan, 1642-1721): tức Lão Nhân Chánh Thọ (正受, Shōju), vị tăng của Lâm Tế Tông Nhật Bản, tự là Đạo Kính (道鏡), sinh ra trong gia đình họ Tùng Bình (松平) ở Phạn Sơn (飯山, Iiyama), Tín Nùng (信濃, Shinano), Giang Hộ (江戸, Edo). Năm lên 19 tuổi, ông đến tham học với Chí Đạo Vô Nan (至道無難) ở Đông Bắc Am (東北庵) vùng Ma Bố, Giang Hộ, và chuyên tham cứu về tông phong Lâm Tế. Ông theo hầu thầy trong suốt hơn 10 năm. Về sau, ông lại đến tham yết Hổ Tai (虎哉), Nhất Nguyên (一元) ở vùng Áo Vũ (奥羽, Ōu), nhưng vài năm sau ông lại quay trở về với thầy ngày xưa Vô Nan. Cuối cùng ông ngộ được huyền chỉ và kế thừa dòng pháp của vị này. Có người khuyên ông nên kế thừa ngôi vị của thầy, nhưng ông không nghe lời, mà đến Phạn Sơn, Tín Nùng kết thảo am, lấy hiệu là Chánh Thọ Am, và ẩn cư tu hành. Ông được gọi là Chánh Thọ Lão Nhân (正受老人). Vào ngày mồng 6 tháng 10 năm thứ 6 (1721) niên hiệu Hưởng Bảo (享保), ông thị tịch, hưởng thọ 80 tuổi đời và 62 hạ lạp.
(德川, Tokugawa): tên gọi của một dòng họ, là dòng họ Tướng Quân của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ. Nguyên lai của dòng họ này phát xuất từ họ Tùng Bình (松平, Matsudaira) ở Thôn Tùng Bình (松平村), Quận Gia Mậu (加茂郡), tiểu quốc Tam Hà (三河, Mikawa). Có thuyết cho rằng để làm Tướng Quân, Gia Khang (家康, Ieyasu) đã cho Phạm Thuấn (梵舜) ngụy tạo gia hệ của mình mà đổi thành Đức Xuyên.
(德川家康, Tokugawa Ieyasu, 1542-1616): vị Tướng Quân đầu tiên của dòng họ Đức Xuyên, con đầu của Tùng Bình Quảng Trung (松平廣忠), tên lúc nhỏ là Trúc Thiên Đại (竹千代), tên khi lớn là Nguyên Khang (源康); Giới Danh là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện An Quốc Viện Điện Đức Liên Xã Sùng Dự Đạo Hòa Đại Cư Sĩ (東照大權現安國院殿德蓮社崇譽道和大居士) hay An Quốc Viện Điện Đức Liên Xã Sùng Dự Đạo Hòa Đại Cư Sĩ (安國院殿德蓮社崇譽道和大居士). Sau một thời gian lệ thuộc vào Kim Xuyên Nghĩa Nguyên (金川義元), ông bắt tay với Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), rồi hòa thân với Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi). Năm 1590, ông bị phong bế ở Quan Bát Châu (關八州), nên vào Thành Giang Hộ (江戸城, Edo-jō), và sau khi Tú Cát qua đời thì ông chấp chính ở Thành Phục Kiến (伏見城, Fushimi-jō). Vào năm 1600, trong trận chiến ở Sekigahara (関が原), ông phá tan phe đảng Thạch Điền Tam Thành (石田三成); đến năm 1603 thì được bổ nhiệm làm Chinh Di Đại Tướng Quân và mở ra chính quyền Mạc Phủ ở Giang Hộ. Về sau, ông nhường chức Tướng Quân cho Tú Trung (秀忠, Hidetada), rồi trở về sống ẩn cư. Ông được ban thụy hiệu là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện (東照大權現), pháp hiệu là An Quốc Viện (安國院).
(弘祥寺, Kōshō-ji): ngôi phế tự, nguyên lai thuộc về Tào Động Tông, từng tọa lạc tại sườn núi bên bờ tả ngạn Sông Nhật Dã (日野川) thuộc Kanaya-chō (金屋町), Fukui-shi (福井市), Fukui-ken (福井縣). Ban đầu, chùa do Quy Sơn Pháp Vương (龜山法王) kiến lập dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333); nhưng sau đó bị đốt cháy tan tành do vì cuộc chiến loạn Nam Bắc Triều. Về sau, Triêu Thương Quảng Cảnh (朝倉廣景, Asakura Hirokage) tái kiến lại chùa và cung thỉnh Thiền Sư Biệt Nguyên Viên Chỉ (別源圓旨, Betsugen Enshi, 1294-1364) của Tào Động Tông đến làm Tổ khai sơn và nơi đây trở thành ngôi chùa của dòng họ Triêu Thương. Sau khi Triêu Thương Nghĩa Cảnh (朝倉義景, Asakura Yoshikage) diệt vong, chùa lại bị đốt cháy lần nữa. May thay, nhờ bà Trường Quang Viện (長光院), mẫu thân của vị Phiên Chủ đời thứ tư Phiên Tùng Bình (松平藩) là Tùng Bình Quang Thông (松平光通, Matsudaira Mitsumichi), quy y theo, nên chùa được xây dựng lại. Đến thời đại Minh Trị (明治, 1868-1911), chùa được sát nhập vào (大安禪寺).
(鈴木重成, Suzuki Shigenari, 1588-1653): quan chức vào đầu thời Giang Hộ, con trai thứ 3 của Linh Mộc Trùng Thứ (鈴木重次, Suzuki Shigetsugi); anh của Thiền tăng Linh Mộc Chánh Tam (鈴木正三, Suzuki Shōsan); thông xưng là Tam Lang Cửu Lang (三郎九郎). Ông từng phục vụ cho hai Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) và Đức Xuyên Tú Trung (德川秀忠, Tokugawa Hidetada). Trong vụ Loạn Đảo Nguyên (島原の亂, Shimabara-no-ran) bộc phát vào năm 1637 (Khoan Vĩnh [寛永] 14), ông đi theo Tùng Bình Tín Cương (松平信綱, Matsudaira Nobutsuna), lao vào chiến địa, tham gia công kích thành. Sau chiến loạn, vào năm 1641 (Khoan Vĩnh 18), ông được bổ nhiệm làm quan đại diện cho vùng Thiên Thảo (天草, Amakusa). Tại đây, ông đã tận lực cải cách cuộc sống người dân, đặc biệt kiến nghị lên chính quyền Mạc Phủ về chính sách giảm bớt cống nạp hằng năm; nhưng chẳng ai lắng nghe ông cả. Cuối cùng, vì quá bất mãn và đau xót trước thực trạng như vậy, ông để lại bức Tố Trạng và dùng đao tự vẫn tại tư gia của ông vào năm 1563 (Thừa Ứng [承應] 2), hưởng thọ 66 tuổi. Chính quyền Mạc Phủ vô cùng kinh ngạc trước việc làm của Trùng Thành, nên đã kiểm thảo lại tất cả và tiến hành cho miễn giảm cống nạp hằng năm. Người dân vùng Thiên Thảo tưởng nhớ đến ân đức ấy, đã lập đền thờ phụng ông.
(會津藩, Aizu-han): tên của một Phiên thống trị phần Tây bộ Fukushima-ken (福島縣) hiện tại, thuộc Quận Hội Tân (會津郡, Aizu-gun), tiểu quốc Lục Áo (陸奥, Mutsu) ngày xưa. Cơ sở hành chính của Phiên là Thành Nhược Tùng (若松城, Wakamatsu-jō, thuộc Wakamatsu-shi [若松市], Aizu [會津]). Dưới thời đại Chiến Quốc, địa phương Hội Tân vốn do Chiến Quốc Đại Danh lấy vùng Hắc Xuyên (黑川, Kurokawa), sau này là Nhược Tùng (若松, Wakamatsu), Hội Tân, làm bản cứ; là tiểu quốc lãnh hữu của dòng họ Lô Danh (蘆名, Ashina). Vào năm 1589 (Thiên Chánh [天正] 17), Y Đạt Chính Tông (伊達政宗, Date Masamune) tiêu diệt dòng họ này, chiếm cứ Hắc Xuyên. Năm sau, 1590, nhân vị xử lý ở Áo Châu (奥州, Ōshū) của Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), địa phương Hội Tân cũng như các vùng lân cận đều bị Chính Tông thâu tóm, và ban cho Bồ Sanh Thị Hương (蒲生氏郷, Gamō Ujisato) với 42 vạn thạch, sau là 92 vạn. Thị Hương đổi tên Hắc Xuyên thành Nhược Tùng và đã đóng góp công lao lớn trong việc làm cho kinh tế lãnh quốc phát triển. Sau khi Thị Hương qua đời, vào năm 1598 (Khánh Trường [慶長] 3), con trai ông là Bồ Sanh Tú Hành (蒲生秀行, Gamō Hideyuki) bị chuyển về Vũ Đô Cung (宇都宮); thay vào đó là Thượng Sam Cảnh Thắng (上杉景勝, Uesugi Kagekatsu) từ Việt Hậu (越後, Echigo) đến với 120 vạn thạch. Trong trận chiến Sekigahara (關ヶ原), vì Cảnh Thắng đứng về phía của Thạch Điền (石田, Ishida), nên vào năm 1601 (Khánh Trường 6), thì bị chuyển về vùng Mễ Trạch (米澤), còn lại 30 vạn thạch. Người lên thay thế Cảnh Thắng là Bồ Sanh Trung Hương (蒲生忠郷, Gamō Tadasato); nhưng vào năm 1627 (Khoan Vĩnh [寛永] 4), ông mất sớm khi còn trẻ, nhưng lại không có con nối dõi. Cùng năm này, Gia Đằng Gia Minh (加藤嘉明, Katō Yoshiaki) đến kế thế với 40 vạn thạch. Người kế vị đời thứ 2 của dòng họ Gia Đằng là Minh Thành (明成, Akinari). Sau đó, nhân việc Minh Thành bị tước mất chức quyền vào năm 1643 (Khoan Vĩnh 20), Bảo Khoa Chánh Chi (保科正之, Hoshina Masayuki), con của Tướng Quân Đức Xuyên Tú Trung (德川秀忠, Tokugawa Hidetada), đến nắm quyền với 23 vạn thạch. Đến đời thứ 3 chấp quyền của dòng họ Bảo Khoa (保科, Hoshina) là Chánh Dung (正容, Masakata, con của Chánh Chi) thì đổi thành họ Tùng Bình (松平, Matsudaira), và được công nhận tên tuổi với tư cách là danh môn thân tộc của dòng họ Tướng Quân Đức Xuyên. Từ đó về sau, dòng họ Tùng Bình bắt đầu quản lãnh vùng Hội Tân. Vị Phiên chủ cuối cùng là Dung Bảo (容保, Katamori). Cuối cùng, vào năm 1876 (Minh Trị [明治] 9), Phiên này được sát nhập vào Fukushima-ken cho đến ngày nay. Lịch đại chư vị Phiên chủ của Phiên Hội Tân có 16 người, gồm: (1) Bồ Sanh Thị Hương (蒲生氏郷, Gamō Ujisato, tại nhiệm 1590-1595); (2) Bồ Sanh Tú Hành (蒲生秀行, Gamō Hideyuki, tại nhiệm 1595-1598); (3) Thượng Sam Cảnh Thắng (上杉景勝, Uesugi Kagekatsu, tại nhiệm 1598-1601); (4) Bồ Sanh Tú Hành (蒲生秀行, Gamō Hideyuki, tại nhiệm 1601-1612); (5) Bồ Sanh Trung Hương (蒲生忠郷, Gamō Tadasato, 1612-1627); (6) Gia Đằng Gia Minh (加藤嘉明, Katō Yoshiaki, tại nhiệm 1627-1631); (7) Gia Đằng Minh Thành (加藤明成, Katō Akinari, tại nhiệm 1631-1643); (8) Bảo Khoa Chánh Chi (保科正之, Hoshina Masayuki, tại nhiệm 1643-1669); (9) Bảo Khoa Chánh Kinh (保科正經, Hoshina Masatsune, tại nhiệm 1669-1681); (10) Bảo Khoa Chánh Dung (保科正容, Hoshina Masakata, tại nhiệm 1681-1731); (11) Tùng Bình Dung Trinh (松平容貞頌, Matsudaira Katasada, tại nhiệm 1731-750); (12) Tùng Bình Dung Tụng (松平容頌, Matsudaira Katanobu, tại nhiệm 1750-1805); (13) Tùng Bình Dung Trú (松平容住, Matsudaira Kataoki, tại nhiệm 1805); (14) Tùng Bình Dung Chúng (松平容眾, Matsudaira Katahiro, tại nhiệm 1806-1822); (15) Tùng Bình Dung Kính (松平容敬, Matsudaira Katataka, tại nhiệm 1822-1852); và (16) Tùng Bình Dung Bảo (松平容保, Matsudaira Katamori, tại nhiệm 1852-1868). Phiên chi nhánh của Phiên Hội Tân là Đẩu Nam (斗南, Tonami).
(水戸藩, Mito-han): tên một Phiên thống trị vùng Trung Bộ, Bắc Bộ Ibaraki-ken (茨城縣) hiện tại, thuộc tiểu quốc Thường Lục (常陸, Hitachi) ngày xưa. Cơ sở hành chính của Phiên là Thành Thủy Hộ (水戸城, Mito-jō, thuộc Mito-shi [水戸市]). Phiên chủ là mấy đời của dòng họ Đức Xuyên (德川, Tokugawa); chiếm khoảng 35 vạn thạch (đơn vị biểu hiện vị trí cao thấp và thế lực của hàng Đại Danh, Võ Sĩ, v.v.). Dòng họ Tá Trúc (佐竹, Satake) thuộc Chiến Quốc Đại Danh được Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) công nhận là người quản lãnh tiểu quốc Thường Lục; nhưng trong cuộc chiến Sekigahara (關ヶ原), vì Tá Trúc Nghĩa Tuyên (佐竹義宣), người có 54 vạn thạch, không trợ lực cho dòng họ Đức Xuyên; nên vào năm 1602 (Khánh Trường [慶長] 7), thì bị giảm xuống, chuyển về phiên Cửu Bảo Điền (久保田藩, Kubota-han) với 21 vạn thạch ở Thu Điền (秋田, Akita), Xuất Vũ (出羽, Dewa). Sau thời dòng họ Tá Trúc, ở Thủy Hộ có Võ Điền Tín Cát (武田信吉, Takeda Nobuyoshi, 15 vạn thạch), con trai thứ 5 của Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), lên thay thế. Năm sau, 1603, Tín Cát qua đời đột ngột và Đức Xuyên Lại Tuyên (德川賴宣, Tokugawa Yorinobu, 25 vạn thạch) kế vị. Tiếp theo Lại Tuyên là Đức Xuyên Lại Phòng (德川賴房, Tokugawa Yorifusa), được tăng lên đến 28 vạn thạch. Đến thời đại Nguyên Lộc (元祿), Phiên Thủy Hộ có 35 vạn thạch. Sau này, theo sự tình diễn tiến, Lại Phòng nhường chức lại cho người con thứ ba là Đức Xuyên Quang Quốc (德川光圀, Tokugawa Mitsukuni), rồi giao cho người trưởng nam là Tùng Bình Lại Trùng (松平賴重) làm Phiên chủ của Phiên Cao Tùng (高松藩, Takamatsu-han) có 12 vạn thạch. Bản thân Quang Quốc rất chuộng học vấn, từng biên tập bộ Đại Nhật Bản Sử (大日本史), gieo khí phong Tôn Vương (尊王) đến cho Phiên Thủy Hộ. Vốn ra đời ở Phiên này, Thủy Hộ Học đã đem lại ảnh hưởng mạnh cho cuộc Vận Động Tôn Hoàng Nhương Di (尊皇攘夷運動). Vị Phiên chủ đời thứ 9 là Đức Xuyên Tề Chiêu (德川齊昭, Tokugawa Nariaki), cũng có chí tham gia vào việc cải cách chính trị của Phiên, nhưng vì khuynh hướng Tôn Vương Nhương Di quá mạnh, nên ông phải từ chức và lui về ẩn cư. Đến cuối thời Mạc Phủ, trong Phiên nảy sinh những cuộc kháng tranh giữa Phái Bảo Thủ và Phái Cách Tân, nên mất đi sự thống chế, từ đó kéo theo bao vụ biến loạn như vụ Loạn Đảng Thiên Cẩu (天狗黨の亂), Chiến Tranh Hoằng Đạo Quán (弘道館戰爭), v.v. Lịch đại chư vị Phiên chủ có 13 đời, gồm: (1) Võ Điền Tín Cát (武田信吉, Takeda Nobuyoshi, tại nhiệm 1602-1603); (2) Đức Xuyên Lại Tuyên (德川賴宣, Tokugawa Yorinobu, tại nhiệm 1603-1609); (3) Đức Xuyên Lại Phòng (德川賴房, Tokugawa Yorifusa, tại nhiệm 1609-1661); (4) Đức Xuyên Quang Quốc (德川光圀, Tokugawa Mitsukuni, tại nhiệm 1661-1690); (5) Đức Xuyên Cương Điều (德川綱條, Tokugawa Tsunaeda, tại nhiệm 1690-1718); (6) Đức Xuyên Tông Nghiêu (德川宗堯, Tokugawa Munetaka, tại nhiệm 1718-1730); (7) Đức Xuyên Tông Hàn (德川宗翰, Tokugawa Munemoto, tại nhiệm 1730-1766); (8) Đức Xuyên Trị Bảo (德川治保, Tokugawa Harumori, tại nhiệm 1766-1805); (9) Đức Xuyên Trị Kỷ (德川治紀, Tokugawa Harutoshi, tại nhiệm 1805-1816); (10) Đức Xuyên Tề Tu (德川齊脩, Tokugawa Narinobu, tại nhiệm 1816-1829); (11) Đức Xuyên Tề Chiêu (德川齊昭, Tokugawa Nariaki, tại nhiệm 1829-1844); (12) Đức Xuyên Khánh Đốc (德川慶篤, Tokugawa Yoshiatsu, tại nhiệm 1844-1868); và (13) Đức Xuyên Chiêu Võ (德川昭武, Tokugawa Yoshiatsu, tại nhiệm 1868-1869).
(信光明寺, Shinkōmyō-ji): ngôi danh sát của Tịnh Độ Tông, hiệu núi là Di Lặc Sơn (彌勒山), tên chính thức là Di Lặc Sơn Sùng Nhạc Viện Tín Quang Minh Tự (彌勒山崇岳院信光明寺); hiện tọa lạc tại Iwazu-chō (岩津町), Okazaki-shi (岡崎市), Aichi-ken (愛知縣). Vào năm 1451 (Bảo Đức [寶德] 3), Tùng Bình Tín Quang (松平信光, Matsutaira Nobumitsu) phát tâm quy y theo Thích Dự Tồn Quynh (釋譽存冏), Tăng sĩ của Phái Trấn Tây (鎭西派) thuộc Tịnh Độ Tông, đi bố giáo từ Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) vùng Phạn Chiểu (飯沼, Iinuma, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]) đến tiểu quốc Tam Hà (三河, Mikawa), và khai sáng ra chùa này với mục đích cầu nguyện siêu độ cho tổ tiên quá cố của dòng họ Tùng Bình. Chính sau này vị trú trì đời thứ 2 và thứ 3 của chùa trở thành trú trì của Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in) ở kinh đô Kyoto, tạo điều kiện thuận lợi cho Phái Trấn Tây ở địa phương Tam Hà tiến xuất lên kinh đô. Vào năm 1571 (Nguyên Quy [元龜] 2), các ngôi đường vũ của chùa hầu như bị cháy rụi, chỉ còn sót lại Pháp Đường (hiện là Quan Âm Đường); nhưng 2 năm sau thì được tái kiến nhờ mệnh của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu). Từ đó về sau, chùa trở thành nơi chuyên tâm cầu nguyện cho tổ tiên của dòng họ Tướng Quân, được chính quyền Mạc Phủ bảo hộ tối đa. Vào khoảng cuối thời Giang Hộ (江戸, Edo, 1600-1867), chùa lại gặp nạn hỏa tai và kiến trúc hiện tại là quần thể trước niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永, 1704-1710), gồm có: Quan Âm Đường, Khách Điện, Đường Môn, Tổng Môn.
(中井竹山, Nakai Chikuzan, 1730-1804): Nho gia sống vào khoảng giữa thời Giang Hộ; tên là Tích Thiện (積善); tự Tử Khánh (子慶); xuất thân vùng Đại Phản (大阪, Ōsaka). Phụ thân là Trứu Am (甃庵), Học Chủ đời thứ 2 của Hoài Đức Đường (懷德堂); em trai là Trung Tỉnh Lí Hiên (中井履軒). Ông theo học với Ngũ Tỉnh Lan Châu (五井蘭洲) ở Hoài Đức Đường, đến năm 1782 (Thiên Minh [天明] 2) thì làm Học Chủ đời thứ 4 của cơ sở học vấn này. Chính ông đã làm cho Hoài Đức Đường hưng thịnh đến tột đỉnh và chiếm vị trí trung tâm trong xã hội văn nhân ở Đại Phản. Ông có học phong tự do trên cơ sở của Chu Tử Học, và công kích mãnh liệt Cổ Văn Từ Học. Theo lời tư vấn của vị quan Lão Trung Tùng Bình Định Tín (松平定信), ông viết cuốn Thảo Mao Nguy Ngôn (草茅危言); và các tác phẩm khác như Dật Sử (逸史), Phi Trưng (非徵).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập