Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Hạnh phúc là khi những gì bạn suy nghĩ, nói ra và thực hiện đều hòa hợp với nhau. (Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.)Mahatma Gandhi
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Thành công có nghĩa là đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời so với những gì cuộc đời mang đến cho bạn. (To do more for the world than the world does for you, that is success. )Henry Ford
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tống Cao Tăng Truyện »»
(夏臘, 夏臈): còn gọi là Tăng Lạp (僧臘), Pháp Lạp (法臘), Pháp Tuế (法歲), Pháp Hạ (法夏), Giới Lạp (戒臘), Tọa Lạp (坐臘), Tọa Hạ Pháp Lạp (坐夏法臘); chỉ cho số năm An Cư Kiết Hạ của vị Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘) sau khi thọ giới Cụ Túc. Mỗi năm từ ngày 16 tháng 4 cho đến ngày rằm tháng 7 âm lịch, trong vòng 3 tháng, các tòng lâm có tổ chức An Cư Kiết Hạ, lấy ngày cuối cùng của thời gian ấy làm ngày kết thúc của một năm; tức là ngày thọ thêm 1 tuổi. Cho nên, các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼), sau khi thọ giới xong, vào dịp kết thúc kỳ An Cư Kiết Hạ, sẽ được tăng thêm 1 tuổi nữa. Tùy theo tuổi Hạ ít nhiều mà phân làm Thượng Lạp (上臘), Trung Lạp (中臘) và Hạ Lạp (下臘), để phân định cao thấp, tôn ty thượng hạ. Người có tuổi Hạ cao nhất được gọi là Nhất Lạp (一臘), Cực Lạp (極臘), Lạp Mãn (臘滿). Trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 21 có đoạn: “Sở trú giả Pháp Lạp, cố cổ chi cao tăng, viết Thế Thọ, hựu viết Pháp Lạp; cái bất câu tuế niên, nhi dĩ sơ nhập thọ trì giới phẩm, tam nguyệt An Cư, giới thể vô khuy vi nhất lạp, do dĩ lạp bất dĩ niên, cố hữu niên cao nhi lạp thiểu giả, hữu đồng niên nhi kì thọ giả (所住者法臘、故古之高僧、曰世壽、又曰法臘、蓋不拘歲年、而以初入受持戒品、三月安居、戒體無虧爲一臘、由以臘不以年、故有年高而臘少者、有童年而耆壽者, Pháp Lạp của người cư trú, chư vị cao tăng xưa gọi là Thế Thọ, hay còn gọi là Pháp Lạp; vì không kể tuổi đời, mà lấy việc mới vào thọ trì giới phẩm, ba tháng An Cư, giới thể không bị thiếu là một Lạp, do vì lấy Hạ Lạp mà không lấy tuổi đời; cho nên có người tuổi đời cao mà Hạ Lạp ít, có người tuổi đời ít mà tuổi thọ cao).” Trong Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Hạ lại giải thích rõ rằng: “Hạ Lạp, tức Thích thị Pháp Tuế dã; phàm tự trưởng ấu, tất vấn, Hạ Lạp đa giả vi trưởng (夏臘、卽釋氏法歲也、凡序長幻、必問、夏臘多者爲長, Hạ Lạp là Pháp Tuế nhà Phật; phàm muốn biết thứ tự lớn nhỏ, cần phải hỏi, Hạ Lạp nhiều là lớn).” Hay trong Báo Ân Luận (報恩論, 卍 Xuzangjing Vol. 62, No. 1205) quyển Thượng có đề cập rằng: “Phàm xuất gia nhị chúng, Đông Hạ nhập Lan Nhã giảng học, Xuân Thu quy gia dưỡng phụ mẫu, cố tăng gia tự xỉ xưng Hạ Lạp, bất xưng niên (凡出家二眾、冬夏入蘭若講學、春秋歸家養父母、故僧家序齒稱夏臘、不稱年, phàm hai chúng xuất gia, mùa Đông và Hạ thì vào chùa tu học, đến mùa Xuân và Thu thì về nhà phụng dưỡng cha mẹ; nên tuổi tác của tăng sĩ được gọi là Hạ Lạp, không gọi là năm [tuổi đời]).” Trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳, q.16, Taishō Vol. 50, No. 2061) quyển 16, phần Đường Giang Châu Hưng Quả Tự Thần Thấu Truyện (唐江州興果寺神湊傳) cũng có đoạn: “Nguyên Hòa thập nhị niên cửu nguyệt cấu tật, nhị thập lục nhật nghiễm nhiên tọa chung vu tự, thập nguyệt thập cửu nhật môn nhân phụng toàn thân biếm vu tự Tây đạo Bắc phụ Nhạn Môn phần tả, nhược tăng Thuyên táng cận Quách Văn chi mộ dã, xuân thu thất thập tứ, Hạ lạp ngũ thập nhất (元和十二年九月遘疾、二十六日儼然坐終于寺、十月十九日門人奉全身窆于寺西道北祔雁門墳左、若僧詮葬近郭文之墓也、春秋七十四、夏臘五十一, vào tháng 9 năm thứ 12 [817] niên hiệu Nguyên Hòa, ông nhuốm bệnh, đến ngày 26 thì nghiễm nhiên ngồi thị tịch tại chùa; vào ngày 19 tháng 10, môn nhân đem toàn thân của ông an táng ở phía Tây chùa, sau hợp táng ở bên trái đồi Nhạn Môn, giống như vị tăng Đạo Thuyên an táng gần mộ của Quách Văn vậy; ông hưởng thọ 74 tuổi đời và 51 Hạ lạp).”
(臨濟錄, Rinzairoku): bộ Ngữ Lục của Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄) nhà Đường, được xem như là do đệ tử ông là Huệ Nhiên Tam Thánh (慧然三聖) biên tập, nhưng bản hiện hành thì do Viên Giác Tông Diễn (圓覺宗演) nhà Tống tái biên và trùng san vào năm thứ 2 (1120) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和). Lâm Tế Lục này được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc và Nhật Bản, thỉnh thoảng được khai bản và tôn trọng như là "vua của các Ngữ Lục". Với đầu quyển có lời tựa của Mã Phòng (馬防), toàn thể bộ này gồm có 4 phần chính: Thượng Đường Ngữ (上堂語), Thị Chúng (示眾), Kham Biện (勘辨), Hành Lục (行錄). Ngoài ra, bài Chơn Định Thập Phương Lâm Tế Huệ Chiếu Huyền Công Đại Tông Sư Đạo Hạnh Bi (眞定十方臨濟慧照玄公大宗師道行碑) và Lâm Tế Chánh Tông Bi Minh (臨濟正宗碑銘) cũng được thâu lục vào đây. Trong phần Thượng Đường Ngữ tập trung những lời giáo huấn cho chúng đệ tử và những câu vấn đáp lấy lời giáo huấn ấy làm khế cơ. Phần Thị Chúng là Ngữ Lục giảng nghĩa, với ngôn từ rất khẩn thiết nhắn nhủ chúng đệ tử. Phần Kham Biện là phần ký lục ghi lại những lời vấn đáp qua lại giữa các Thiền tăng có nêu tên như Triệu Châu (趙州), Ma Cốc (麻谷), v.v. Và phần Hành Lục là phần ghi lại nhân duyên vì sao ông đã đạt ngộ với Hoàng Bá, quá trình tu hành với vị này như thế nào, quá trình đi hành cước các nơi, cho đến khi qua đời. Dưới thời nhà Đường có nhiều Ngữ Lục xuất hiện, mỗi Ngữ Lục đều phản ánh cá tánh của Thiền giả và cho ta thấy được sự rộ nở của trăm hoa. Thế nhưng qua những ngữ cú tản mạn khắp nơi trong bộ Ngữ Lục này như "bậc chân nhân không giai vị", "đạo nhân không nương tựa", "vô sự là quý nhân", "nếu tùy nơi làm chủ thì nơi nào cũng là chơn cả", "gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ", "ba thừa mười hai phần giáo thảy đều giấy cũ để chùi đồ bất tịnh", v.v., ta có cảm giác như có mặt thật sự ngay lúc ấy với biểu hiện rất giản dị của Lâm Tế, và có thể nói đó là đỉnh điểm của tư tưởng Thiền. Qua ký lục của Tổ Đường Tập (祖堂集) 19 cũng như Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳) 12, ta có thể biết được rằng Ngữ Lục của Lâm Tế đã tồn tại từ rất xưa. Theo nghiên cứu gần đây cho thấy rằng lời của Lâm Tế được thâu lục vào trong Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (天聖廣燈錄) 10-11. Sau lần trùng san của Tông Diễn, bản này cũng thỉnh thoảng được san hành, bản Tục Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (續古尊宿語要) 1 là san bản hiện tồn xưa nhất. Tại Nhật Bản cũng tồn tại rất nhiều bản như Bản Ngũ Sơn của năm thứ 2 (1320) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), năm thứ 9 (1437) niên hiệu Vĩnh Hưởng (永享), năm thứ 3 (1491) niên hiệu Diên Đức (延德); Bản Cổ Hoạt Tự (古活字本) vào năm thứ 9 (1623) niên hiệu Nguyên Hòa (元和); bản năm thứ 2 (1625), 4 (1627), 9 (1632), 10 (1633), 14 (1637) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), v.v.
(悟達, Gotatsu, 811-883): vị cao tăng sống dưới thời nhà Đường, xuất thân Hồng Nhã (洪雅), Mi Châu (眉州, nay là Tỉnh Tứ Xuyên), họ Trần (陳), pháp danh Tri Huyền (知玄), tự Hậu Giác (後覺). Hồi nhỏ ông rất thích hình tượng Phật và hình ảnh chư tăng. Đến năm lên 7 tuổi, nhân đến nghe Pháp Thái (法泰) ở Ninh Di Tự (寧夷寺) giảng về Kinh Niết Bàn (涅槃經), đêm đó chợt mộng thấy đức Phật ở chánh điện chùa lấy tay xoa đầu mình. Đến năm 11 tuổi, ông theo xuất gia với Pháp Thái, chuyên nghiên cứu về Kinh Niết Bàn. Hai năm sau, ông vâng mệnh vị Thừa Tướng thăng đường thuyết pháp ở Đại Từ Tự (大慈寺) đất Thục, thính giả đến nghe lên đến cả vạn người, ai cũng mến phục trí tuệ của ông, bèn tôn xưng ông là Trần Bồ Tát. Sau ông theo Luật Sư Biện Trinh (辯貞) thọ Cụ Túc giới, rồi theo Pháp Sư An Quốc Tín (安國信) học về Duy Thức, và tự mình nghiên cứu thêm các kinh điển của những tông phái khác. Ông thường hận mình không thể thuyết kinh được bằng tiếng địa phương. Nhân tụng chú Đại Bi, cảm ứng được vị thần tăng thay lưỡi cho ông trong mộng; hôm sau khi thức dậy, tiếng nói thay đổi. Một thời gian lâu sau, ông ngao du lên kinh đô, gặp lúc vua Võ Tông đang mến mộ phép thuật thành tiên của các đạo gia, nhà vua mời ông cùng luận tranh với các đạo sĩ ấy. Ông biện tài lanh lợi, nói thẳng chẳng sợ, nhà vua tuy không thích lời nói của ông nhưng cũng rất vui lòng với kiến thức của ông. Đến thời vua Tuyên Tông, nhà vua mời ông vào cung nội giảng kinh, ban cho Tử Y, phong làm vị Thủ Tòa của Tam Giáo. Vua Ý Tông thường thân lâm đến nghe giảng kinh và ban cho tòa ngồi bằng gỗ trầm hương; do vì ông sanh tâm hoan hỷ nên sanh ra mụt nhọt có mặt người nơi đầu gối của nhiều đời oan nghiệp chất chồng, sau nhờ tôn giả Ca Nặc Ca (迦諾迦) giúp cho rửa sạch mụt ấy. Về sau ông xin trở về chùa cũ của mình, đến sống tại Đơn Cảnh Sơn (丹景山) thuộc Bành Châu (膨州). Khi vua Hy Tông đến viếng thăm đất Thục, có ban cho ông hiệu Ngộ Đạt Quốc Sư. Khá nhiều tầng lớp sĩ phu cùng giao du với ông, như Lý Thương Ẩn (李商隱) sau khi về vui thú điền viên, đã cùng sống với ông trong một thời gian rất lâu. Ông thị tịch vào năm thứ 3 (883) niên hiệu Trung Hòa (中和), hưởng thọ 73 tuổi đời và 54 hạ lạp. Trước tác của ông có Từ Bi Thủy Sám Pháp (慈悲水懺法) 3 quyển, Thắng Man Kinh Sớ (勝鬘經疏) 4 quyển, Bát Nhã Tâm Kinh Sớ (般若心經疏), Kim Cang Kinh Sớ (金剛經疏), v.v. Trong bài cung văn đầu Kinh Thủy Sám có đoạn: “Quốc Sư Ngộ Đạt, quyên trừ lụy thế chi khiên vưu, sự khải nhất thời, pháp lưu thiên cổ, soạn vi Thượng Trung Hạ tam quyển chi nghi văn, nhân thiên kính ngưỡng, sám ma thân khẩu ý Thập Ác chi tội nghiệp, phàm thánh quy sùng (國師悟達、蠲除累世之愆尤、事啟一時、法流千古、撰爲上中下三卷之儀文、人天敬仰、懺摩身口意十惡之罪業、凡聖皈崇, Quốc Sư Ngộ Đạt trừ sạch các oan khiên của nhiều đời, việc mở ra một lúc, pháp lưu lại muôn thưở, soạn thành văn nghi thức ba quyển Thượng Trung Hạ, người trời đều kính ngưỡng; sám hối tội nghiệp Mười Điều Ác của thân, miệng, ý, phàm thánh thảy quy sùng).” Trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 51, phần Tăng Chức Sư Hiệu (僧職師號) có câu: “Hiến Tông tứ Sa Môn Tri Huyền Ngộ Đạt Quốc Sư (憲宗賜沙門知玄悟達國師, vua Hiến Tông [tại vị 805-820] nhà Đường ban tặng cho Sa Môn Tri Huyền là Ngộ Đạt Quốc Sư).” Hay như trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳) quyển 3, Truyện Đường Kinh Sư Mãn Nguyệt (唐京師滿月傳) cũng có câu: “Thời Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền, hiếu học Thanh Minh, lễ Nguyệt vi sư (時悟達國師知玄、好學聲明、禮月爲師, lúc bấy giờ Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền thích học về Thanh Minh, bèn bái Mãn Nguyệt làm thầy).”
(語錄, Goroku): tác phẩm bút ký mà các vị thị giả hay người tham học ghi lại y nguyên bằng thể văn những lời chỉ dạy của chư vị tổ sư trong Thiền lâm mà họ thường thuyết giáo bằng tục ngữ thông thường. Bản thâu tập và ghi chép lại những ngữ yếu này được gọi là Ngữ Lục. Trong các loại ngữ lục có Quảng Lục là loại ký lục thâu tập trên phạm vi rộng lớn. Ở Nhật bản có thêm văn tiếng Nhật thì được gọi là Pháp Ngữ (法語). Theo văn bia nơi tháp của Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海), v.v., ban đầu hình như nó được gọi là Ngữ Bản (語本). Từ Ngữ Lục được tìm thấy đầu tiên là phần Bắc Sơn Tham Huyền Ngữ Lục (北山參玄語錄) trong Huệ Nghĩa Tự Thần Thanh Chương (慧義寺神清章) của bản Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳). Nhưng các Ngữ Lục có ý nghĩa được dùng ngày nay vốn bắt đầu từ Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) cũng như các Thiền tăng thuộc môn hạ ông ta, gồm các bản như Lâm Tế Lục (臨濟錄), Truyền Tâm Pháp Yếu (傳心法要), v.v., đặc biệt rất nổi tiếng.
(法臘、法臈): chỉ số năm thọ An Cư mùa Hạ của tăng sĩ sau khi thọ giới Cụ Túc; còn gọi là Pháp Tuế (法歲), Hạ Lạp (夏臘), Pháp Hạ (法夏), Giới Lạp (戒臘), Tăng Lạp (僧臘), Tọa Lạp (坐臘), Tọa Hạ Pháp Lạp (坐夏法臘). Thông thường trong tòng lâm, hằng năm từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 Âm Lịch, có tổ chức cử hành An Cư Kiết Hạ, lấy ngày cuối cùng làm ngày chấm dứt 1 năm, tức là ngày nhận thêm 1 tuổi. Cho nên, vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, sau khi thọ giới, đều có bổn phận tham gia An Cư Kiết Hạ, và đến khi kết thúc kỳ hạn đó, mỗi người đều được tăng thêm 1 tuổi, gọi là Hạ Lạp hay Pháp Lạp, v.v. Căn cứ vào tuổi Hạ ít nhiều mà lập ra Thượng Lạp (上臈), Trung Lạp (中臈) và Hạ Lạp (下臈), để phân định thứ tự lớn nhỏ, cao thấp. Vị cao tuổi nhất gọi là Nhất Lạp (一臘), Cực Lạp (極臘) hay Lạp Mãn (臘滿). Trong Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Hạ giải thích rõ rằng: “Hạ Lạp tức Thích thị pháp tuế dã; phàm tự trưởng ấu, tất vấn, Hạ Lạp đa giả vi trưởng (夏臘卽釋氏法歲也、凡序長幻、必問、夏臘多者爲長, Hạ Lạp là tuổi pháp của con dòng họ Thích [tu sĩ]; phàm muốn biết thứ tự lớn nhỏ, phải hỏi, người có Hạ Lạp nhiều là lớn hơn).” Trong Quảng Thanh Lương Truyện (廣清涼傳, Taishō Vol. 51, No. 2099) quyển Trung, phần Ngưu Vân Hòa Thượng Cầu Thông Minh (牛雲和尚求聰明) thứ 11, lại có đoạn: “Chí Đường Minh Hoàng Đế Khai Nguyên nhị thập tam niên, sư niên lục thập tam, Hạ Lạp tứ thập tứ, vô tật nhi chung (至唐明皇帝開元二十三年、師年六十三、夏臘四十四、無疾而終, đến năm thứ 23 [735] niên hiệu Khai Nguyên đời Minh Hoàng Đế nhà Đường, Hòa Thượng 63 tuổi, Hạ Lạp 44 năm, không tật bệnh gì mà ra đi).” Hay trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2061) quyển 16, phần Đường Cối Kê Khai Nguyên Tự Doãn Văn Truyện (唐會稽開元寺允文傳), cũng có đoạn: “Dĩ Trung Hòa nhị niên Nhâm Dần lục nguyệt nhị thập cửu nhật, vi tật tác nhi trường thệ, hưởng linh thất thập hữu bát, Pháp Lạp ngũ thập ngũ (以中和二年壬寅六月二十九日微疾作而長逝、享齡七十有八、法臘五十五, vào ngày 29 tháng 6 năm thứ 2 [882, đời vua Hy Tông nhà Đường] niên hiệu Trung Hòa, sư nhuốm bệnh nhẹ rồi ra đi luôn, hưởng thọ 78 tuổi, Pháp Lạp 55 năm).”
(趙州眞際禪師語錄, Jōshūshinsaizenjigoroku): 3 quyển, do Triệu Châu Tùng Thẩm (趙州從諗) soạn, được san hành trong khoảng niên hiệu Thiệu Hưng (紹興, 1131-1162), còn gọi là Triệu Châu Lục (趙州錄, Jōshūroku). Đầu quyển có phụ lục hành trạng được soạn vào năm thứ 11 (953) niên hiệu Bảo Đại (保大) nhà Nam Đường; quyển thượng, trung và hạ thâu lục những lời dạy thượng đường, thị chúng, vấn đáp, v.v.; cuối quyển hạ có thêm các đối cơ, tham biện, kệ tụng. Theo ký lục của Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳) 11, chúng ta có thể suy đoán được rằng sau khi Triệu Châu qua đời chẳng bao lâu thì Ngữ Lục của ông được thâu lục; san bản hiện hành tối cổ là bản do Thê Hiền Trừng Thị (棲賢澄諟) san định, và được thâu tập vào trong bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (古尊宿語要) 1 do Tăng Đĩnh Thủ Trách (僧挺守賾) biên tập. Về sau, đến cuối thời nhà Minh, Trạm Nhiên Viên Trừng (湛然圓澄) có thêm vào lời tựa và tái biên tập. Tại Nhật Bản, có san bản năm thứ 18 (1613) niên hiệu Khánh Trường (慶長), san bản năm thứ 2 (1649) niên hiệu Khánh An (慶安), v.v.
(傳法正宗記, Denbōshōshūki): 12 quyển, trước tác của Phật Nhật Khế Tung (佛日契嵩) nhà Tống, san hành vào năm đầu (1064) niên hiệu Trị Bình (治平), là bộ sách sử truyện của Thiền Tông tiếp theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) và Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (天聖廣燈錄). Tác phẩm này luận rõ ngọn đèn truyền thừa từ 7 vị Phật trong quá khứ cho đến 6 vị Tổ Đông Độ, lấy căn cứ từ Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集), Bảo Lâm Truyện (寳林傳), v.v., để phản bác lại các thuyết về lược truyện của chư vị Thiền sư từ sau thời Huệ Năng (慧能) trở đi trong Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện (付法藏因緣傳), Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳), Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳), v.v. Vào năm thứ 6 (1061) niên hiệu Gia Hựu (嘉祐), khi tác phẩm này hoàn thành, Khế Tung đã trình thư dâng lên vua Nhân Tông; đến tháng 3 năm sau thì được cho nhập vào Đại Tạng Kinh cùng với Phụ Giáo Biên (輔敎編). Nhân đó, ông được nhà vua ban tặng cho Tử Y và hiệu là Minh Giáo Đại Sư (明敎大師).
(s: Vaiśravaṇa, p: Vessavaṇa, 毘沙門天): âm dịch là Phệ Thất La Ma Noa (吠室羅摩拏), Tỳ Xá La Môn (毘舍羅門), Tì Sa Môn (鞞沙門), Tỳ Sa Môn (毘沙門); còn gọi là Phổ Văn Thiên (普聞天), Chủng Chủng Văn Thiên (種種聞天); là một trong Tứ Thiên Vương, một trong 12 vị trời, vị thần thủ hộ ở phương Bắc của Diêm Phù Đề. Vị này trú tại phía Bắc của tầng thứ tư Tu Di Sơn, thống lãnh chúng quỷ Dạ Xoa và La Sát, kiêm thủ hộ ba châu khác. Do thường thủ hộ đạo tràng, lắng nghe Phật pháp, nên vị này có tên là Đa Văn (普聞, nghe nhiều). Vị trời này được tôn thờ ở địa phương Tây Bắc Ấn Độ, cũng có khi được xem như là thần chiến thắng, nên được tôn sùng cao độ. Hình tượng phổ cập của Tỳ Sa Môn Thiên thể hiện hình thần vương, chân đạp lên hai con quỷ; tay trái cầm bảo tháp, tay phải cầm cây gậy báu. Ngoài ra, hình tượng của vị này còn có hai thân, 4 tay, 10 tay, v.v. Trong số tượng 12 vị trời, chỉ riêng tượng vị này được tôn sùng mà thôi. Bên cạnh đó, vị này còn ban cho phước đức, nên được kính ngưỡng là một trong 7 vị Phước Thần. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō Tripitaka Vol. 19, No. 926) cho biết rằng: “Bắc phương Đa Văn Đại Thiên Vương, kỳ thân lục sắc chấp bảo xoa, thủ hộ bát Phật Bắc phương môn (北方多聞大天王、其身綠色執寶叉、守護八佛北方門, Đa Văn Đại Thiên Vương ở phương Bắc, thân màu xanh cầm chĩa báu, giữ gìn tám Phật cửa phía Bắc).” Hay Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh (佛母大孔雀明王經, Taishō Vol. 19, No. 982) quyển Thượng cho biết thêm rằng: “Bắc phương hữu đại Thiên Vương, danh viết Đa Văn, thị Dược Xoa chủ; dĩ vô lượng bách thiên Dược Xoa nhi vi quyến thuộc, thủ hộ Bắc phương (北方有大天王、名曰多聞、是藥叉主、以無量百千藥叉而爲眷屬、守護北方, phương Tây có vị Thiên Vương lớn, tên là Đa Văn, là chủ của Dược Xoa; lấy vô lượng trăm ngàn các loài Dược Xoa làm quyến thuôc, giữ gìn phương Bắc).” Căn cứ vào Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 12 cho biết rằng nước Vu Điền (s: Ku-stana, 于闐) vô cùng tín ngưỡng vị trời này. Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2061) quyển 1 còn cho biết rằng trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Bảo (天寶, 742-756) của vua Huyền Tông (玄宗, tại vị 712-756) nhà Đường, tại Trung Quốc cũng có tín ngưỡng này. Bức tượng Tỳ Sa Môn Thiên tại Thiên Phật Động ở Đôn Hoàng (敦煌) mặc áo lụa màu, vừa mới được khai quật. Về phía Nhật Bản, tại An Mã Tự (鞍馬寺, Kurama-dera) ở Kyoto có tượng Đâu Bạt Tỳ Sa Môn (兜跋毘沙門); sau khi Mật Giáo được truyền vào, tượng này được xem như vị thần đơn độc, nên được tôn sùng tối đa. Tượng Đa Văn Thiên (niên đại nhà Đường) hiện tồn tại Giáo Vương Hộ Quốc Tự (敎王護國寺, Kyōōgokoku-ji, tức Đông Tự [東寺, Tō-ji]) ở kinh đô Kyoto, tương truyền là tượng thủ hộ vương thành, nên được đặt trên lầu cổng La Thành.
(卍字): chữ Vạn, còn viết là 萬、万、卐; nguyên ngữ tiếng Sanskrit là śrīvatsalakṣana, âm dịch là Thất Lợi Mạt Xoa Lạc Sát Nang (室利靺蹉洛剎囊), ý dịch là Cát Tường Hải Vân (吉祥海雲), Cát Tường Hỷ Toàn (吉祥喜旋), là một trong 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Phật, là đức tướng thường hiển hiện nơi ngực của chư Phật cũng như các Bồ Tát chứng quả Thập Địa (s: daśa-bhūmi, 十地). Đây cũng là một loại phù hiệu thường thấy ở các tượng Phật cũng như văn vật Phật Giáo. Một số kinh điển Phật Giáo nêu rõ vị trí của chữ Vạn như Đại Bổn Kinh (大本經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō No. 1) quyển 1 cho biết rằng chữ Vạn thuộc tướng tốt thứ 16: “Thập lục, hung hữu Vạn tự (十六、胸有萬字, thứ mười sáu, trên ngực có chữ Vạn).” Hay Đại Tát Già Ni Càn Tử Sở Thuyết Kinh (大薩遮尼乾子所說經, Taishō No. 272) quyển 6 cũng cho hay rằng: “Sa Môn Cù Đàm hung hữu Vạn tự thị công đức tướng (沙門瞿曇胸有萬字示功德相, nơi ngực của Sa Môn Cù Đàm có chữ Vạn, thể hiện tướng công đức).” Trong Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh (方廣大莊嚴經) quyển 3 giải thích rằng trong 80 vẻ đẹp của đức Phật thì chữ Vạn thuộc về vẻ đẹp thứ 78, thường thấy ở trên tóc: “Phát hữu ngũ Vạn tự (髮有五卍字, tóc có năm chữ Vạn).” Thập Địa Kinh Luận (十地經論) quyển 12 nêu rõ rằng khi Thái Tử Tất Đạt Đa (s: Siddhārtha, p: Siddhattha, 悉達多) chưa thành Phật, nơi ngực người có chữ Vạn Kim Cang công đức trang nghiêm. Trong khi đó, Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (有部毗奈耶雜事) quyển 29 cho hay rằng nơi lưng của Phật có tướng chữ Vạn. Bên cạnh đó, Đại Bát Nhã Ba La Mật Kinh (大般若波羅蜜多經) quyển 381 cho biết chữ Vạn nằm nơi ngực cũng như tay chân của đức Thế Tôn. Vào thời cổ đại Ấn Độ, chữ Vạn tượng trưng cho sự tốt đẹp. Ngoài đất nước này, Ba Tư, Hy Lạp đều có loại phù hiệu này, thông thường được xem như tượng trưng cho mặt trời, điện quang, lửa, dòng nước chảy, v.v. Xưa kia, Phật Giáo, Bà La Môn Giáo, Kỳ Na Giáo đều có sử dụng chữ Vạn. Người Ấn Độ cổ đại cho rằng phù hiệu chữ Vạn này hiện hữu nơi sợi lông xoăn ở ngực của Phạm Thiên, thần Viṣṇu, Kṛṣṇa, rộng khắp thể hiện tướng cát tường, thanh tịnh, viên mãn. Trong Phật Giáo, chữ Vạn là tướng cát tường ở nơi ngực của đức Phật cũng như chư vị Bồ Tát chứng quả Thập Địa, về sau dần dần trở thành dấu hiệu tiêu biểu cho Phật Giáo. Về tiếng Hán dịch của chữ này, xưa nay có vài thuyết khác nhau. Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413), Huyền Trang (玄奘, 602-664), v.v., thì dịch là “đức (德)”. Trong Thập Địa Kinh Luận (十地經論), Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支, 562-727) dịch là “vạn (萬)” với ý nghĩa “vạn đức viên mãn (萬德圓滿)”. Trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳) quyển 3, chữ này được dịch âm là vạn, nhưng không có ý dịch. Cho đến năm thứ 2 (693) niên hiệu Trường Thọ (長壽) của Võ Tắc Thiên (武則天, 624-705), Hoàng Hậu bắt đầu quy định chữ này đọc là “vạn”, với ý nghĩa là “tập trung vạn đức tốt lành”. Tiếng Phạn ngữ của chữ Vạn (卍) không phải chỉ có một, tỷ dụ như trong Tân Hoa Nghiêm Kinh (新華嚴經) có đến 17 chỗ xuất hiện chữ này, đều dịch là vạn; nhưng nếu lấy nguyên ngữ đối chiếu, nguyên ngữ của chữ này có 4 loại:
(1) śrīvatsa, âm dịch là Thất Lợi Mạt Xoa (室利靺蹉), ý dịch là Cát Tường Ức (吉祥臆), Cát Tường Độc (吉祥犢); như trong Tân Hoa Nghiêm Kinh quyển 48 (Taishō No. 10) có đoạn: “Như Lai hung ức hữu đại nhân tướng, hình như Vạn tự, danh cát tường hải vân (如來胸臆有大人相、形如卍字、名吉祥海雲, nơi ngực của đức Như Lai có tướng của bậc đại nhân, hình như chữ Vạn, tên là mây biển tốt lành).” Trong đó, nguyên ngữ chữ Vạn là śrīvatsa, ý chỉ cho lông tóc xoắn quanh, chồng lên nhau như hình dạng đám mây biển.
(2) nandy-āvarta, âm dịch là Nan Đề Ca Vật Đa (難提迦物多), ý dịch là Hỷ Toàn (喜旋); như trong Tân Hoa Nghiêm Kinh quyển 27 có đoạn: “Kỳ phát hữu toàn, quang tịnh nhuận trạch, vạn tự nghiêm sức (其髪右旋、光淨潤澤、卍字嚴飾, tóc của Ngài xoay về bên phải, ánh sáng thanh tịnh, thấm khắp, chữ Vạn làm cho trang nghiêm).” Chữ Vạn trong câu này là nandy-āvarta, chỉ cho tướng tóc của Phật xoay về bên phải.
(3) svastika, âm dịch là Tắc Phạ Tất Để Ca (塞嚩悉底迦), ý dịch là Hữu Lạc (有樂). Như trong Tân Hoa Nghiêm Kinh quyển 27 có đoạn: “Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc như Vạn tự phát, loa văn hữu toàn phát (願一切眾生得如卍字髪、螺文右旋髪, nguyện hết thảy chúng sanh đều được như mái tóc có chữ Vạn, mái tóc xoay về bên phải theo hình trôn ốc).” Chữ Vạn trong câu này là svastika, có hàm nghĩa “có niềm an lạc”.
(4) pūrṇaghaṭa, âm dịch là Nang Già Tra (囊伽吒), ý dịch là Tăng Trưởng (增長). Như trong Tân Hoa Nghiêm Kinh quyển 27 có đoạn: “Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc luân tướng chỉ, chỉ tiết viên mãn, văn tướng hữu toàn, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc như Liên Hoa Vạn tự toàn chỉ (願一切眾生得輪相指、指節圓滿、文相右旋、願一切眾生得如蓮華卍字旋指, nguyện cho hết thảy chúng sanh có ngón tay tướng bánh xe tròn, kẻ ngón tay tròn đầy, hoa văn tay xoay về bên phải, nguyện cho hết thảy chúng sanh có được ngón tay chữ Vạn như hoa sen).” Nguyên ngữ chữ Vạn trong câu này là pūrṇaghaṭa, chỉ hình tướng đầu bộ hay các kẻ ngón tay tròn đầy. Từ xa xưa, chữ Vạn đã có sự khác nhau về phương hướng xoay có nó.
Trong Ấn Độ Giáo, các vị thần nam tánh thường dùng chữ Vạn (卐, hướng về bên phải) và thần nữ tánh thì dùng chữ Vạn (卍, hướng về bên trái). Đối với Phật Giáo, hiện tồn tại ngôi cổ tháp ở Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑) là chữ Vạn (卍). Ngôi tháp này được kiến tạo dưới thời A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王) để kỷ niệm đức Phật xưa kia đã từng nhập định tại đây. Tại Tây Tạng, phần lớn các giáo đồ của Lạt Ma Giáo đều dùng chữ Vạn (卐). Tại Trung Quốc, trãi qua các đời đều dùng cả hai. Trong bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (大正新脩大藏經) của Nhật Bản thì lấy chữ Vạn (卐) làm tiêu chuẩn; tuy nhiên, các bản Đại Tạng Kinh của nhà Tống, Nguyên, Minh đều dùng chữ Vạn (卍). Gần đây, vào khoảng thập niên 40 của thế kỷ 20, Đức Quốc Xã Hitler có dùng đến chữ Vạn (卍). Và cho đến nay, vẫn còn khá nhiều tranh luận về chiều xoay của chữ này theo quan điểm của Phật Giáo.
(處寂, Shojaku, 648-734): vị tăng của Tịnh Chúng Tông (淨眾宗) Trung Quốc, sống dưới thời nhà Đường, người vùng Phù Thành (浮城), Tuyến Châu (線州), họ Đường (唐), nên được gọi là Đường Hòa Thượng, Đường Thiền Sư; tuy nhiên Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳) lại ghi họ ông là Chu (周). Gia đình ông thuộc loại danh Nho, năm lên 10 tuổi đã để tang cha. Sau khi xuất gia, ông theo hầu Trí Tiển (智銑, 609-702), hay có thuyết cho là theo hầu Thiền Sư Bảo Tu (寳修). Truyền ký cho biết rằng ông từng lên miền Bắc tu khổ hạnh, được Tắc Thiên Võ Hậu triệu vào cung nội, ban cho Tử Y. Sau ông trở về Tứ Xuyên, sống ở Đức Thuần Tự (德純寺) vùng Tư Châu (資州), chuyên tâm giáo hóa chúng sanh. Đệ tử của ông có Vô Tướng (無相) ở Tịnh Chúng Tự (淨眾寺).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập