Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Sự thành công thật đơn giản. Hãy thực hiện những điều đúng đắn theo phương cách đúng đắn và vào đúng thời điểm thích hợp. (Success is simple. Do what's right, the right way, at the right time.)Arnold H. Glasow
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Quy luật của cuộc sống là luôn thay đổi. Những ai chỉ mãi nhìn về quá khứ hay bám víu vào hiện tại chắc chắn sẽ bỏ lỡ tương lai. (Change is the law of life. And those who look only to the past or present are certain to miss the future.)John F. Kennedy
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tư văn »»

(s: guṇa, 功德): âm dịch là Cụ Nẵng (懼曩), Ngu Nẵng (麌曩), Cầu Na (求那); ý dịch là công đức, phước đức; cũng chỉ cho quả báo có được nhờ làm việc thiện. Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 3 có ghi lại đoạn vua Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) nhà Lương hỏi Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma (菩提達磨) rằng: “Trẫm tức vị dĩ lai, tạo tự tả kinh độ tăng bất khả thắng kỷ, hữu hà công đức ? Sư viết: 'Tinh vô công đức.' Đế viết: 'Hà dĩ vô công đức ?' Sư viết: 'Thử đản nhân thiên tiểu quả hữu lậu chi nhân, như ảnh tùy hình tuy hữu phi thật.' Đế viết: 'Như hà thị chơn công đức ?' Đáp viết: 'Tịnh trí diệu viên thể tự không tịch, như thị công đức bất dĩ thế cầu' (朕卽位已來、造寺寫經度僧不可勝紀、有何功德、師曰、幷無功德、帝曰、何以無功德、師曰、此但人天小果有漏之因、如影隨形雖有非實、帝曰、如何是眞功德、答曰、淨智妙圓體自空寂、如是功德不以世求, Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, lập chùa, chép kinh, độ tăng chúng, không thể tính hết, vậy có công đức gì không ? Tổ sư đáp rằng: 'Đều không có công đức gì cả.' Vua hỏi: 'Vì sao không có công đức ?' Tổ sư đáp: 'Đây chỉ là quả báo nhỏ của trời người, có nhân hữu lậu, như bóng theo hình tuy có mà không thật.' Vua hỏi: 'Thế nào là công đức chân thật ?' Trả lời rằng: 'Trí trong sạch tròn đầy, thể tự vắng lặng, công đức như vậy không lấy thế gian mà cầu được).” Trong Thắng Man Bảo Quật (勝鬘寶窟, Taishō Vol. 37, No. 1744) quyển Thượng giải thích về nghĩa công đức rằng: “Ác tận viết công, thiện mãn viết đức; hựu đức giả đắc dã, tu công sở đắc, cố danh công đức dã (惡盡曰功、善滿稱德、又德者得也、修功所得、故名功德也, điều ác hết gọi là công, việc thiện tròn đầy gọi là đức; lại nữa đức có nghĩa là đắc [có được], nhờ công năng tu tập mà có được, nên gọi là công đức vậy).” Sự sâu xa, rộng lớn của công đức được ví như biển, nên được gọi là công đức hải (s: guṇa-sāgara, 功德海, biển công đức); rất quý trọng như báu vật nên có tên là công đức bảo (s: guṇa-ratna, 功德寶); và một số từ khác đi với công đức như công đức lâm (功德林, rừng công đức), công đức tụ (功德聚, sự tích lũy công đức), (功德莊嚴, trang nghiêm công đức), công đức tạng (功德藏, kho tàng công đức), v.v.
(大德): có 4 nghĩa chính:
(1) Công đức lớn, đại ân. Như trong Hệ Từ (繫辭) của Dịch Kinh (易經) có câu: “Thiên địa chi đại đức viết sinh (天地之大德曰生, đức lớn của trời đất là sinh).” Hay trong Thi Kinh, phần Tiểu Nhã (小雅), Cốc Phong (谷風) có câu: “Vong ngã đại đức, tư ngã tiểu oán (忘我大德、思我小怨, quên đức lớn của ta, nhớ oán hận nhỏ quả ta).”
(2) Phẩm đức cao thượng. Như trong chương Lập Chính (立政) của Quản Tử (管子) có câu: “Quân chi sở thận giả tứ, nhất viết đại đức bất chí nhân, bất khả dĩ thọ quốc bính (君之所愼者四、一曰大德不至仁、不可以授國柄, có bốn điều người quân tử phải thận trọng, một là phẩm đức cao thượng không bằng lòng nhân, không thể lấy vậy mà ban cho quyền lực quốc gia được).” Quan Đại Thần Duẫn Tri Chương (尹知章, 669-718) nhà Đường chú thích rằng: “Đức tuy đại nhi nhân bất chí, hoặc bao tàng họa tâm, cố bất khả thọ quốc bính (德雖大而仁不至、或包藏禍心、故不可授國柄, đức tuy lớn mà lòng nhân vẫn không thấu đáo, hoặc có thể ẩn tàng tâm gây hiểm họa, nên không thể ban cho quyền lực quốc gia được).”
(3) Chỉ cho người có đức hạnh cao thượng. Như trong Lễ Ký (禮記), chương Trung Dung (中庸) có câu: “Cố đại đức tất đắc kỳ vị (故大德必得其位, cho nên người có đức hạnh cao thượng tất đạt được vị trí ấy).” Hay trong chương Ly Lâu (離婁) của Mạnh Tử (孟子) có đoạn: “Thiên hạ hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch đại hiền (天下有道、小德役大德、小賢役大賢, thiên hạ có đạo rằng người đức ít thì phục dịch người đức lớn, người hiền nhỏ thì phục vụ người hiền lớn).”
(4) Đại Đức(s, p: bhadanta, 大德), âm dịch là Bà Đàn Đà (婆檀陀). Tại Ấn Độ, đây là tiếng kính xưng đối với Phật, Bồ Tát hay cao tăng; hoặc trong hàng ngũ chư vị Tỳ Kheo, bậc Trưởng Lão cũng được gọi là Đại Đức. Như trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Tuần Hành Kinh (佛說文殊師利巡行經, Taishō Vol. 14, No. 470) quyển 57 có đoạn: “Nhĩ thời Văn Thù Sư Lợi đồng tử, ký kiến Trưởng Lão Xá Lợi Phất dĩ, nhi ngữ chi ngôn: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Nhữ nhập Thiền da ?' (爾時文殊師利童子、旣見長老舍利弗已、而語之言、大德舍利弗、汝入禪耶, lúc bấy giờ đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đã thấy Trưởng Lão Xá Lợi Phất rồi, mà nói lời rằng: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Có phải người nhập vào Thiền định không ?').” Trong các bộ Luật, khi đối trước đại chúng hiện tiền, chỉ cho chúng Tỳ Kheo, người ta thường dùng từ “Đại Đức Tăng (大德僧)”; với chúng Tỳ Kheo Ni là “Đại Tỷ Tăng (大姊僧)”. Tỷ dụ như trong Luật Uyển Sự Quy (律苑事規, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1113) có đoạn: “Đại Đức nhất tâm niệm ngã [mỗ giáp] kim thỉnh Đại Đức vi lạc phát Hòa Thượng, nguyện Đại Đức vi ngã lạc phát Hòa Thượng, ngã y Đại Đức cố đắc thế phát xuất gia, từ mẫn cố [tam thỉnh] (大德一心念、我[某甲]今請大德爲落髮和尚、願大德爲我落髮和尚、我依大德故得剃髮出家、慈愍故[三請], Đại Đức một lòng nghĩ nhớ, con […] nay cung thỉnh Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc, ngưỡng mong Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc của con, vì con nương Đại Đức nên được xuống tóc xuất gia, xin thương xót cho [ba lần thưa như vậy]).” Tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, từ Đại Đức không dùng để tôn xưng chư Phật, Bồ Tát; mà chỉ dùng cho chư vị cao tăng mà thôi. Tuy nhiên, dưới thời Tùy Đường, những người tham gia dịch kinh đều được gọi là Đại Đức. Như trong Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大唐大慈恩寺三藏法師傳, Taishō Vol. 50, No. 2053) quyển 6 cho biết rằng vào tháng 6 năm Trinh Quán (貞觀) thứ 19 (645), khi Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch kinh tại Hoằng Phước (弘福), có 12 vị Chứng Nghĩa Đại Đức (證義大德), 9 vị Chuyết Văn Đại Đức (綴文大德), 1 vị Tự Học Đại Đức (字學大德), 1 vị Chứng Phạn Ngữ Phạn Văn Đại Đức (證梵語梵文大德), v.v. Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) quyển 16 cũng có nêu lên một số danh xưng khác như Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德), Bách Tòa Đại Đức (百座大德), Tam Học Đại Đức (三學大德), Giảng Luận Đại Đức (講論大德), Nghĩa Học Đại Đức (義學大德), Phiên Kinh Đại Đức (翻經大德), Dịch Ngữ Đại Đức (譯語大德), v.v. Ngoài ra, người thống lãnh Tăng Ni cũng gọi là Đại Đức. Như trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 11, Đường Kinh Sư Diên Hưng Tự Thích Cát Tạng Truyện (唐京師延興寺釋吉藏傳) có đề cập sự việc vào năm đầu (618) niên hiệu Võ Đức (武德) nhà Đường, vì số lượng tăng chúng quá đông, chức Thập Đại Đức (十大德) được thiết trí để quản lý tăng chúng. Ngoài những ý nghĩa nêu trên, hiện nay tại Việt Nam, danh xưng Đại Đức được dùng cho những vị mới thọ giới cũng như có Hạ lạp thấp, sau Thượng Tọa và Hòa Thượng.
(大德): (1) Công đức lớn, đại ân. Như trong Hệ Từ (繫辭) của Dịch Kinh (易經) có câu: “Thiên địa chi đại đức viết sinh (天地之大德曰生, đức lớn của trời đất là sinh).” Hay trong Thi Kinh, phần Tiểu Nhã (小雅), Cốc Phong (谷風) có câu: “Vong ngã đại đức, tư ngã tiểu oán (忘我大德、思我小怨, quên đức lớn của ta, nhớ oán hận nhỏ quả ta).” (2) Phẩm đức cao thượng. Như trong chương Lập Chính (立政) của Quản Tử (管子) có câu: “Quân chi sở thận giả tứ, nhất viết đại đức bất chí nhân, bất khả dĩ thọ quốc bính (君之所愼者四、一曰大德不至仁、不可以授國柄, có bốn điều người quân tử phải thận trọng, một là phẩm đức cao thượng không bằng lòng nhân, không thể lấy vậy mà ban cho quyền lực quốc gia được).” Quan Đại Thần Duẫn Tri Chương (尹知章, 669-718) nhà Đường chú thích rằng: “Đức tuy đại nhi nhân bất chí, hoặc bao tàng họa tâm, cố bất khả thọ quốc bính (德雖大而仁不至、或包藏禍心、故不可授國柄, đức tuy lớn mà lòng nhân vẫn không thấu đáo, hoặc có thể ẩn tàng tâm gây hiểm họa, nên không thể ban cho quyền lực quốc gia được).” (3) Chỉ cho người có đức hạnh cao thượng. Như trong Lễ Ký (禮記), chương Trung Dung (中庸) có câu: “Cố đại đức tất đắc kỳ vị (故大德必得其位, cho nên người có đức hạnh cao thượng tất đạt được vị trí ấy).” Hay trong chương Ly Lâu (離婁) của Mạnh Tử (孟子) có đoạn: “Thiên hạ hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch đại hiền (天下有道、小德役大德、小賢役大賢, thiên hạ có đạo rằng người đức ít thì phục dịch người đức lớn, người hiền nhỏ thì phục vụ người hiền lớn).” (4) Đại Đức (s, p: bhadanta, 大德), âm dịch là Bà Đàn Đà (婆檀陀). Tại Ấn Độ, đây là tiếng kính xưng đối với Phật, Bồ Tát hay cao tăng; hoặc trong hàng ngũ chư vị Tỳ Kheo, bậc Trưởng Lão cũng được gọi là Đại Đức. Như trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Tuần Hành Kinh (佛說文殊師利巡行經, Taishō Vol. 14, No. 470) quyển 57 có đoạn: “Nhĩ thời Văn Thù Sư Lợi đồng tử, ký kiến Trưởng Lão Xá Lợi Phất dĩ, nhi ngữ chi ngôn: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Nhữ nhập Thiền da ?' (爾時文殊師利童子、既見長老舍利弗已、而語之言、大德舍利弗、汝入禪耶, lúc bấy giờ đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đã thấy Trưởng Lão Xá Lợi Phất rồi, mà nói lời rằng: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Có phải người nhập vào Thiền định không ?').” Trong các bộ Luật, khi đối trước đại chúng hiện tiền, chỉ cho chúng Tỳ Kheo, người ta thường dùng từ “Đại Đức Tăng (大德僧)”; với chúng Tỳ Kheo Ni là “Đại Tỷ Tăng (大姊僧)”. Tỷ dụ như trong Luật Uyển Sự Quy (律苑事規, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1113) có đoạn: “Đại Đức nhất tâm niệm ngã [mỗ giáp] kim thỉnh Đại Đức vi lạc phát Hòa Thượng, nguyện Đại Đức vi ngã lạc phát Hòa Thượng, ngã y Đại Đức cố đắc thế phát xuất gia, từ mẫn cố [tam thỉnh] (大德一心念、我[某甲]今請大德爲落髮和尚、願大德爲我落髮和尚、我依大德故得剃髮出家、慈愍故[三請], Đại Đức một lòng nghĩ nhớ, con […] nay cung thỉnh Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc, ngưỡng mong Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc của con, vì con nương Đại Đức nên được xuống tóc xuất gia, xin thương xót cho [ba lần thưa như vậy]).” Tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, từ Đại Đức không dùng để tôn xưng chư Phật, Bồ Tát; mà chỉ dùng cho chư vị cao tăng mà thôi. Tuy nhiên, dưới thời Tùy Đường, những người tham gia dịch kinh đều được gọi là Đại Đức. Như trong Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大唐大慈恩寺三藏法師傳, Taishō Vol. 50, No. 2053) quyển 6 cho biết rằng vào tháng 6 năm Trinh Quán (貞觀) thứ 19 (645), khi Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch kinh tại Hoằng Phước (弘福), có 12 vị Chứng Nghĩa Đại Đức (證義大德), 9 vị Chuyết Văn Đại Đức (綴文大德), 1 vị Tự Học Đại Đức (字學大德), 1 vị Chứng Phạn Ngữ Phạn Văn Đại Đức (證梵語梵文大德), v.v. Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) quyển 16 cũng có nêu lên một số danh xưng khác như Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德), Bách Tòa Đại Đức (百座大德), Tam Học Đại Đức (三學大德), Giảng Luận Đại Đức (講論大德), Nghĩa Học Đại Đức (義學大德), Phiên Kinh Đại Đức (翻經大德), Dịch Ngữ Đại Đức (譯語大德), v.v. Ngoài ra, người thống lãnh Tăng Ni cũng gọi là Đại Đức. Như trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 11, Đường Kinh Sư Diên Hưng Tự Thích Cát Tạng Truyện (唐京師延興寺釋吉藏傳) có đề cập sự việc vào năm đầu (618) niên hiệu Võ Đức (武德) nhà Đường, vì số lượng tăng chúng quá đông, chức Thập Đại Đức (十大德) được thiết trí để quản lý tăng chúng. Ngoài những ý nghĩa nêu trên, hiện nay tại Việt Nam, danh xưng Đại Đức được dùng cho những vị mới thọ giới cũng như có Hạ lạp thấp, sau Thượng Tọa và Hòa Thượng.
(慧眼): có ba nghĩa khác nhau. (1) Là thuật ngữ Phật Giáo, chỉ cho một trong Ngũ Nhãn (s: pañca cakṣūṃṣi, p: pañca cakkhūni, 五眼), tức là con mắt trí tuệ của Nhị Thừa; cũng chỉ chung cho trí tuệ có thể chiếu thấy rõ thật tướng của các pháp. Như trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475), quyển Trung, Phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn (入不二法門品) có giải thích về Huệ Nhãn rằng: “Thật kiến giả thượng bất kiến thật, hà huống phi thật, sở dĩ giả hà ? Phi nhục nhãn sở kiến, Huệ Nhãn nãi năng kiến, nhi thử Huệ Nhãn, vô kiến vô bất kiến, thị vi nhập Bất Nhị pháp môn (實見者尚不見實、何況非實、所以者何、非肉眼所見、慧眼乃能見、而此慧眼、無見無不見、是爲入不二法門, cái thấy thật còn không thấy thật thay, huống gì chẳng phải thật, vì cớ sao vậy ? Chẳng phải mắt thịt thấy được, mà Huệ Nhãn [con mắt trí tuệ] mới có thể thấy, mà Huệ Nhãn này, không thấy và không phải không thấy, đó là đi vào pháp môn Không Hai).” Hay trong bài thơ Tặng Am Trung Lão Tăng (贈庵中老僧) của Đường Thuận Chi (唐順之, 1507-1560) nhà Minh có câu: “Nghiệp tịnh Lục Căn thành Huệ Nhãn, thân vô nhất vật ký mao am (業淨六根成慧眼、身無一物寄茅庵, nghiệp sạch Sáu Căn thành Huệ Nhãn, thân không một vật gởi am tranh).” Trong Viên Giác Kinh Giáp Tụng Tập Giải Giảng Nghĩa (圓覺經夾頌集解講義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 10, No. 253) còn cho biết rằng: “Thâm ngộ luân hồi tức Huệ Nhãn, phân biệt tà chánh tức Pháp Nhãn; nhiên Huệ Nhãn chứng chơn, Pháp Nhãn đạt sự; hựu Huệ Nhãn tức Căn Bản Trí, Pháp Nhãn tức Hậu Đắc Trí (深悟輪迴卽慧眼、分別邪正卽法眼、然慧眼證眞、法眼達事、又慧眼卽根本智、法眼卽後得智, biết sâu luân hồi tức là Huệ Nhãn, phân biệt đúng sai tức là Pháp Nhãn; tuy nhiên Huệ Nhãn thì chứng chơn, Pháp Nhãn thì đạt về sự; lại nữa, Huệ Nhãn tức là Căn Bản Trí, Pháp Nhãn tức là Hậu Đắc Trí).” (2) Nhãn lực nhạy bén, tinh anh. Như trong tập Âu Bắc Thi Thoại (甌北詩話), bài Ngô Mai Thôn Thi (吳梅村詩) của Triệu Dực (趙翼, 1727-1814) nhà Thanh có câu: “Thử thi nhân huệ nhãn, thiện ư thủ đề xứ (此詩人慧眼、善於取題處, con mắt nhạy bén của nhà thơ này, khéo ở chỗ nắm bắt đề tài).” Hay trong tập Dạ Thu Vũ Đăng Lục (夜雨秋燈錄), Truyện A Hàn (阿韓傳) của tiểu thuyết gia Tuyên Đỉnh (宣鼎, 1832-1880) nhà Thanh lại có câu: “Nhi Hàn năng ư phong trần trung độc cụ tuệ nhãn, nữ hiệp dã (而韓能於風塵中獨具慧眼、女俠也, mà trong phong trần, riêng một mình A Hàn có thể có đủ con mắt tinh anh, đúng là nữ hiệp vậy).” (3) Chỉ cho tròng mắt đẹp. Như trong tập đề vịnh Hồng Vi Cảm Cựu Ký (紅薇感舊記) do Phó Truân Cấn (傅屯艮, 1883-1930, tự Văn Lương [文渠]) sáng tác, có câu: “Năng tương huệ nhãn khán tài tử, khảng khái bi ca úy tịch liêu (能將慧眼看才子、慷慨悲歌慰寂寥, thường lấy mắt đẹp nhìn tài tử, hăng hái buồn ca sợ tịch liêu).”
(義淨, Gijō, 635-713): vị tăng dịch kinh nổi tiếng dưới thời nhà Đường, người Huyện Trác (涿縣), Hà Bắc (河北), có thuyết cho là xuất thân vùng Tề Châu (齊州, Sơn Đông), họ là Trương (張), tự Văn Minh (文明). Ông xuất gia từ lúc còn nhỏ, thiên tánh thông tuệ, đã từng đi tham vấn khắp các bậc danh đức, đọc qua các điển tịch. Năm lên 15 tuổi, ông rất ngưỡng mộ cuộc Tây du thỉnh kinh của Pháp Hiển (法顯, 340?-?) và Huyền Trang (玄奘, 602-664). Đến năm 20 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới. Vào năm thứ 2 (671) niên hiệu Hàm Hanh (咸亨), ông đi qua Quảng Châu (廣州), dọc theo đường biển, đến vùng Thất Lợi Phất Thệ (室利弗逝, tức Tô Môn Đáp Lạp Ba Lân Bàng [Palembang, 蘇門答臘巴鄰旁]) và cuối cùng đến được Ấn Độ. Tại đây ông đã chí thành tuần bái và đảnh lễ các thánh địa Phật Giáo như Thứu Phong (鷲峰, tức Kỳ Xà Quật Sơn [s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山]), Kê Túc Sơn (雞足山), Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), Kỳ Viên Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇園精舍), v.v. Sau đó, ông đến tu học tại Na Lan Đà Tự (s: Nālandā, 那爤陀寺) trong suốt 10 năm, rồi đi du lịch hơn 30 tiểu quốc. Khi trở về nước, ông mang về Lạc Dương khoảng 400 bộ kinh luận bằng tiếng Phạn và 300 viên xá lợi; chính Võ Hậu đích thân ra tận Đông môn nghinh tiếp và hạ chiếu chỉ cho ông trú trì Phật Thọ Ký Tự (佛授記寺). Từ đó trở đi, ông tham gia vào công tác trùng dịch Kinh Hoa Nghiêm (華嚴經), cùng các thư tịch về giới luật, Duy Thức, Mật Giáo, v.v. Kể từ năm thứ 2 (699) niên hiệu Thánh Lịch (聖曆) cho đến năm thứ 2 (711) niên hiệu Cảnh Vân (景雲), ông đã dịch được 56 bộ, 230 quyển, trong số đó thư tịch liên quan đến giới luật là nhiều nhất và những điển tịch hiện lưu truyền của Tỳ Nại Da thuộc Hữu Bộ phần lớn đều do ông phiên dịch cả. Ông cùng với Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413), Huyền Trang (玄奘, 602-664), và Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) được xem như là 4 nhà phiên dịch lớn. Ngoài việc phiên dịch, ông còn lấy giới luật dạy dỗ đồ chúng. Trước tác của ông có Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳) 4 quyển, Đại Đường Tây Vức Cầu Pháp Cao Tăng Truyện (大唐西域求法高僧傳) 2 quyển, v.v. Trong tác phẩm của ông có ghi lại những sinh hoạt của chư tăng, phong tục, tập quán, v.v., ở các nước mà ông đã từng đi qua, là tư liệu vô cùng quan trọng để chúng ta có thể biết được Ấn Độ đương thời như thế nào. Ông thị tịch vào tháng giêng năm thứ 2 niên hiệu Tiên Thiên (先天), hưởng thọ 79 tuổi. Tháp của ông được dựng tại Long Môn (龍門), Lạc Dương (洛陽).
(日審, Nisshin, 1599-1666): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng đầu và giữa thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Thẩm (日審), tự Văn Gia (文嘉); hiệu Linh Thứu Viện (靈鷲院); xuất thân vùng Kyoto, con trai thứ 3 của Giang Thôn Cửu Mậu (川村久茂). Lúc lên 8 tuổi, ông theo xuất gia với Nhật Huyền (日玄) ở Huệ Quang Tự (慧光寺) thuộc Kyoto. Từ năm 17 tuổi trở đi, ông theo học các khoa học tại những trường Đàn Lâm. Đến năm 1629, ông làm trú trì đời thứ 12 của Trường Nguyên Tự (長源寺) vùng Nhược Hiệp (若狹, Wakasa, thuộc Fukui-ken [福井縣]), rồi đi bố giáo ở địa phương Cửu Châu (九州, Kyūshū) cho đến năm 1640. Năm sau, ông làm Hóa Chủ cho Lục Điều Đàn Lâm (六條檀林, tức Bổn Quốc Tự [本圀寺]); đến năm 1647 thì làm trú trì đời thứ 20 của Lập Bổn Tự (立本寺) tại kinh đô Kyoto. Ông đã từng đi khắp toàn quốc mà thuyết giáo Kinh Pháp Hoa và rất nổi tiếng với tư cách là Tăng sĩ bố giáo thời Cận Đại. Trước tác của ông có Pháp Hoa Khẩu Diễn Sao (法華口演抄) 4 quyển, Pháp Hoa Tọa Đàm Nghĩa (法華坐談義) 1 quyển, Viên Đốn Giả Giảng Thảo (圓頓者講草) 1 quyển.
(法席): chỗ ngồi thuyết pháp. Như trong bài Quán Thế Âm Bồ Tát Ứng Hiện Ký (觀世音菩薩應現記) của Viên Anh Đại Sư Văn Tập (圓瑛大師文集) có đoạn: “Kim Phổ Đà đảnh sơn tự Văn Chất Lão Hòa Thượng trùng hưng dĩ lai, đại khai pháp tịch, nhi hưng tiền hậu tự thành đỉnh túc chi thế, đạo phong nhật chấn (今普陀頂山自文質老和尚重興以來、大開法席、而與前後寺成鼎足之勢、道風日振, hiện tại kể từ khi Văn Chất Lão Hòa Thượng trùng hưng đỉnh núi Phổ Đà đến nay, chùa mở pháp hội lớn, làm cho phát triển trước sau, chùa trở thành thế chân vạc, đạo phong của người ngày càng vang xa).” Hay trong bài Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách (潙山大圓禪師警策) của Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐, 771-853) cũng có câu: “Tỳ ni pháp tịch, tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa, khởi năng chân biệt (毘尼法席、曾未叨陪、了義上乘、豈能甄別, pháp tịch giảng dạy Luật tạng, chưa từng học hỏi thực hành, giáo lý thượng thừa liễu nghĩa, làm sao phân biệt được).” Trong tác phẩm Bảo Khánh Ký (寳慶記, Hōkeiki) của Thiền Sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen, 1200-1253) có đoạn rằng: “Đạo Nguyên con hồi còn nhỏ đã phát bồ đề tâm, đến tham vấn chư sư nơi bổn quốc, mới biết được chút do lai của nhân quả. Tuy nhiên, thế mà vẫn chưa xác định rõ việc quy y theo Phật Pháp Tăng, cứ mãi bị ràng buộc trong vòng danh tướng. Sau đến tham học Thiên Quang Thiền Sư, lần đầu tiên được nghe tông phong của Lâm Tế. Nay con theo hầu Toàn Pháp Sư sang nhà Tống nầy. Biển khơi vạn dặm, phó mặc huyễn thân nầy cho sóng cả nghìn trùng. Cuối cùng mới có thể đến được nhà Đại Tống, và dự vào pháp tịch của Hòa Thượng. Có lẽ đây là điều may mắn nhất trong đời. Ngưỡng mong Hòa Thượng đại từ đại bi, kẻ tiểu nhân nơi chốn xa nước ngoài đến đây, chỉ nguyện rằng chẳng kể thời quang trôi qua, không màng đầy đủ uy nghi, chỉ mong sao được thỉnh giáo ngu hoài lên phương trượng. Sống chết là việc lớn, vô thường chóng qua mau, chẳng trông đợi một ai, rời xa Thánh đạo tất ân hận một đời. Tiểu tăng Đạo Nguyên xin trăm lạy cúi đầu khẩn thỉnh.”
(坐化): tín đồ Phật Giáo ngồi ngay ngắn, an nhiên mà chết, gọi là tọa hóa. Thuật ngữ này thường xuất hiện trong các thư tịch Phật Giáo. Như trong Tây Quy Trực Chỉ (西歸直指, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1173) quyển 4, phần Cửu Pháp Hoa (久法華), có đoạn: “Cư Minh Châu, thường tụng Pháp Hoa, nguyện sanh Tịnh Độ, thời hiệu Cửu Pháp Hoa; Thiên Hựu bát niên, niên bát thập nhất, tọa hóa, tam nhật hậu phục tô (居明州、常誦法華、願生淨土、時號久法華、天祐八年、年八十一、坐化、三日後復蘇, ông sống ở Minh Châu, thường tụng kinh Pháp Hoa, nguyện sanh về Tịnh Độ, đương thời gọi ông là Cửu Pháp Hoa; vào năm thứ 8 [911] niên hiệu Thiên Hựu, lúc 81 tuổi, ông ngồi an nhiên ra đi, ba ngày sau thì sống lại).” Hay trong Chỉ Nguyệt Lục (指月錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 83, No. 1578) quyển 6, phần Ngưu Đầu Sơn Trí Uy Thiền Sư (牛頭山智威禪師), lại có đoạn: “Đại Lịch tứ niên lục nguyệt thập ngũ nhật, tập tăng Bố Tát ngật, mạng thị giả tịnh phát dục thân, chí dạ hữu thụy vân phú kỳ Tinh Xá, thiên nhạc tứ văn, cật đán di nhiên tọa hóa (大曆四年六月十五日、集僧布薩訖、命侍者淨髮浴身、至夜有瑞雲覆其精舍、天樂四聞、詰旦怡然坐化, vào ngày rằm tháng 6 năm thứ 4 [769] niên hiệu Đại Lịch, Thiền Sư tập trung tăng chúng Bố Tát xong, bảo thị giả cạo tóc tắm rửa thân thể sạch sẽ, đến đêm có đám mây lành che phủ Tinh Xá của ngài, nhạc trời nghe khắp bốn phía, sáng sớm hôm sau thì Thiền Sư ngồi an nhiên ra đi).” Hoặc trong Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Bỉnh Phất Ngữ Lục (爲霖道霈禪師秉拂語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1438) quyển Hạ, phần Tháp Chí (塔誌), lại có đoạn: “Ư Thanh Thuận Trị Đinh Dậu cửu nguyệt sơ nhất nhật thị vi dạng, thập nguyệt sơ thất nhật Tý thời thuyết kệ từ chúng, nguy nhiên tọa hóa, xuân thu bát thập, Lạp tứ thập hữu nhất (於清順治丁酉年九月初一日示微恙、十月初七日子時說偈辭眾、危然坐化、春秋八十、臘四十有一, vào ngày mồng một tháng 9 năm Đinh Dậu [1657] niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh, Thiền Sư nhuốm bệnh nhẹ; đến giờ Tý ngày mồng 7 tháng 10, sư nói kệ từ giã đại chúng, ngồi ngay ngắn an nhiên ra đi, hưởng thọ 80 tuổi đời, 41 Hạ Lạp).”
(斯文): nghĩa là học vấn ấy, đạo ấy. Trong bộ Luận Ngữ, Chương Tử Hãn (子罕) có câu rằng: Thiên chi tướng táng Tư văn dã, hậu tử giả bất đắc dữ ư Tư văn dã (天之將喪斯文也、後死者不得與於斯文也, vị tướng trời đã chôn đi cái học vấn ấy, nên người chết sau không có được cái học vấn ấy). Như vậy từ này vốn phát xuất từ trong Luận Ngữ.
(司命): có nhiều nghĩa khác nhau:
(1) Theo Thiên Văn cổ đại, từ này chỉ cho ngôi sao thứ Tư văn Xương (文昌).
(2) Chỉ cho hai ngôi sao phía bắc của Hư Tú (虛宿).
(3) Tên của vị thần quản lý sinh mạng của con người. Như trong Sở Từ (楚辭), phần Đại Ty Mạng (大司命) có giải thích rằng: “Ty Mạng chủ tri sanh tử (司命主知生死, thần Ty Mạng chủ yếu quản lý việc sống chết).”
(4) Người có quyền lực sinh sát trong tay.
(5) Tên khác của Táo Thần (灶神), thường được gọi là Đông Trù Ty Mạng Táo Quân (東厨司命灶[竈]君).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập