Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tục Đăng Chánh Thống »»
(別庵[菴]性統, Betsuan Shōtō, khoảng hậu bán thế kỷ 17): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Biệt Am (別庵[菴]), xuất thân An Nhạc (安岳), Đồng Xuyên (潼川, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Long (龍). Năm lên 11 tuổi, gặp lúc thân phụ qua đời, ông phát tâm theo xuất gia với Tam Sơn Đăng Lai (三山燈來), rồi theo học với Hựu Sơn Tánh Chứng (又山性証)—pháp từ của Tam Sơn. Sau khi thọ Cụ Túc giới, ông đến tham vấn Hành Sơn Đăng Bỉnh (衡山燈炳), rồi cuối cùng trở về đắc pháp của Tam Sơn. Đến năm thứ 24 (1685) niên hiệu Khang Hy (康熙), gặp lúc thầy qua đời, ông kế thế ngôi vị trú trì, lãnh đạo đồ chúng. Năm sau, ông ngao du các vùng Giang Triết (江浙), Gia Hòa (嘉禾), Kính Sơn (徑山), rồi dừng chân trú tại Thiên Đồng (天童), Phổ Đà (普陀) và đến năm thứ 28 cùng niên hiệu trên, ông kiêm nhiệm trú trì Vĩnh Thọ Tự (永壽寺) ở Đông Viên (東園), Võ Lâm (武林). Vào năm thứ 30 (1691) niên hiệu Khang Hy, ông trước tác bộ Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統), 42 quyển. Hoằng Tú (弘秀), người chuyên trách về các thư trạng, đã thâu tập những ngữ cú, cơ duyên của chư vị đồng môn để biên tập thành bộ Phổ Đà Biệt Am Thiền Sư Đồng Môn Lục (普陀別菴禪師同門錄) 3 quyển.
(鼎): bên cạnh nghĩa là cái đĩnh tượng trưng cho vương quyền, đế vị, nó còn có nghĩa là ngôi vị nhà vua, của hoàng đế. Ngoài ra nó còn là tên của một trong 64 quẻ dịch, nghĩa là làm mới, cách tân. Cho nên đỉnh kiến (鼎建) có nghĩa là nhà vua kiến lập. Như trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, CBETA No. 1583) quyển 33 có đoạn: “Đỉnh kiến bảo phường vu Hoàng Long phong hạ, vi khai sơn đệ nhất đại yên, chí Khang Hy Giáp Dần lục nguyệt nhị thập hữu thất nhật, thuyết kệ cát tường nhi thệ, thế thọ thất thập cửu (鼎建寶坊于黃龍峰下、爲開山第一代焉、至康熙甲寅六月廿有七日、說偈吉祥而逝、世壽七十九, kiếp lập ngôi chùa dưới đỉnh núi Hoàng Long, làm vị tổ khai sơn thứ nhất; đến ngày 27 tháng 6 năm Giáp Dần [1674] đời vua Khang Hy, ngài nói kệ rồi an nhiên ra đi, hưởng thọ 79 tuổi).”
(家風, kafū): Gia (家) nghĩa là sư gia, Thiền gia, gia đình, v.v.; phong (風) là phong nghi, phong tục, phong cách. Như vậy, gia phong ở đây có nghĩa là phong nghi của một nhà nào đó. Trong Thiền Tông, đây là phong nghi sinh ra từ Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗); còn gọi là tông phong (宗風), Thiền phong (禪風). Như trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 7, phần Hàng Châu Phủ Linh Ẩn Lãn Am Đạo Xu Thiền Sư (杭州府靈隱懶菴道樞禪師) có câu: “Tuyết lí mai hoa xuân tin tức, trì trung nguyệt sắc dạ tinh thần, niên lai bất thị vô giai thú, mạc bả gia phong cử tợ nhân (雪裡梅華春信息、池中月色夜精神、年來不是無佳趣、莫把家風舉似人, trong tuyết hoa mai xuân báo tin, bên hồ trăng tỏ đêm tinh thần, xuân về chẳng phải không thú đẹp, chớ lấy gia phong nói cùng người).” Hay trong Viên Ngộ Phật Quả Thiền Sư Ngữ Lục (圓悟佛果禪師語錄, Taishō Vol. 47, No. 1997) quyển 6 có đoạn: “Xích nhục đoàn thượng, nhân nhân cổ Phật gia phong; Tỳ Lô đảnh môn, xứ xứ Tổ sư ba tỷ; niêm nhất cơ thiên cơ vạn cơ thông thấu; dụng nhất cú thiên cú vạn cú lưu thông (赤肉團上、人人古佛家風、毘盧頂門、處處祖師巴鼻、拈一機千機萬機通透、用一句千句萬句流通, trên đống thịt đỏ, người người gia phong cổ Phật; cửa đỉnh Tỳ Lô, chốn chốn xuất xứ Tổ sư; đưa ra một cơ duyên thì ngàn cơ duyên, vạn cơ duyên đều thông thấu; dùng một câu thôi mà ngàn câu, vạn câu thảy lưu thông).” Hoặc như trong Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) quyển 11 có câu: “Độc lâu thường can thế giới, tỷ khổng ma xúc gia phong, vạn lí thần quang đảnh hậu tướng, trực hạ hội đắc, chuyển phàm thành Thánh chỉ tại phiến thời (髑髏常干世界、鼻孔摩觸家風、萬里神光頂後相、直下會得、轉凡成聖只在片時, đầu lâu thường chạm thế giới, lỗ mũi xát đụng gia phong, vạn dặm hào quang sau đỉnh đầu, ngay đó ngộ được, chuyển phàm thành Thánh chỉ trong phút chốc).”
(家風, kafū): Gia (家) nghĩa là sư gia, Thiền gia, gia đình, v.v.; phong (風) là phong nghi, phong tục, phong cách. Như vậy, gia phong ở đây có nghĩa là phong nghi của một nhà nào đó. Trong Thiền Tông, đây là phong nghi sinh ra từ Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗); còn gọi là tông phong (宗風), Thiền phong (禪風). Như trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 7, phần Hàng Châu Phủ Linh ẩn Lãn Am Đạo Xu Thiền Sư (杭州府靈隱懶菴道樞禪師) có câu: “Tuyết lí mai hoa xuân tin tức, trì trung nguyệt sắc dạ tinh thần, niên lai bất thị vô giai thú, mạc bả gia phong cử tợ nhân (雪裡梅華春信息、池中月色夜精神、年來不是無佳趣、莫把家風舉似人, trong tuyết hoa mai xuân báo tin, bên hồ trăng tỏ đêm tinh thần, xuân về chẳng phải không thú đẹp, chớ lấy gia phong nói cùng người).” Hay trong Viên Ngộ Phật Quả Thiền Sư Ngữ Lục (圓悟佛果禪師語錄, Taishō Vol. 47, No. 1997) quyển 6 có đoạn: “Xích nhục đoàn thượng, nhân nhân cổ Phật gia phong; Tỳ Lô đảnh môn, xứ xứ Tổ sư ba tỷ; niêm nhất cơ thiên cơ vạn cơ thông thấu; dụng nhất cú thiên cú vạn cú lưu thông (赤肉團上、人人古佛家風、毘盧頂門、處處祖師巴鼻、拈一機千機萬機通透、用一句千句萬句流通, trên đống thịt đỏ, người người gia phong cổ Phật; cửa đỉnh Tỳ Lô, chốn chốn xuất xứ Tổ sư; đưa ra một cơ duyên thì ngàn cơ duyên, vạn cơ duyên đều thông thấu; dùng một câu thôi mà ngàn câu, vạn câu thảy lưu thông).” Hoặc như trong Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) quyển 11 có câu: “Độc lâu thường can thế giới, tỷ khổng ma xúc gia phong, vạn lí thần quang đảnh hậu tướng, trực hạ hội đắc, chuyển phàm thành Thánh chỉ tại phiến thời (髑髏常干世界、鼻孔摩觸家風、萬里神光頂後相、直下會得、轉凡成聖只在片時, đầu lâu thường chạm thế giới, lỗ mũi xát đụng gia phong, vạn dặm hào quang sau đỉnh đầu, ngay đó ngộ được, chuyển phàm thành Thánh chỉ trong phút chốc).”
(法服): có hai nghĩa chính:
(1) Nghĩa là phục sức quy định trong lễ pháp thời cổ đại. Như trong Hiếu Kinh (孝經), Chương Khanh Đại Phu (卿大夫章) có câu: “Phi tiên vương chi Pháp Phục bất cảm phục (非先王之法服不敢服, chẳng phải là Pháp Phục của tiên vương thì chẳng dám mặc).” Hay trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 35 có đoạn rằng: “Nhân hữu đạo tục chi dị, tại gia tắc y hồ ngoại giáo, phục tiên vương chi Pháp Phục, thuận tiên vương chi pháp ngôn (人有道俗之異、在家則依乎外敎、服先王之法服、順先王之法言, người có đạo tục khác nhau, hàng tại gia tất phải nương vào giáo thuyết khác, mặc Pháp Phục của tiên vương, vâng theo lời dạy của tiên vương).”
(2) Trong Phật Giáo, còn gọi là Pháp Y (法衣), Tăng Phục (僧服), Tăng Y (僧衣); tức là y phục của Tăng Ni thường dùng; chỉ cho y phục do đức Phật chế ra, như Như Pháp Y (如法衣), Ứng Pháp Y (應法衣). Y phục do đức Phật chế có Tam Y, Ngũ Y, v.v. Trường hợp Trung Quốc, Nhật Bản có khí hậu khác với Ấn Độ, nên phạm vi của Pháp Y rộng hơn, hình thức đa dạng hơn. Phàm những y phục nào của Tăng Ni dùng mà không vi phạm giới luật, đều được gọi là Pháp Y. Tại Ấn Độ, quy định vị Tỳ Kheo có 3 y là Tăng Già Lê (s, p: saṅgāṭī, 僧伽梨), Uất Đa La Tăng (s, p: uttarāsaṅga, 鬱多羅僧) và An Đà Hội (s: antarvāsa, p: antaravāsaka, 安陀會). Riêng Tỳ Kheo Ni, trừ 3 y nêu trên, còn có thêm 2 y khác là Tăng Kỳ Chi (s: saṃkakṣikā, 僧衹支) và Quyết Tu La (s: kusūla, 厥修羅). Ba Y là tiếng gọi chung của âm dịch tiếng Sanskrit Chi Phạt La (s: cīvara, 支伐羅). Hơn nữa, do vì có nhuộm sắc màu nên gọi là Ca Sa (s: kaṣāya; p: kāsāya, 袈裟, ý dịch là hoại sắc); hoặc gọi là Phước Điền Y (福田衣), Hàng Tà Y (降邪衣), Tràng Tướng Y (幢相衣), Gian Sắc Y (間色衣), Tạp Trần Phục (雜塵服), Vô Cấu Y (無垢衣), Vô Tướng Y (無相衣), Thắng Tràng Y (勝幢衣), Vô Thượng Y (無上衣), Giải Thoát Phục (解脫服), Đạo Phục (道服), Xuất Thế Phục (出世服), A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Y (阿耨多羅三藐三菩提衣), Từ Bi Phục (慈悲服), Nhẫn Nhục Khải (忍辱鎧), Nhẫn Khải Y (忍鎧衣), Công Đức Y (功德衣), Tiêu Sấu Y (消瘦衣), Liên Hoa Y (蓮華衣), Liên Hoa Phục (蓮華服), Điền Tướng Y (田相衣), v.v. Trong Ba Y, Tăng Già Lê còn gọi là Đại Y (大衣), Trọng Y (重衣), Tạp Toái Y (雜碎衣), Cao Thắng Y (高勝衣), Nhập Vương Cung Tụ Lạc Y (入王宮聚落衣), v.v. Uất Đa La Tăng có tên gọi khác là Thất Điều Ca Sa (七條袈裟), Thất Điều Y (七條衣), Thất Điều (七條), Thượng Y (上衣), Nhập Chúng Y (入衆衣), v.v.; được dùng khi lễ tụng, thính giảng, Bố Tát (s: upavasatha, p: uposatha, 布薩). An Đà Hội còn gọi là Ngũ Điều Y (五條衣), Nội Y (內衣), Trung Túc Y (中宿衣); là y mặc dùng vào lúc sinh hoạt hằng ngày, hay khi đi ngủ. Như trong Tuyển Tập Bách Duyên Kinh (撰集百緣經, Taishō Vol. 4, No. 200) quyển 7 có câu: “Phật tức cáo ngôn: 'Thiện lai Tỳ Kheo !' Tu phát tự lạc, Pháp Phục trước thân, tiện thành Sa Môn, tinh cần tu tập, đắc A La Hán quả, Tam Minh Lục Thông, cụ Bát Giải Thoát, chư thiên thế nhân, sở kiến kính ngưỡng (佛卽告言、善來比丘、鬚髮自落、法服著身、便成沙門、精懃修習、得阿羅漢果、三明六通、具八解脫、諸天世人、所見敬仰, Phật bèn nói rằng: 'Tỳ Kheo hãy khéo đến đây !' Râu tóc tự rơi rụng, Pháp Phục mang vào thân, bèn thành Sa Môn, siêng năng tu tập, chứng quả A La Hán, Ba Minh Sáu Thông, đầy đủ Tám Giải Thoát, Trời người trên đời, trông thấy kính ngưỡng).” Hay như trong Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Tripitaka Vol. 1, No. 1) quyển 17 lại có câu: “Bỉ ư hậu thời, thế trừ tu pháp, phục tam Pháp Y, xuất gia tu đạo, hành bình đẳng pháp (彼於後時、剃除鬚髮、服三法衣、出家修道、行平等法, vị ấy sau đó, cạo bỏ râu tóc, mặc ba Pháp Y, xuất gia tu đạo, hành pháp bình đẳng).” Trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 26 cũng có câu: “Triều đình tam khiển trọng thần giáng hương, tích hiệu Phật Huệ Viên Giám Phổ Tế Thiền Sư, tinh tứ Kim Lan Pháp Y (朝廷三遣重臣降香、錫號佛慧圓鑒普濟禪師、幷賜金襴法衣, triều đình ba lần cử sứ thần đến dâng hương, ban cho hiệu là Phật Huệ Viên Giám Phổ Tế Thiền Sư, và ban thưởng cho Pháp Y Kim Lan).” Trong Sa Di Ni Luật Nghi Yếu Lược (沙彌尼律儀要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1122), phần Sự Sư Đệ Tam (事師第三, Hầu Thầy Thứ Ba) lại có đoạn: “Tảo khởi thời, đương tiên thanh tịnh trước Pháp Y, lễ Phật pháp, khước lễ sư (早起時、當先清淨著法衣、禮佛法、卻禮師, khi dậy sớm, trước phải thanh tịnh mang Pháp Y vào, lạy Phật pháp, rồi lạy thầy).”
(法服): (1) Nghĩa là phục sức quy định trong lễ pháp thời cổ đại. Như trong Hiếu Kinh (孝經), Chương Khanh Đại Phu (卿大夫章) có câu: “Phi tiên vương chi Pháp Phục bất cảm phục (非先王之法服不敢服, chẳng phải là Pháp Phục của tiên vương thì chẳng dám mặc).” Hay trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 35 có đoạn rằng: “Nhân hữu đạo tục chi dị, tại gia tắc y hồ ngoại giáo, phục tiên vương chi Pháp Phục, thuận tiên vương chi pháp ngôn (人有道俗之異、在家則依乎外敎、服先王之法服、順先王之法言, người có đạo tục khác nhau, hàng tại gia tất phải nương vào giáo thuyết khác, mặc Pháp Phục của tiên vương, vâng theo lời dạy của tiên vương).” (2) Trong Phật Giáo, còn gọi là Pháp Y (法衣), Tăng Phục (僧服), Tăng Y (僧衣); tức là y phục của Tăng Ni thường dùng; chỉ cho y phục do đức Phật chế ra, như Như Pháp Y (如法衣), Ứng Pháp Y (應法衣). Y phục do đức Phật chế có Tam Y, Ngũ Y, v.v. Trường hợp Trung Quốc, Nhật Bản có khí hậu khác với Ấn Độ, nên phạm vi của Pháp Y rộng hơn, hình thức đa dạng hơn. Phàm những y phục nào của Tăng Ni dung mà không vi phạm giới luật, đều được gọi là Pháp Y. Tại Ấn Độ, quy định vị Tỳ Kheo có 3 y là Tăng Già Lê (s, p: saṅgāṭī, 僧伽梨), Uất Đa La Tăng (s, p: uttarāsaṅga, 鬱多羅僧) và An Đà Hội (s: antarvāsa, p: antaravāsaka, 安陀會). Riêng Tỳ Kheo Ni, trừ 3 y nêu trên, còn có thêm 2 y khác là Tăng Kỳ Chi (s: saṃkakṣikā, 僧衹支) và Quyết Tu La (s: kusūla, 厥修羅). Ba Y là tiếng gọi chung của âm dịch tiếng Sanskrit Chi Phạt La (s: cīvara, 支伐羅). Hơn nữa, do vì có nhuộm sắc màu nên gọi là Ca Sa (s: kaṣāya; p: kāsāya, 袈裟, ý dịch là hoại sắc); hoặc gọi là Phước Điền Y (福田衣), Hàng Tà Y (降邪衣), Tràng Tướng Y (幢相衣), Gian Sắc Y (間色衣), Tạp Trần Phục (雜塵服), Vô Cấu Y (無垢衣), Vô Tướng Y (無相衣), Thắng Tràng Y (勝幢衣), Vô Thượng Y (無上衣), Giải Thoát Phục (解脫服), Đạo Phục (道服), Xuất Thế Phục (出世服), A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Y (阿耨多羅三藐三菩提衣), Từ Bi Phục (慈悲服), Nhẫn Nhục Khải (忍辱鎧), Nhẫn Khải Y (忍鎧衣), Công Đức Y (功德衣), Tiêu Sấu Y (消瘦衣), Liên Hoa Y (蓮華衣), Liên Hoa Phục (蓮華服), Điền Tướng Y (田相衣), v.v. Trong Ba Y, Tăng Già Lê còn gọi là Đại Y (大衣), Trọng Y (重衣), Tạp Toái Y (雜碎衣), Cao Thắng Y (高勝衣), Nhập Vương Cung Tụ Lạc Y (入王宮聚落衣), v.v. Uất Đa La Tăng có tên gọi khác là Thất Điều Ca Sa (七條袈裟), Thất Điều Y (七條衣), Thất Điều (七條), Thượng Y (上衣), Nhập Chúng Y (入衆衣), v.v.; được dùng khi lễ tụng, thính giảng, Bố Tát (s: upavasatha, p: uposatha, 布薩). An Đà Hội còn gọi là Ngũ Điều Y (五條衣), Nội Y (內衣), Trung Túc Y (中宿衣); là y mặc dùng vào lúc sinh hoạt hằng ngày, hay khi đi ngủ. Như trong Tuyển Tập Bách Duyên Kinh (撰集百緣經, Taishō Vol. 4, No. 200) quyển 7 có câu: “Phật tức cáo ngôn: 'Thiện lai Tỳ Kheo !' Tu phát tự lạc, Pháp Phục trước thân, tiện thành Sa Môn, tinh cần tu tập, đắc A La Hán quả, Tam Minh Lục Thông, cụ Bát Giải Thoát, chư thiên thế nhân, sở kiến kính ngưỡng (佛卽告言、善來比丘、鬚髮自落、法服著身、便成沙門、精懃修習、得阿羅漢果、三明六通、具八解脫、諸天世人、所見敬仰, Phật bèn nói rằng: 'Tỳ Kheo hãy khéo đến đây !' Râu tóc tự rơi rụng, Pháp Phục mang vào thân, bèn thành Sa Môn, siêng năng tu tập, chứng quả A La Hán, Ba Minh Sáu Thông, đầy đủ Tám Giải Thoát, Trời người trên đời, trông thấy kính ngưỡng).” Hay như trong Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Tripitaka Vol. 1, No. 1) quyển 17 lại có câu: “Bỉ ư hậu thời, thế trừ tu pháp, phục tam Pháp Y, xuất gia tu đạo, hành bình đẳng pháp (彼於後時、剃除鬚髮、服三法衣、出家修道、行平等法, vị ấy sau đó, cạo bỏ râu tóc, mặc ba Pháp Y, xuất gia tu đạo, hành pháp bình đẳng).” Trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 26 cũng có câu: “Triều đình tam khiển trọng thần giáng hương, tích hiệu Phật Huệ Viên Giám Phổ Tế Thiền Sư, tinh tứ Kim Lan Pháp Y (朝廷三遣重臣降香、錫號佛慧圓鑒普濟禪師、幷賜金襴法衣, triều đình ba lần cử sứ thần đến dâng hương, ban cho hiệu là Phật Huệ Viên Giám Phổ Tế Thiền Sư, và ban thưởng cho Pháp Y Kim Lan).” Trong Sa Di Ni Luật Nghi Yếu Lược (沙彌尼律儀要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1122), phần Sự Sư Đệ Tam (事師第三, Hầu Thầy Thứ Ba) lại có đoạn: “Tảo khởi thời, đương tiên thanh tịnh trước Pháp Y, lễ Phật pháp, khước lễ sư (早起時、當先清淨著法衣、禮佛法、卻禮師, khi dậy sớm, trước phải thanh tịnh mang Pháp Y vào, lạy Phật pháp, rồi lạy thầy).”
(丱歲): thưở bé, tuổi nhỏ. Quán (丱) có nghĩa là bện tóc làm hai múi hai bên, nên quán tuế (丱歲) là tuổi bện tóc thành hai múi, tuổi để tóc chỏm. Như vậy, tuổi đồng sấn (童齔) còn trẻ nhỏ hơn quán tuế vài tuổi. Như trong bài Hậu Chu Minh Uy Tướng Quân Lương Công Thần Đạo Bi (後周明威將軍梁公神道碑) của thi sĩ Dương Quýnh (楊炯, 650-695) nhà Đường có câu: “Quán tuế đằng phương, thiều niên siêu ái (丱歲騰芳、髫年超靄, tuổi nhỏ hiển đạt, lớn lên siêu quần).” Trong Ngự Tuyển Ngữ Lục (御選語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1319) có đoạn rằng: “Sư, Vĩnh Gia nhân, tánh Đới thị; quán tuế xuất gia, biến thám Tam Tạng, tinh Thiên Thai Chỉ Quán viên diệu pháp môn (師、永嘉人也、姓戴氏、丱歲出家、遍探三藏、精天台止觀圓妙法門, sư người vùng Vĩnh Gia, họ là Đới; tuổi nhỏ xuất gia, tìm khắp Tam Tạng, tinh thông pháp môn mầu nhiệm tròn đầy của Thiên Thai Chỉ Quán).” Hơn nữa, trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 32 cũng có đoạn: “Trường Sa Phủ Quy Sơn Ngũ Phong Như Học Thiền Sư, Lâm Đồng Nhậm thị tử, quán tuế thất hỗ, tùng Ngũ Đài Thiên Tề trĩ phát, viên cụ ư Trừng Luật Sư (長沙府溈山五峰如學禪師、臨潼任氏子、丱歲失怙、從五臺天齊薙髮、圓具於澄律師, Thiền Sư Như Học ở Quy Sơn Ngũ Phong, Phủ Trường Sa, con nhà họ Nhậm ở Lâm Đồng, tuổi nhỏ đã mất cha, xuống tóc xuất gia với Thiên Tề ở Ngũ Đài Sơn, thọ Cụ Túc giới với Trừng Luật Sư).”
(權現, gongen): quyền (權) nghĩa là quyền nghi, ứng cơ; hiện (現) là hóa hiện; tức chỉ chư phật bồ tát vì độ khắp chúng sanh mà quyền xảo hóa hiện các loại hình tướng; đồng nghĩa với quyền hóa (權化), quyền tích (權迹), ứng hiện (應現), thị hiện (示現), hóa hiện (化現), v.v. Như trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經, Taishō Vol. 16, No. 665), Phẩm Như Lai Thọ Lượng (如來壽量品) thứ 2, quyển 1 có câu: “Thế Tôn Kim Cang thể, quyền hiện ư Hóa Thân (世尊金剛體、權現於化身, Thế Tôn thể Kim Cang, quyền hiện nơi Hóa Thân).” Hay trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 3, phần Thiệu Hưng Phủ Đông Sơn Giác Thiền Sư (紹興府東山覺禪師), lại có đoạn: “Kim thời tùng lâm, tương vị Quảng Ngạch quá khứ thị nhất Phật, quyền hiện đồ nhi (今時叢林、將謂廣額過去是一佛、權現屠兒, tùng lâm ngày nay cho rằng Quảng Ngạch quá khứ là một vị Phật, hóa hiện làm đồ tể).” Hoặc trong Pháp Hoa Kinh Chỉ Chưởng Sớ (法華經指掌疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 33, No. 631) cũng có đoạn: “Nhiên Đạt Đa tuy xưng quyền hiện, nhân hại Phật cố, bất miễn Địa Ngục chi khổ (然達多雖稱權現。因害佛故。不免地獄之苦, tuy nhiên, Đề Bà Đạt Đa tuy gọi là quyền hiện, nhưng vì hại Phật, nên không thoát khỏi cái khổ của Địa Ngục).” Quyền hiện cũng là một trong những tư tưởng đặc trưng của Phật Giáo Nhật Bản. Sau khi Phật Giáo được vào xứ sở Phù Tang này, Thần Đạo trở thành địa vị phụ thuộc, và đến cuối thời kỳ Bình An (平安, Heian, 794-1185), thuyết gọi là Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹, honjisuijaku) bắt đầu thịnh hành. Từ thời Nại Lương (奈良, Nara, 710-794) trở đi, việc tiếp cận với chư thần của Phật Giáo dần dần được tiến hành. Với tư cách là chúng sanh phàm phu đầy phiền não, chư thần linh cũng tôn kính Phật Giáo; cho nên việc đọc kinh trước thần linh, các Thần Cung Tự (神宮寺), Trấn Thủ Tự (鎭守寺) cũng được kiến lập. Vào khoảng đầu thời Bình An, các thần dần dần khai ngộ và địa vị của họ cũng được nâng cao. Tỷ dụ như trường hợp Thạch Thanh Thủy Bát Phan Thần (石清水八幡神) đã đạt đến danh hiệu Bồ Tát. Sau đó, trong văn thư của Thái Tể Phủ (太宰府, Dazaifu) gởi cho đền thờ Cừ Khi Bát Phan Cung (筥崎八幡宮, Hakozakihachimangū) vào năm 937 (Thừa Bình [承平] thứ 7), có đoạn văn gọi Bát Phan Thần là quyền hiện. Hay trong tác phẩm Tẩu Thang Duyên Khởi (走湯緣起, Sōtōengi) có các văn thư ghi năm 812 (Hoằng Nhân [弘仁] thứ 3) cũng như 904 (Diên Hỷ [延喜] thứ 4), có thể thấy từ quyền hiện. Đến giữa thời Bình An, chư thần tiến đến rất gần với địa vị của Phật. Trong bức Cúng Dường Nguyện Văn (供養願文) do ca nhân Đại Giang Khuông Hành (大江匡衡, Ōe-no-Masahira, 952-1012) viết khi đến tham bái đền thờ Nhiệt Điền Thần Xã (熱田神社, Atsuta Jingū) ở tiểu quốc Vĩ Trương (尾張, Owari) vào năm 1004 (Khoan Hoằng [寬弘] nguyên niên), ông viết là thùy tích của Nhiệt Điền Quyền Hiện (熱田權現, Atsutagongen). Cũng vào năm thứ 4 (1007) cùng niên hiệu trên, trong ống kinh do Đằng Nguyên Đạo Trưởng (藤原道長, Fujiwara-no-Michinaga, 966-1027) đem thờ trên Kim Phong Sơn (金峯山) có ghi dòng chữ “Tạng Vương Quyền Hiện (藏王權現).” Trong bộ Kim Tích Vật Ngữ Tập (今昔物語集, Konjakumonogatarishū) cũng có xuất hiện từ Hùng Dã Quyền Hiện (熊野權現, Kumanogongen). Việc phổ cập hóa tư tưởng quyền hiện như vậy là đồng thể hóa Phật với Thần; và cho biết rằng đã đến thời kỳ hoàn thành thuyết Bản Địa Thùy Tích. Đến thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333), các đền thờ Thần Xã gọi tên quyền hiện bắt đầu xuất hiện như Địa Chủ (地主), Bạch Sơn (白山), Ái Đãng (愛宕), Xuân Nhật (春日), v.v. Trong tác phẩm Chư Thần Bản Hoài Tập (諸神本懷集, Shojinhongaishū) do Tồn Giác (存覺, Zonkaku, 1290-1373) viết vào cuối thời kỳ Liêm Thương, chia thần thành hai loại là Quyền Xã (權社) và Thật Xã (實社), cho rằng Thần của Quyền Xã là “đức Như Lai xưa kia, vì để mang lại lợi ích cho Bồ Tát, chúng sanh thâm vị, nên giả hiện thân hình thần minh”; song tất cả đều là quay về với sự giáng tích của Phật Di Đà; và cho rằng chư thần của Thật Xã thì cần phải bài xích như là tà thần. Thần Đạo mang tính thần Phật tập hợp vào thời Trung Đại, lấy tư tưởng quyền hiện làm luận cứ quan trọng. Tuy nhiên, sau khi Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu, 1542-1616) qua đời, vị tăng của Thiên Thai Tông là Thiên Hải (天海, Tenkai, 1536-1643) chủ trương thờ phụng đấng quyền hiện và xem đó như là thần hiệu của Gia Khang. Ngoài ra, các Thiên Hoàng Nhật Bản đã từng lấy danh hiệu quyền hiện để ban hiệu sắc hứa cho cấp dưới. Tỷ dụ như Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930) đã ban cho Đằng Nguyên Liêm Túc (藤原鎌足, Fujiwara-no-Kamatari, 614-669) hiệu là Đàm Sơn Quyền Hiện (談山權現); hay Hậu Thủy Vĩ Thiên Hoàng (後水尾天皇, Gomizunō Tennō, tại vị 1611-1629) ban cho Đức Xuyên Gia Khang hiệu là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện (東照大權現), v.v.
(子月): tên gọi khác của tháng 11 Âm Lịch. Trong chương Thích Thiên (釋天) của Nhĩ Nhã (爾雅) có giải thích rằng: “Thập nhất nguyệt vi Cô (十一月爲辜, tháng Mười Một là Cô).” Học giả Hác Ý Hành (郝懿行, 1757-1825) nhà Thanh chú giải rằng: “Cổ giả, cố dã. Thập nhất nguyệt dương sanh, dục cách cố thủ tân dã; thập nguyệt kiến Hợi, Hợi giả căn cai dã; chí kiến Tý chi nguyệt, nhi tư tư nhiên sanh hỉ (辜者、故也、十一月陽生、欲革故取新也、十月建亥、亥者根荄也、至建子之月、而孳孳然生矣, Cô nghĩa là cố [cũ], tháng Mười Một sinh dương, muốn thay đổi thì phải giữ cái mới; tháng Mười là kiến Hợi [thuộc chi Hợi]; Hợi là rễ cây; đến tháng kiến Tý thì sinh nở nhiều ra).” Âm Lịch lấy tháng 11 thuộc về tháng Tý, tháng 12 là tháng Sửu, tháng Giêng là tháng Dần, tháng 2 là tháng Mão, tháng 3 là tháng Thìn, tháng 4 là tháng Tỵ, tháng 5 là tháng Ngọ, tháng 6 là tháng Mùi, tháng 7 là tháng Thân, tháng 8 là tháng Dậu, tháng 9 là tháng Tuất, tháng 10 là tháng Hợi. Mỗi năm, từ ngày Lập Xuân (立春) đến ngày Kinh Trập (驚蟄) là tháng Giêng, tức tháng Dần; từ Kinh Trập đến Thanh Minh (清明) là tháng 2, tức tháng Mão; từ Thanh Minh đến Lập Hạ (立夏) là tháng 3, tức tháng Thìn; từ Lập Hạ đến Mang Chủng (芒種) là tháng 4, tức tháng Tỵ; từ Mang Chủng đến Tiểu Thử (小暑) là tháng 5, tức tháng Ngọ; từ Tiểu Thử đến Lập Thu (立秋) là tháng 6, tức tháng Mùi; từ Lập Thu đến Bạch Lộ (白露) là tháng 7, tức tháng Thân; từ Bạch Lộ đến Hàn Lộ (寒露) là tháng 8, tức tháng Dậu; từ Hàn Lộ đến Lập Đông (立冬) là tháng 9, tức tháng Tuất; từ Lập Đông đến Đại Tuyết (大雪) là tháng 10, tức tháng Hợi; từ Đại Tuyết đến Tiểu Hàn (小寒) là tháng 11, tức tháng Tý; từ Tiểu Hàn đến Lập Xuân (立春) là tháng Chạp, tức tháng Sửu. Trong bài thơ Hàn Viên Tức Mục (寒園卽目) của Dữu Tín (庾信, 513-581) nhà Bắc Chu có câu: “Tý nguyệt tuyền tâm động, Dương hào địa khí thư (子月泉心動、陽爻地氣舒, tháng Tý lòng suối động, hào Dương đất trời mở).” Hay trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 29 có đoạn: “Hồ Châu Phủ Thiên Trí Nguyệt Tuyền Ngọc Chi Pháp Tụ Thiền Sư, Gia Hòa Phú thị tử, mẫu Phùng, sanh Hoằng Trị Nhâm Tý Tý nguyệt hối nhật (湖州府天池月泉玉芝法聚禪師、嘉禾富氏子、母馮、生弘治壬子子月晦日, Thiền Sư Ngọc Chi Pháp Tụ ở Nguyệt Tuyền, Thiên Trì, Phủ Hồ Châu, con nhà họ Phú ở Gia Hòa, mẹ họ Phùng; ông sanh vào ngày cuối tháng 11 năm Nhâm Tý [1492] niên hiệu Hoằng Trị nhà Minh).”
(s: pravrajyā, p: pabbajjā, j: shukke, 出家): âm dịch là Ba Phệ Nễ Da (波吠儞耶), tức ra khỏi sinh hoạt gia đình thế tục, chuyên tâm tu tập tịnh hạnh của bậc Sa Môn (s: śramaṇa, p: samaṇa, 沙門). Từ này còn chỉ chung cho những người xuất gia, đồng nghĩa với Sa Môn, Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘); đối lập với từ tại gia (在家). Trong Quy Sơn Cảnh Sách Cú Thích Ký (溈山警策句釋記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1240) quyển Hạ giải thích xuất gia có 2 nghĩa: “Xuất gia hữu nhị, nhất xuất thế tục gia, túc ly trần tục, viễn tham tri thức; nhị xuất phiền não gia, đoạn vọng chứng chơn, đốn siêu Tam Hữu (出家有二、一出世俗家、足離塵俗、遠參知識、二出煩惱家、斷妄證眞、頓超三有, xuất gia có hai, một là ra khỏi nhà thế tục, chân xa lìa trần tục, đi xa tham vấn tri thức; hai là ra khỏi nhà phiền não, đoạn sai lầm chứng chân thật, vượt ra khỏi Ba Cõi).” Hay trong Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chú (四十二章經註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 37, No. 669) lại giải thích xuất gia có 3 nghĩa: “Cát ái từ thân, thân xuất gia dã; thức tâm đạt bổn, tâm xuất gia dã. Xuất gia hữu tam, nhất từ thân, xuất thế tục gia; nhị ngộ đạo, xuất Ngũ Uẩn gia; tam chứng quả, xuất Tam Giới gia (割愛辭親、身出家也、識心達本、心出家也、出家有三、一辭親、出世俗家、二悟道、出五蘊家、三證果、出三界家, cắt yêu thương, từ cha mẹ là thân xuất gia; biết rõ tâm, đạt nguồn chơn là tâm xuất gia; xuất gia có ba, thứ nhất từ cha mẹ, ra khỏi nhà thế tục; thứ hai ngộ đạo, ra khỏi nhà Năm Uẩn; thứ ba chứng quả, ra khỏi nhà Ba Cõi).” Bên cạnh đó, Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 23 cho rằng xuất gia có 4 nghĩa: “Nhất xuất trần tục ân ái gia, nhị xuất Tam Giới hỏa trạch gia, tam xuất thô hoặc phiền não gia, tứ xuất tế hoặc Vô Minh gia, xuất đắc tứ chủng gia, thỉ xưng Nạp Tăng gia (一出塵俗恩愛家、二出三界火宅家、三出麤惑煩惱家、四出細惑無明家、出得四種家、始稱衲僧家, thứ nhất ra khỏi nhà ân ái trần tục, thứ hai ra khỏi nhà bốc lửa Ba Cõi, thứ ba ra khỏi nhà phiền não thô hoặc, thứ tư ra khỏi nhà Vô Minh tế hoặc, ra khỏi được bốn loại nhà ấy, mới gọi là nhà Nạp Tăng).” Ngoài ra, xuất gia còn có 3 loại khác là thân xuất gia mà tâm không xuất gia, tâm xuất gia mà thân không xuất gia, và cả thân và tâm đều xuất gia. Phàm người phát tâm xuất gia thì phải cạo bỏ râu tóc, xả đi áo quần thế tục mà mang vào áo hoại sắc; cho nên xuất gia còn được gọi là lạc sức (落飾), thế phát (剃髮), lạc phát nhiễm y (落髮染衣), thế phát nhiễm y (剃髮染衣), thế nhiễm (剃染), lạc nhiễm (落染), trĩ nhiễm (薙染). Trong 7 chúng đệ tử của Phật, ngoại trừ 2 chúng tại gia là Ưu Bà Tắc (s, p: upāsaka, 優婆塞) và Ưu Bà Di (s, p: upāsikā, 優婆夷); 5 chúng còn lại thuộc hàng ngũ xuất gia là Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼), Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼), Thức Xoa Ma Na (s: śikṣamāṇa, p: sikkhamānā, 式叉摩那); được gọi là Ngũ Chúng Xuất Gia. Từ xưa, xuất gia vốn phát xuất từ Ấn Độ, từ thời đại Phệ Đà (s: Veda, 吠陀) đã có người từ bỏ thế tục, xa gia đình để cầu giải thoát. Về sau, giáo đồ Bà La Môn kế thừa phong tục này, phần nhiều vào trong rừng sâu thanh vắng, chuyên tâm tu đạo. Phật Giáo khởi đầu từ việc xuất gia học đạo của đức Thích Tôn, về sau mới tổ chức thành giáo đoàn. Tuy nhiên, một trong những nguyên tắc quan trọng phải tuân thủ khi xuất gia là phải được sự chấp thuận của cha mẹ. Cho nên, trong Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự (根本說一切有部毘奈耶破僧事, Taishō Vol. 24, No. 1450) quyển 17 có khẳng định rằng: “Phụ mẫu bất thính, bất đắc xuất gia thọ giới (父母不聽、不得出家受戒, cha mẹ không bằng lòng, không được xuất gia thọ giới).” Có khá nhiều tác phẩm tranh vẽ, điêu khắc về hình tượng xuất gia của đức Phật, tối cổ nhất là tác phẩm ở Đại Tháp Madras, Amarāvatī, Ấn Độ. Trên cửa phía Đông của Đại Tháp Sanchi ở miền Trung Ấn cũng có các phù điêu diễn tả cảnh tượng đức Phật xuất gia như thế nào. Về phía Trung Quốc, tại Thê Hà Tự (棲霞寺) ở Giang Tô (江蘇), Linh Nham Quật Tự (靈巖窟寺) ở Sơn Tây (山西), vẫn còn những bức phù điêu khắc cảnh đức Thích Tôn đến nơi thanh tĩnh, cỡi bỏ mũ báu trao cho Xa Nặc (s: Chandaka, p: Channa, 車匿), rồi tự lấy bảo kiếm cắt tóc xuất gia. Về công đức xuất gia, Phật Thuyết Xuất Gia Công Đức Kinh (佛說出家功德經, Taishō Vol. 16, No. 707) có thuật rõ như sau: “Bất xuất gia giả, mạng chung hoặc năng đọa ư Địa Ngục (不出家者、命終或能墮於地獄, người không xuất gia, sau khi mạng hết hoặc có thể bị đọa vào Địa Ngục)”; hay “dĩ nhất nhật nhất dạ xuất gia cố, mãn nhị thập kiếp, bất đọa Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, thường sanh thiên nhân, thọ phước tự nhiên (以一日一夜出家故、滿二十劫、不墮地獄、餓鬼、畜生、常生天人、受福自然, vì lấy một ngày một đêm xuất gia, nên tròn hai mươi kiếp, không đọa Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, thường sanh Trời người, hưởng phước tự nhiên).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập